Vac-xin và chiến lược duy trì ảnh hưởng của Nhật Bản với Việt Nam

Ảnh tư liệu : Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc (P) tiếp đón đồng nhiệm Nhật Yoshihide Suga (T) tại Phủ Chủ tịch, Hà Nội, Việt Nam, ngày 19/10/2020. AP - Minh Hoang

Thu Hằng - RFI|

Đến đầu tháng 07/2021, Tokyo tặng Việt Nam 2 triệu liều vac-xin AstraZeneca được sản xuất tại Nhật Bản : 1 triệu liều đầu tiên được giao ngày 16/06 và 1 triệu liều tiếp theo được giao thành hai đợt, vào ngày 01 và 08/07. Món quà này có ý nghĩa rất lớn, “góp phần giúp Việt Nam ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19 tại Việt Nam”, theo bộ Y Tế ngày 29/06, trong bối cảnh Việt Nam đang đôn đáo tìm mọi nguồn cung ứng vac-xin.

Phải nói rằng số 2 triệu liều được Tokyo viện trợ cho Hà Nội, chiếm gần một nửa số vac-xin mà Việt Nam nhận được từ mọi nguồn (kể cả chương trình COVAX), sắp tới là 5,3 triệu liều, trong đó 4,3 triệu liều đã nhận được đến ngày 29/06. Việt Nam là một trong những nước trong khu vực (Đài Loan, Indonesia, nhiều đảo quốc ở Thái Bình Dương…) được Nhật Bản viện trợ vac-xin trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng mở rộng “ngoại giao vac-xin” trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.

Tặng vac-xin ngừa Covid-19 cho Hà Nội cũng nằm trong chiến lược duy trì ảnh hưởng của Tokyo. Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 12 của Nhật Bản, được thủ tướng Yoshihide Suga đánh giá “là đối tác quý báu”. Đối với Tokyo, Việt Nam “đóng vai trò quan trọng để thực hiện “Tầm nhìn Ấn Độ-Thái Bình Dương mở và tự do” của Nhật Bản nhằm làm đối trọng với tham vọng mở rộng ảnh hưởng và quảng bá mô hình Trung Hoa của Bắc Kinh.

Điều này được thể hiện rất rõ qua chuyến công du nước ngoài đầu tiên vào tháng 10/2020 của ông Yoshihide Suga trong cương vị thủ tướng, kế nhiệm ông Shinzo Abe từ chức vì lý do sức khỏe. Ông Suga cũng là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên được Hà Nội đón tiếp kể từ khi đóng cửa chống dịch Covid-19. Báo The Diplopmat ngày 11/09/2020 từng nhận định “dù người kế nhiệm ông Shinzo Abe là ai, hai nước có rất nhiều lý do để mở rộng và thắt chặt hợp tác trong nhiều lĩnh vực”

Trả lời RFI Tiếng Việt qua thư điện tử ngày 03/07/2021, nhà nghiên cứu N. T., chuyên về chính sách đối ngoại của Việt Nam, phân tích một số lĩnh vực được Nhật Bản và Việt Nam tăng cường hợp tác trong thời gian gần đây.

 

*****

RFI : Để giúp Việt Nam chống dịch Covid-19, Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam hai triệu liều vac-xin ngừa Covid-19, cũng như cho một số nước khác trong khu vực. Đây có phải là chiến lược đối trọng của Tokyo trước việc Bắc Kinh liên tục tặng và bán vac-xin Trung Quốc cho các nước trong vùng ?

Nhà nghiên cứu N. T. : Bản thân tôi cho rằng việc Nhật Bản gần đây gửi tặng hàng triệu liều vac-xin AstraZeneca cho nhiều quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, không hoàn toàn là nhằm đối trọng với “ngoại giao vac-xin” của Trung Quốc, do nhu cầu vac-xin của khu vực Đông Nam Á là rất lớn và một quốc gia không thể một mình cung ứng. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn muốn duy trì ảnh hưởng của mình tại khu vực Đông Nam Á, nhất là tại các quốc gia mà Tokyo có quan hệ chiến lược như Việt Nam, Philippines, Thái Lan và Indonesia.

Ngoài ra, Nhật Bản có lẽ cũng nhận thấy rằng dù Trung Quốc đã tặng và bán hàng trăm triệu liều vac-xin cho khu vực, nhưng các quốc gia Đông Nam Á không hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vac-xin của Trung Quốc mà muốn đa dạng hóa các nhà cung cấp. Do đó, việc Nhật Bản cung cấp vac-xin đem lại cho các quốc gia Đông Nam Á thêm lựa chọn, qua đó tăng cường ảnh hưởng của Nhật Bản và giảm bớt phần nào ảnh hưởng mà Trung Quốc có được qua hoạt động ngoại giao vac-xin. Ngoài ra, Nhật Bản tặng trực tiếp số vac-xin này thay vì thông qua Quỹ COVAX, có lẽ vì muốn đảm bảo số vac-xin đến được các nước mà Nhật Bản muốn thắt chặt quan hệ.

RFI : Sau khi nhậm chức, thủ tướng Yoshihide Suga đã dành chuyến xuất ngoại đầu tiên đến thăm Việt Nam, sau đó là Indonesia. Việt Nam đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Nhật Bản ?

N. T. : Tầm nhìn Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Nhật Bản gồm 3 trụ cột : (1) Thúc đẩy pháp trị, tự do hàng hải, thương mại tự do ; (2) Thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng và củng cố quan hệ kinh tế và (3) Thúc đẩy hòa bình và ổn định thông qua tăng cường năng lực cho các quốc gia (an ninh hàng hải, phát triển nhân lực). Việt Nam có lợi ích và hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản trong cả 3 trụ cột trên.

Hai nước đều phải đối mặt với một Trung Quốc quyết đoán hơn trong tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông và biển Hoa Đông, nên đều ủng hộ một trật tự khu vực dựa trên quy tắc, tự do hàng hải và hàng không, giải quyết tranh chấp thông qua luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Hợp tác kinh tế song phương sẽ còn được thúc đẩy hơn nữa khi Việt Nam và Nhật Bản đều là thành viên của hai hiệp định kinh tế lớn trong khu vực là CPTPP và RCEP, và Nhật Bản tiếp tục hỗ trợ Việt Nam cải thiện cơ sở hạ tầng.

Và trước một Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn, Nhật Bản cũng tăng cường hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực an ninh hàng hải, như xây dựng năng lực nhận thức biển (maritime domain awareness) và thực thi pháp luật trên biển. Hợp tác quốc phòng giữa hai nước, bao gồm chuyển giao tàu tuần tra, diễn tập chung, huấn luyện và đào tạo là vì mục tiêu này. Nhật Bản hiểu rằng một khi Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông, nước này sẽ dồn lực gây sức ép với Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Do đó, những năm gần đây Nhật Bản tăng cường hợp tác an ninh hàng hải với các nước có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông, nhằm giúp các nước này xây dựng năng lực đối phó với sức ép từ Trung Quốc.

RFI : Nhật Bản đã tạo được uy tín tại Việt Nam về hợp tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng và cũng có tranh chấp với Trung Quốc về biển đảo. Liệu đây có thể là cơ sở giúp Tokyo và Hà Nội tạo niềm tin và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, trước một Trung Quốc không ngừng đòi hỏi chủ quyền trong khu vực ?

N. T. : Theo tôi, hợp tác kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn toàn là cơ sở tốt để hai nước thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng. Trong các năm gần đây, Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản không chỉ đặt chuỗi cung ứng tại Việt Nam mà còn thâm nhập vào thị trường tiêu dùng. Nhật Bản cũng là nhà cung cấp vốn ODA hàng đầu cho nhiều lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực, quản trị nhà nước, cải cách pháp luật… Do đó, chính phủ Việt Nam có sự tin cậy chính trị rất cao đối với Nhật Bản. Niềm tin chính trị cao sẽ giúp thúc đẩy hợp tác quốc phòng

Một mặt, Nhật Bản hỗ trợ chuyển giao tàu tuần tra cho lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, đồng thời mời chào Việt Nam mua máy bay tuần tra trên biển của Nhật Bản. Mặt khác, hai nước còn hợp tác trong huấn luyện và đào tạo, an ninh phi truyền thống, đối thoại chính sách. Trong chuyến thăm Hà Nội mới đây của Thủ tướng Nhật Bản Suga, hai nước đã nhất trí về một thỏa thuận cho phép Nhật Bản xuất khẩu thiết bị và công nghệ quốc phòng cho Việt Nam. Đây là bước tiến lớn để hai bên tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng.

Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại nhất định. Bất chấp những thay đổi gần đây về chính sách đối ngoại dưới thời cựu thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản nhìn chung vẫn bị ràng buộc bởi bản Hiến Pháp hòa bình của nước này, nên hợp tác quốc phòng Nhật-Việt hiện nay vẫn sẽ chỉ dừng ở các lĩnh vực ít gây tranh cãi như an ninh phi truyền thống, đào tạo huấn luyện, tìm kiếm cứu nạn. Trong chuyển giao, mua bán thiết bị quốc phòng cho Việt Nam, Nhật Bản sẽ phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt từ Nga và Ấn Độ, vốn là những đối tác quốc phòng lâu đời của Việt Nam và thiết bị của các nước này thường có giá thành dễ chịu hơn so với thiết bị của Nhật Bản.

RFI : Đại dịch Covid-19 buộc nhiều nước phải đổi chính sách, đa dạng hóa các đối tác và nguồn cung cấp. Có thể coi đây là cơ hội để Việt Nam và Nhật Bản thắt chặt hợp tác để tránh phụ thuộc vào Trung Quốc trong lĩnh vực kinh tế ?

N. T. : Việt Nam đã có chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ đối ngoại từ trước và Nhật Bản là một trong các đối tác Việt Nam mong muốn thắt chặt quan hệ. Hai nước cũng đều muốn giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc do nhận thấy những rủi ro từ sự phụ thuộc đó đối với an ninh quốc gia và trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Bản thân Nhật Bản cũng từng là nạn nhân của hành vi cưỡng ép kinh tế của Trung Quốc hồi năm 2010, khi Trung Quốc hạn chế xuất khẩu đất hiếm, một nguyên liệu quan trọng đối với ngành chế tạo công nghệ cao của Nhật Bản, sau khi quan hệ song phương trở nên xấu đi liên quan tới tranh chấp quần đảo Senkaku.

Tôi cho rằng hai nước sẽ tăng cường hợp tác hơn nữa sau đại dịch trên một loạt lĩnh vực. Ngoài các lĩnh vực nổi bật như xây dựng cơ sở hạ tầng, hai nước có thể thúc đẩy hợp tác để đưa Việt Nam trở thành một trung tâm chế tạo tại khu vực Đông Nam Á. Bản thân Nhật Bản cũng có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp nước này chuyển chuỗi sản xuất và cung ứng về Nhật hoặc sang các quốc gia Đông Nam Á. Trong đó, Việt Nam là điểm đến được lựa chọn nhiều nhất của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Tuy nhiên, sẽ rất khó để hai nước giảm hoàn toàn phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, nhất là trong chuỗi cung ứng, vì nước này vẫn sở hữu một số lợi thế lớn như nhân công tay nghề cao, cơ sở hạ tầng tốt, nhà cung ứng đa dạng và thị trường tiêu dùng lớn. Ngoài ra, quy mô sản xuất tại Việt Nam còn quá nhỏ so với Trung Quốc, trình độ lao động còn chưa cao và cơ sở hạ tầng còn kém.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu N. T., chuyên về chính sách đối ngoại của Việt Nam.