2019

Lần đầu tiên được biết về Trung Quốc.

PETER PHO - Chú Tễu| CẢM ƠN NGÀI D.TRUMP, LẦN ĐẦU TIÊN, TÔI MỚI BIẾT ĐƯỢC RẰNG ...VIỆC Ở TRUNG QUỐC NÓ NHƯ VẦY Lời dẫn: Trong cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ xẩy ra, trang blog có tên là “Mộ Lương” Trương Kiến Hoa đã đăng một bài viết nói lên nhiều điều mà một thanh niên Trung Quốc đã nhìn nhận hiểu biết được qua cuộc chiến này. Bài viết này được truyền điên cuồng trên các diễn đàn mạng và WeChat. Chính phủ Trung Quốc ra sức ngăn chặn cũng chặn không kịp. Sau đây là bài viết của Trương Kiến Hoa được lão PP dịch và rút ngắn để các bạn tham khảo: ____________________ Tôi đã làm việc cả đời và chưa hề hiểu thế nào là kinh tế, thương mại, tài chính và tôi cũng không có hứng thú lớn với những vấn đề này. Do vậy, tôi không thể hiểu được ý nghĩa của GDP, WTO và CEO. Tôi không biết cách giao dịch cổ phiếu, đầu tư cho tương lai và quản lý tài sản. Lợi ích lớn nhất của cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ là sự giác ngộ. Trong hai hoặc ba tháng, tôi đã học được rất nhiều kiến thức và thực tế mà tôi chưa bao giờ biết đến trong suốt cuộc đời mình. Lần đầu tiên tôi biết rằng mỗi tuần làm 5 ngày, được nghỉ 2 ngày cuối tuần của chúng tôi là do Hoa Kỳ bắt buộc chính phủ Trung Quốc phải thực hiện cho người dân. Lần đầu tiên, tôi biết rằng khi Trung Quốc gia nhập WTO đã có nhiều hứa hẹn. Nhưng sau một thập kỷ, hầu hết các cam kết này đã không được thực hiện. Lần đầu tiên tôi biết về thuế nhập khẩu ô tô, thuế quan của Mỹ là 2,5 và thuế quan của Trung Quốc là 25, tương đương với người dân Trung Quốc mua một chiếc xe Mỹ giá 240.000 nhân dân tệ cho mình. Họ còn phải mua một chiếc cho đảng và một chiếc cho chính phủ. Cộng với gánh nặng giá dầu của Trung Quốc đứng thứ tư trên thế giới (một gallon giá xăng chiếm thu nhập trung bình hàng ngày của các quốc gia, Hoa Kỳ là 3,1, Na Uy 3,6, Hồng Kông 8,8, Trung Quốc đại lục là 34), có nghĩa là khi mọi người thêm nhiên liệu vào ô tô của họ, ít nhất phải đổ thêm cho đảng một nửa thùng và đổ thêm một nửa thùng cho chính phủ. Lần đầu tiên, tôi biết giá dầu thô quốc tế là 147 đô la Mỹ / thùng cách đây 10 năm, giá dầu trong nước là 6,3 nhân dân tệ / lít, và bây giờ dầu thô quốc tế là 75,56 đô la Mỹ / thùng. Giá dầu trong nước đã đạt mức 7,4 nhân dân tệ / lít. (1thùng=100 lít?) Lần đầu tiên, tôi biết Trung Quốc và Nga đã ký một thỏa thuận vào năm 2013. Trung Quốc phải mua dầu từ Nga trong 25 năm với giá một thùng 145 đô la, hiện tại mua của Hoa Kỳ là một thùng 43 đô la, chênh lệch 102 đô la mỗi thùng. Lần đầu tiên tôi biết đậu nành của Trung Quốc chủ yếu được nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Giá đậu nành của Mỹ chỉ bằng 60% so với Trung Quốc. Và tôi cũng đã biết dân số nông nghiệp của Hoa Kỳ chỉ chiếm chưa đến 2% tổng dân số cả nước. Lần đầu tiên, tôi biết rằng Google đã vào Trung Quốc và sau đó bị cấm và ra khỏi Trung Quốc. Lần đầu tiên tôi biết rằng mạng viễn thông được gọi là Internet, phát minh và máy chủ gốc là ở Hoa Kỳ. Ở một phạm trù nào đó, Trung Quốc và Châu Á-Châu Phi (trừ Nhật Bản) đa phần là ăn cắp mạng chứ không thông qua đường dẫn chính quy. Lần đầu tiên tôi biết rằng con chip không phải là màng nhựa, mà là công nghệ cao chứa hàng trăm triệu tỷ mạch tích hợp. Đầu tư sản xuất chip rất lớn và chu kỳ dài, không phải do một nhóm người nghèo có thể phát minh ra. (?) Lần đầu tiên, tôi biết rằng thiết bị chính để sản xuất con chip “Mask Alignment System” Trung Quốc không làm được. Lần đầu tiên tôi biết điện thoại di động trong nước khiến người Trung Quốc tự hào chỉ là một cái vỏ. (Tất cả nội dung bên trong và con chip đều có bản quyền của Mỹ hoặc do cty Mỹ cung cấp) Lần đầu tiên tôi biết công nghệ nguyên bản và cốt lõi của “Bốn phát minh vĩ đại mới” (đường sắt cao tốc, thanh toán điện tử, dịch vụ dùng chung xe đạp và mua sắm trực tuyến), không phải do Trung Quốc phát minh ra như họ đã tuyên truyền. Lần đầu tiên, tôi biết rằng R&D là nghiên cứu và phát triển. Tôi biết mười chi phí R & D hàng đầu của các nhà sản xuất chất bán dẫn toàn cầu là Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan, không có Trung Quốc đại lục. Lần đầu tiên, tôi biết sự chênh lệch giữa chi tiêu R&D của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Ví dụ, Qualcomm chiếm 33,1% doanh thu trong năm 2016 và China ZTE chiếm 1,2% doanh thu trong năm 2017, đó là tỷ lệ đối kháng 28/1. Lần đầu tiên, tôi biết rằng trong thập kỷ qua, khối lượng tiền tệ của Mỹ đã tăng lên gấp hai lần, trong khi Trung Quốc đã tăng thêm 20 lần. Nếu không có quỹ bất động sản, lạm phát của Trung Quốc sẽ không thể tưởng tượng được. Lần đầu tiên tôi biết rằng định hướng cuối cùng của chính sách bất động sản của Trung Quốc là “sử dụng thời gian để thay đổi không gian”. Nói trắng ra là cứ kéo cho chậm lại. Lần đầu tiên tôi biết rằng nếu không có sự trao đổi và trợ giúp về quyền sở hữu trí tuệ và công nghệ cao của Hoa Kỳ, việc nâng cấp công nghiệp và kế hoạch năm 2025 của Trung Quốc rất khó đạt được. Lần đầu tiên tôi biết rằng vòng vượt kinh tế (Corner overtaking) là một khái niệm giả. Cho dù tôi không hiểu về kinh tế đi nữa. Tôi cũng biết rằng những tòa nhà tốt nhất ở các thành phố Trung Quốc là của chính phủ. Những tòa nhà tốt nhất ở châu Âu và Mỹ là những trường đại học trong đó có nghĩa ý gì. Lần đầu tiên, tôi biết rằng có nhiều yếu tố cho sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc trong hơn một thập kỷ qua, nhưng yếu tố đầu tiên là gia nhập WTO. Lần đầu tiên, tôi biết rằng Trung Quốc đã sử dụng trong thương mại quốc tế những thủ đoạn thường dùng trong nước như không điểm dừng, không tuân thủ hợp đồng, đầu cơ lừa đảo, dối trá… Lần đầu tiên, tôi biết Trung Quốc có 37 vụ kiện tụng với các quan chức thương mại nước ngoài trong hơn một thập kỷ qua. Trong đó chỉ có 2 vụ Trung Quốc thắng kiện, 3 vụ hoà và phần còn lại là thua. Lần đầu tiên, tôi biết “lợi thế của Trung Quốc” xuất phát từ các thủ đoạn thương mại không công bằng, đó là trợ cấp xuất khẩu thương mại bất hợp pháp, thao túng tỷ giá Nhân dân tệ, làm giả và đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ, ô nhiễm môi trường quy mô lớn, bỏ bê các tiêu chuẩn an toàn và sức khỏe của người lao động. Thuế quan và hạn ngạch không hợp lý. Ra giá mang tính cướp giật để đè bật đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường tài nguyên quan trọng, sau đó lừa gạt người tiêu dùng bằng giá cả độc quyền, xây dựng các rào cản bảo vệ thương mại ngăn chặn các đối thủ nước ngoài xâm nhập thị trường một cách hợp pháp. Lần đầu tiên, tôi biết rằng trong các cuộc đàm phán thương mại, các yêu cầu của Hoa Kỳ hoàn toàn bình đẳng về thuế quan, tiếp cận thị trường và quyền sở hữu trí tuệ. Hoa Kỳ nói tính tương hỗ là “bằng nhau”, nhưng Trung Quốc đã dịch nó thành “có đi có lại”. Lần đầu tiên, tôi biết Hoa Kỳ đề xuất tiếp cận mở cửa thị trường cho ngành dịch vụ tài chính và việc mở hoàn toàn mạng Internet đã chạm đến vạch cấm kỵ cuối cùng của chính phủ Trung Quốc (không phải người dân Trung Quốc). Lần đầu tiên tôi nghe thấy nhiều nhà kinh tế trên thế giới đánh giá nền kinh tế Trung Quốc như “một người béo mắc bệnh ung thư”. Tôi đã không biết điều này trong quá khứ. Ngoài sự thiếu hiểu biết của tôi, còn có một lý do quan trọng khác – Một số người đang cố gắng không cho tôi biết. Giúp tôi mở ra một cánh cửa cho tầm nhìn của tôi, có được kiến thức và nâng cao kiến thức. Vì vậy, tôi cảm ơn cuộc chiến thương mại và cảm ơn Mr. Trump. Các quan chức có quyền không có nghĩa vụ và người dân có nghĩa vụ không có quyền. Trò chơi bẩn này lộng hành ở Trung Quốc và nay lại muốn đem ra chơi trên thế giới. Cắt một củ cải ở cả hai đầu, bạn có thể cắt nó một, hai lần không sao, cắt nó mười lần tám lần, cắt nó năm mươi lần, tám mươi lần, và cuối cùng cắt mẹ nó vào ngón tay mình bằng chính con dao của mình. “Tả truyện” có nói rằng “Đa hành bất nghĩa tất tự tễ“ tức làm nhiều chuyện xấu, bất nghĩa cuối cùng sẽ tự giết mình. Còn một câu cuối là “Tử Cô Đãi Chi” (Hãy chờ đó), tôi cũng tin. PETER PHO  
......

Máy bay ném bom nho (Rosinenbomber)

Cầu không vận Berlin -  (Cầu hàng không Berlin) Tho Nguyen Nhiều người không biết rằng cách đây 71 năm, trong mùa hè 1948 đã diễn ra cầu hàng không lớn nhất trong lịch sử Thành phố Tây Berlin với hơn 2,2 triệu dân, nằm lọt thỏm trong Đông Đức XHCN, được nuôi sống bằng 75% hàng hóa từ Tây Đức. 25% còn lại là nông sản, nguyên liệu từ các vùng nông thôn Đông Đức. Theo thỏa thuận Potsdam, Tây Đức và Đồng minh được phép sử dụng 5 đường tàu hỏa, 5 đường cao tốc và 3 hành lang bay để vận chuyển hàng hóa, hành khách giữa Tây Đức và Tây Berlin. Nhưng từ đầu năm 1948, Liên Xô đã bắt đầu chặn dần các đầu mối giao thông đường bộ đường sắt đi vào Tây Berlin. Người dân Đông Đức cũng hết đường bán nông sản, củi đốt cho Tây Berlin. Sáng sớm 24.6.1948, Tư lệnh quân đồn trú Liên Xô tại Đông Đức ra lệnh cắt điện, nước từ các nhà máy phía đông sang các quận phía tây. Các nhà máy điện, nước tây Berlin vẫn làm việc, nhưng nguồn nguyên liệu chỉ dự trữ cho vài tuần. Chính quyền Tây Berlin có tính đến khả năng những cuộc khủng hoảng ngoại giao nên đã dự trữ nhiều thứ: Ví dụ như thuốc men đủ cho 6 tháng, xăng dầu đủ cho 4 tháng. Nhưng Tây Berlin là điểm dừng chân cho dòng người tỵ nạn từ khắp Đông Đức đổ về để đi sang Tây Đức. Trước khi bức thành Berlin được dựng lên hôm 13.8.1961, người Đông Đức nào muốn chạy sang Tây Đức mà không phải đi qua biên giới Đông-Tây Đức đầy mìn và dây thép gai, thường đến Đông Berlin (như kiểu ta lên thủ đô thăm Hồ Gươm), rồì lén qua phố bên kia sang Tây Berlin. Từ đó họ xin tỵ nạn và đươc chuyển bằng máy bay về Tây Đức. Do vậy đúng vào lúc Berlin bị phong tỏa đường bộ, đường sắt vào buổi trưa cùng ngày, dự trữ thực phẩm của thành phố chỉ còn đủ cho 5 tuần. Nguy hiểm nhất là than sưởi và than cho nhiệt điện chỉ đủ cho 30 ngày. Mục tiêu của Stalin là gây sức ép để phương tây từ bỏ quyền chiếm đóng Tây Berlin. Nhưng ông ta đã nhầm. Mỹ, Anh và Đồng Minh đã tiến hành một cuộc không vận tiếp tế lớn nhất trong lịch sử, không phải chỉ để cứu 9000 lính Mỹ, 7600 lính Anh và 6100 lính Pháp đang đóng ở đó, mà để duy trì cuộc sống của Tây Berlin, được coi là thành trì của „Thế giới tự do“ trong lòng CHXH. Tham gia vào chiến dịch này gồm hàng ngàn máy bay, chủ yếu của không quân Mỹ và Anh. Các nước Úc, Tân Tây Lan, Canada và Nam Phi cũng gửi máy bay tham gia. Pháp tuy là cường quốc chiếm đóng Đức, nhưng đang vướng chiến tranh Đông Dương nên chỉ cử vài chiếc “Bà già” chở hàng sang cho quân Pháp ở Tây Berlin. Để góp phần, Pháp cho phép xây sân bay thứ ba là Tegel, ngay trên vùng chiếm đóng của họ. Ngày 5.11.1948, công binh Pháp đã bàn giao sân bay với đường băng 2,42 km, được coi là dài nhất châu Âu ngày đó, cho phép máy bay vận tải hạng nặng hạ cánh và cất cánh. Sân bay Tempelhof được chia sẻ tải trọng từ đó. Còn sân bay Gatow chỉ là một bãi cỏ hạ cánh cho máy bay nhỏ. Cho đến lúc này, hàng ngày sân bay Tempelhof phải đón nhận hàng trăm máy bay vận tải các loại. Ngày cao điểm 13.8.1948 được gọi là “Ngày thứ sáu đen” vì 700 máy bay vận tải bay đen kịt bầu trời Tây Berlin để chờ hạ cánh với tần suất 2 phút một chiếc. Ở mặt đất, công nhân bốc vác làm việc với cường độ điên cuồng, rút ngắn thời gian dừng lại của mỗi máy bay từ 75 phút xuống còn 30 phút. Trên trời, máy bay phải bay thành nhiều độ cao, cách nhau 500m để không bị lạc ra khỏi 3 đường hành lang hẹp mà lực lượng phòng không Liên Xô cho phép. Đã có những cuộc tập trận bắn đạn thật của cao xạ Liên Xô dọc theo đường biên của hành lang bay. Ban đêm tỉnh thoảng đèn thám không bỗng chiếu sáng để gây rối mắt cho phi công. Sau khi thêm sân bay Tegel, hàng ngày, khoảng 1000 chuyến bay từ các sân bay Tây Đức tới Tây Berlin. Trong thời gian 11 tháng, đã có 277.569 chuyến bay, vận tải 2.1 triệu tấn hàng hóa. Người ta vận chuyển tất cả, từ khoai tây, rau xanh, sữa, muối… để nuôi sống thành phố. Berlin vốn là môt trung tâm công nghiệp nên cũng cần vận chuyển hàng hóa sản xuất ra thị trường. 74.000 tấn hàng đã được xuất đi. Nhưng quan trọng nhất là gần 1,5 triệu tấn than đá, than nâu được vận chuyển bằng máy bay: Những cân than đắt như vàng đó đã cứu sống tây Berlin trong mùa đông 1948-1949. Tuy huy động một lực lượng khổng lồ như vậy, trung bình mỗi ngày Berlin chỉ nhận được khoảng 7000 tấn hàng tiếp tế, trong khi nhu cầu trước đó của thành phố vốn đã bị tàn phá nặng nề là 10.000 tấn/ngày. Do vậy dân chúng Tây Berlin phải thắt lưng buộc bụng rất nhiều suốt trong thời gian bị phong tỏa. Khẩu phần tem phiếu được duy trì từ năm 1945, nay lại bị siết thêm. Nạn nhân chịu hậu quả nặng nhất tất nhiên là các em nhỏ. Lần đầu tiên hạ cánh xuống sân bay Tempelhof, anh phi công Mỹ Gail Halvorsen bỗng nhìn thấy những em bé đứng bên đống gạch vụn đổ nát bên ngoài đường băng đang vẫy tay. Đứa nào cũng gầy gò, thiếu ăn. Anh đến gặp bọn trẻ và hứa sẽ mang cho chúng quà bằng cách thả dù. Vì máy bay xếp hàng hạ cánh tần xuất 90 giây, nên anh bảo: phi công Mỹ Gail Halvorsen - Chú sẽ lắc cánh trước khi ném quà, các cháu đón nhặt nhé. Hôm sau anh gói ghém kẹo bánh và các túi nho khô, treo vào những chiếc dù nhỏ. Gần đến chỗ đã hẹn, anh lắc cánh vài lần rồi ném những gói quà nhỏ này xuống cho đám trẻ em đang hò hét bên dưới. Thật không thể tả nổi niềm vui của lũ trẻ khi nhặt được những gói quà nặng tình với những chiếc dù xinh đẹp. Từ đó lũ trẻ đặt cho Gail cái tên là “Chú cánh lắc” (Onkel Wackelflügel) “Chú cánh lắc” (Onkel Wackelflügel) Việc làm của Gail đã được nhiều phi công khác noi theo. Hàng ngàn những cánh dù như vậy được ném xuỗng Berlin từ độ cao vài trăm mét mỗi ngày. Những chiếc máy bay ném bom quân sự dữ tợn, đen ngòm, mới cách đó ba năm từng gieo chết chóc kinh hoàng xuống nước Đức, nay được người Đức gọi bằng cái tên thân yêu: “Máy bay ném bom nho”(Rosinenbomber)[3]. Từ đó trẻ em Berlin có một trò chơi mới, hàng ngày đi nhặt các gói quà theo những cánh dù nhỏ đáp xuống thành phố. Hành động của Gail Halvorsen đã khiến các bà mẹ Đức ở miền Tây xúc động. Họ tổ chức quyên góp, mua hàng và đóng thành các bưu kiện nhu yếu phẩm, nhờ các phi công Mỹ gửi cho các bà mẹ không quen biết ở đầu kia của đất nước. Gần ba triệu gói hàng như vậy đã sưởi ấm lòng người Tây Berlin trong mùa đông đó. Sau 11 tháng, Stalin biết là không khuất phục được Berlin, trong khi Wilhelm Pieck, chủ tịch Đông Đức thì lo ngai không khí chiến tranh có thể gây bùng nổ làn sóng tỵ nạn sang Tây Đức. Ngày 12.5.1949, mọi phong tỏa Berlin được tháo gỡ. Các cửa khẩu đường sắt, đường bộ lại được khai thông. Máy bay Đồng minh tiếp tục bay vài ngàn chuyến nữa để nâng dự trữ mọi mặt của Tây Berlin lên hai tháng “Chú cánh lắc” lái chiếc “Máy bay ném bom nho” đã trở thành biểu tượng cho tình người, tình hữu nghị. Tên của ông đã được Thành phố Berlin đặt cho một trường học và một sân thể thao. Tháng 6.2018, nhân kỷ niệm 70 năm cầu hàng không Berlin, ông “chú” 98 tuổi lại sang Berlin gặp lại các ông bà “cháu” ngày xưa nhặt nho của mình. Köln, 9.08.2019 [1]https://vi.wikipedia.org/…/C%E1%BA%A7u_kh%C3%B4ng_v%E1%BA%A… [2] https://en.wikipedia.org/wiki/Gail_Halvorsen [3] https://en.wikipedia.org/wiki/Raisin_Bombers  
......

Liệu hết Hải Dương 8 sẽ tới giàn khoan Đông Phong?

Phạm Chí Dũng - VOA| Trong khi vẫn chưa biết nguyên nhân nào đã khiến Trung Quốc rút tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 ra khỏi khu vực Bãi Tư Chính vào ngày 7/8/2019, một ẩn số kèm thách thức mới dành cho giới chóp bu (chứ không phải người dân) Việt Nam là Hải Dương 8 sẽ ‘một đi không trở lại’ và đặt dấu chấm hết cho chiến dịch ‘tống tiền’ của Bắc Kinh đối với các lô dầu khí ngon lành mà Việt Nam cùng các đối tác Tây Ban Nha và Nga đang khai thác ở Bãi Tư Chính, hay chỉ là chiến thuật rút tàu tạm thời để rồi sau đó hoặc cho tàu Hải Dương 8 quay trở lại Bãi Tư Chính, hoặc thay thế tàu này bằng một tàu khảo sát địa chất khác có tầm vóc tương đương hoặc vượt trội Hải Dương 8. Rút tàu hay chuẩn bị cho kịch bản tồi tệ? Hay ứng với kịch bản được cho là tồi tệ nhất hiện nay, nếu chưa tính đến kịch bản Trung Quốc gây ra một cuộc xung đột quân sự trên biển với lực lượng tàu chiến áp đảo hải quân Việt Nam, là tàu Hải Dương 8 sẽ được thay thế bằng một giàn khoan lớn, tức ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất của Việt Nam’ chẳng còn muốn ngụy trang bằng việc thăm dò khảo sát địa chất biển nữa, mà sẽ lao thẳng vào Bãi Tư Chính nhằm ăn cướp dầu - nguồn tài nguyên thên nhiên gần như duy nhất còn lại để chính thể độ tài ở Việt Nam dùng để nuôi đảng… Vẫn chưa có gì đáng để giới chóp bu Việt Nam ăn mừng trước tin tức Trung Quốc rút tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính. Nếu kịch bản tồi tệ trên xảy ra, những quan chức Việt vẫn tụng niệm ‘Bốn Tốt’ và Mời sáu Chữ Vàng’ sẽ đối phó ra sao? Nếu chỉ với tàu Hải Dương 8 mà hải quân Việt Nam còn bất lực và Bộ Chính trị Việt Nam còn lúng túng như gà mắc tóc trên cả trường quốc tế lẫn quốc nội, thì làm cách nào có thể đẩy đuổi cả một giàn khoan khổng lồ được hộ vệ bởi hàng trăm tàu chiến của Trung Quốc? Kịch bản tồi tệ trên không phải chỉ là một dự báo mang tính phòng xa, mà trong thực tế đã có những cơ sở khá gần về tính nguy cơ và về mặt địa lý. Đông Phương có tái hiện Hải Dương 981? Vào tháng 4 năm 2019, Trung Quốc đã thình lình tung ra động thái đưa giàn sản xuất dầu khí lớn thứ hai là Đông Phương vào Lưu vực Yinggehai ở Biển Đông. Giàn khoan này nặng 17.247 tấn, tương đương với 10 nghìn chiếc xe ôtô thông thường và rộng bằng một sân bóng đá và không thua kém gì giàn khoan Hải Dương 981 mà đã ngự trị ở Biển Đông trong năm 2014. Vụ Đông Phương hờm sẵn kịch bản tái hiện hải Dương 981 hiện ra trong bối cảnh ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng sắp công du Hoa Kỳ (nhưng cũng vào tháng 4 đó, ông Trọng bất thần bị một cơn bạo bệnh tại Kiên Giang nên chuyến đi Mỹ của ông ta phải dời lại). Vào thời điểm trên, chiến thuật ép và lấn từng bước của Trung Quốc là quá dễ nhìn ra: tùy thuộc vào thái độ của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình ra sao và liệu Trọng có ‘đi Trung trước, Mỹ sau’ hay không mà giàn khoan Đông Phương hoặc nằm yên ở vùng chồng lấn biển hoặc lao thẳng vào hải phận Việt Nam theo đúng cái cách của Hải Dương 981 vào năm 2014 - như một cú tát tai nổ đom đóm vào mặt Bộ Chính trị ở Hà Nội, nhất là với những quan chức Việt vẫn còn mộng mị ngủ ngày mà đã biến thành cơn mê sảng bi kịch trong thói đu dây quốc tế giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Song trong vụ Hải Dương 981, nguồn cơn chính yếu lại là ‘chiến tranh dầu khí’. Vào thời điểm đó, đã xuất hiện những kế hoạch khai thác dầu khí ở giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) với những đối tác nước ngoài là Repsol (Tây Ban Nha) tại mỏ Cá Rồng Đỏ ở vùng biển Đông Nam, và với Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga tại mỏ Lan Đỏ, cũng như bắt đầu có kế hoạch thăm dò khai thác với tập đoàn dầu khí khổng lồ ExxonMobil của Mỹ tại mỏ Cá Voi Xanh ở vùng biển Quảng Nam, Quảng Ngãi. Biến cố Hải Dương 981 đã kéo dài suốt vài tháng và gây ra một cơn chấn động lớn trong nội bộ đảng CSVN. Nhưng trong lúc toàn bộ đảng này không hề dám có một phản ứng ra mặt nào mà chỉ im thin thít, còn quốc hội cũng không phát ra nổi một nghị quyết về Biển Đông mà chỉ nói như vẹt về từ ngữ ‘tàu lạ’, hàng chục ngàn người dân Việt Nam đã rùng rùng phẫn nộ xuống đường biểu tình để phản kháng cú khiêu khích của Trung Quốc thông qua Hải Dương 981. Khi đó, một lần nữa châm ngôn ‘hèn với giặc, ác với dân’ đã ứng nghiệm: làn sóng biểu tình này đã bị chính quyền và công an Việt Nam đàn áp thô bạo và dã man. Trong suốt thời gian hai tháng trời phải đối mặt với Hải Dương 981, phía Việt Nam đã chỉ ‘vận động thuyết phục’ và đánh võ miệng trên mặt trận ngoại giao, nhưng không dám có bất cứ hành động đủ mạnh mẽ nào nhằm đẩy đuổi giàn khoan Trung Quốc. Thậm chí, cơ hội quá đầy đủ cho việc kiện Trung Quốc theo Công ước Liên hiệp quốc về luật Biển UNCLOS 1982 cũng không được giới chóp bu Việt Nam tận dụng. Rốt cuộc là giới lãnh đạo Bắc Kinh đã nắm thóp được não trạng chưa đánh đã sợ và tâm lý tác chiến đến mức ‘đái ra quần’ của những đồng chí tốt ở Việt Nam. Nhân đà đó, Hải Dương 981 đã có một màn khiêu vũ lòng vòng ở biển Đông, hết nằm một chỗ lại di chuyển vòng quanh nhưng chưa chịu ra khỏi vùng chồng lấn. Chỉ sau một thời gian diễu binh như thế, giàn khoan này mới thực sự rút về nước. Giờ đây, kịch bản Hải Dương 981 hoặc Đông Phương vẫn có thể tái hiện sau vụ tàu Hải Dương 8. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì Một cách ‘nhẹ nhàng’ nhất, cho dù tuyên bố rút Hải Dương 8 khỏi Bãi Tư Chính, Trung Quốc vẫn có thể cho tàu địa chất này xuất hiện trở lại vào bất kỳ lúc nào, hoặc thay thế Hải Dương 8 bằng những tàu Hải Dương khác, cho đến khi nào chán thì thôi. Trong lúc đó, các tàu hải cảnh, tàu dân quân biển và tàu thương mại dân sự vẫn thả sức chơi trò ‘vờn tàu’ với phía hải quân và ‘lực lượng ngư dân tự vệ’ được trang bị hàng chục ngàn lá cờ của Việt Nam, và nếu hứng thú thì tổ chức xịt vòi rồng hoặc đâm va… Đó là một kiểu hành hạ tinh thần giới chóp bu Việt Nam, hệt như cái cách chính quyền và công an Việt Nam đã hành hạ tinh thần và thân xác nhiều người dân bất đồng chính kiến lên tiếng phản đối vô số bất công của chế độ cầm quyền và dám xuống đường chống Trung cộng. Một khi bộ phim Bãi Tư Chính đã được Trung Quốc công diễn đến 3 lần trong ba năm liên tiếp 2017, 2018 và 2019, thì chẳng có gì ngạc nhiên nếu cuốn phim này sẽ được tái diễn vào những năm sau, đều đặn mỗi năm một lần hoặc có thể đến hai lần. Còn nếu Trung Quốc liều lĩnh điều cả một giàn khoan vào Bãi Tư Chính để ‘cùng hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam’ - như cái cách mà Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã trịch thượng yêu sách với giới chóp bu Hà Nội khi đến Việt Nam vào đầu năm 2018, đó sẽ là một thảm họa với Bộ Chính trị đảng Việt Nam. Đánh thì sợ mà không đánh thì chẳng còn ra thể thống gì. Chỗ dựa dẫm duy nhất giờ đây của Hà Nội chỉ còn là Hoa Kỳ - đối trọng duy nhất của Trung Quốc tại Biển Đông. Việc Bộ Ngoại giao Việt Nam mau mắn ra tuyên bố ‘tôn trọng tự do hàng hải’ - đồng thời với động thái hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Mỹ tiến vào Biển Đông - đã cho thấy ‘nghĩa cử’ không còn lựa chọn nào khác của một chế độ ‘văn dốt võ dát’.  
......

Các ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam đâu mất rồi?

Phạm Chí Dũng -VOA| Hơn một tháng kể từ khi đàn tàu của ‘đảng anh’ Trung Quốc xâm nhập Bãi Tư Chính như vào chốn vô chủ quyền kèm một cái tát nổ đom đóm, Bộ Chính trị ‘đảng em’ ở Việt Nam vẫn nằm nguyên trong cơn ác mộng giữa ban ngày mang tên ‘Cô đơn chiến lược’. ‘Cô đơn chiến lược’ Bất chấp giới chóp bu Việt Nam luôn ‘tự sướng’ về việc thủ đến chẵn một tá “đối tác chiến lược” trong túi, cho tới giờ này vẫn không một quốc gia nào có quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam chịu lên tiếng hỗ trợ chính thể này phản đối Trung Quốc. Hy vọng ban đầu về phản ứng của Tây Ban Nha – một trong số các đối tác chiến lược của Việt Nam và là nạn nhân gián tiếp của Trung Quốc khi Repsol, công ty Tây Ban Nha là đối tác liên doanh khai thác dầu khí với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, bị tàu Trung Quốc vây bọc và gây sức ép đến hai lần tại Bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018 để buộc tập đoàn phải rút lui khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, đã hầu như tan vỡ. Không những Repsol phải cuốn cờ tháo lui khỏi những lô dầu khí màu mỡ chưa kịp khai thác và còn muốn bắt đền phía Việt Nam gần 300 triệu USD mà tập đoàn này đã ứng ra để thăm dò dầu khí, mà cả triều đình Madrid cũng lặng tăm trước Bắc Kinh. Còn nước Nga – kênh quan hệ được xem là ‘truyền thống’ từ thời Xô viết với Việt Nam – thì sao? Cho tới lúc này, Nhà nước Cộng hòa liên bang Nga vẫn chưa có bất kỳ một phản ứng công khai nào – dù thể hiện qua kênh ngoại giao hay kênh báo chí – đối với vụ Trung Quốc gia tăng áp lực ‘tống tiền’ tại mỏ dầu khí Lan Đỏ ở vùng biển đông nam Việt Nam, cho dù Lan Đỏ là dự án liên doanh giữa VietsoPetro của Việt Nam và Tập đoàn dầu khí Rosneft của Nga, mà Rosneft là tập đoàn có cổ đông chính là chính phủ Nga. Nếu Putin và Tập Cận Bình đã hoặc sẽ thỏa thuận được với nhau một lợi ích hoặc một điểm chung chính trị nào đó lớn hơn hẳn lợi nhuận từ mỏ Lan Đỏ, mà điều này thì rất dễ xảy ra, tương lai sẽ sập cửa trước Rosneft để tập đoàn này cũng sẽ phải cuốn cờ tháo chạy khỏi vùng chủ quyền Việt Nam như Repsol đã từng như thế. Trong khi đó, điều trớ trêu đến tận cùng bi hài là Trung Quốc – vốn được giới chóp bu Việt Nam tụng ca như ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ – lại là con sói duy nhất luôn hăm he phanh xác con cừu Hà Nội. Con cừu ấy đã phải chịu nhục tại Bãi Tư Chính đến lần thứ ba. Trong vòng 3 năm liên tiếp. Trong hai lần tàu Trung Quốc vây bọc và gây sức ép tại Bãi Tư Chính vào tháng 7 năm 2017 và tháng 3 năm 2018 để buộc Repsol phải rút lui khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, đã hầu như chẳng thấy ‘người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam’ vung tay về phương Bắc, dù chỉ để ấp úng ‘phản đối’ như một lối đọc vẹt chẳng cần tới sách vở. Vào thời gian trên, cho dù có muốn loan tải những thông tin trên kèm theo thái độ phẫn nộ, một số tờ báo nhà nước cũng bị Ban Tuyên giáo trung ương – cơ quan nổi tiếng với biệt danh “vòng kim cô” – cấm cản. Chính thể độc đảng ở Việt Nam đã giấu biệt thông tin được coi là quá sức nhạy cảm này và như co rúm trong nỗi sợ hãi của lịch sử “ngàn năm Bắc thuộc” lẫn và hiện tại “mười sáu chữ vàng”. Nhớ lại 2014 là năm tung tóe vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xông thẳng vào vùng lãnh hải Việt Nam như chốn không người và như một cú vỗ mặt nảy đom đóm vào Bộ Chính trị Việt Nam. Trong cuộc khủng hoảng mang tên “Hải Dương 981” kéo dài từ tháng Năm đến tháng Bảy năm 2014, hầu hết các “đối tác chiến lược” của Việt Nam, kể cả nước Nga của Putin, đều thờ ơ hoặc quay lưng khi Việt Nam bị uy hiếp. Thế nhưng sau đó, giới chóp bu Việt Nam vẫn chưa tỉnh ngộ về thực chất “bạn vàng” là thế nào và vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách “đu dây chính trị” cho tới khi “té lộn đầu” trong ba lần khủng hoảng Bãi Tư Chính năm 2017, 2018 và 2019. Từ đó đến nay, đã không có bất kỳ một văn bản nào của Bộ Chính trị hay nghị quyết nào của Quốc Hội Việt Nam lên án hành vi xâm phạm của Trung Quốc. Cũng từ đó đến nay, giới chóp bu Việt Nam chưa bao giờ cô đơn đến thế trên trường quốc tế, dù Việt Nam đã thủ đến chẵn một tá “đối tác chiến lược” trong túi, kể cả một “đối tác chiến lược” khác là Đức mà Việt Nam đã bị quốc gia này “tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” ngay sau việc Nhà nước Đức cáo buộc mật vụ Việt Nam bắt cóc một nghi phạm kinh tế là Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin vào tháng Bảy năm 2017. Ngay cả khi Việt Nam được đặt vào ghế ‘thành viên không thường trực của Hội đống bảo an Liên hiệp quốc’ vào năm 2019… Không còn cách nào khác, tình trạng cô đơn cùng cực trên trường quốc tế cùng trạng thái mất ngủ lẫn mất ăn dầu khí đã khiến chính thể độc đảng ở Việt Nam phải tiến tới quyết định ‘bám Mỹ’, dù có muộn màng. Ươn hèn mãn tính Tháng 7 năm 2019, Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia đầu tiên lên tiếng gián tiếp ủng hộ Việt Nam trong vụ Bãi Tư Chính, dù quốc gia này vẫn chưa phải là ‘đối tác chiến lược’ của Việt Nam. Nhưng từ đó đến nay, người Mỹ vẫn không có động thái quân sự thực chất nào để ‘dằn mặt’ Trung Quốc tại khu vực Bãi Tư Chính. Hành động mới nhất của Washington là điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan – chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, với sức chứa lên đến hơn 70 máy bay phản lực siêu thanh F18, trực thăng và máy bay trinh sát – tới Biển Đông vào ngày 6/8/2019. Tuy nhiên chưa có gì chắc chắn là hàng không mẫu hạm này sẽ trực tiếp can thiệp hay có một tác động nào đó tới Bãi Tư Chính nếu đối chiếu với yêu cầu can thiệp sâu hơn nhiều của chế độ bị xem là ‘hèn với giặc, ác với dân’. Hiện tượng trên là khá trái ngược với những năm gần đây khi, Mỹ không chỉ phản ứng bằng hành động ngoại giao mà còn cho máy bay chiến đấu và tàu chiến tuần tiễu, tàu khu trục vào vùng biển và không gian Biển Đông để răn đe hoạt động cường bá của Trung Quốc. Vì sao vào lần này Mỹ có vẻ thay đổi thái độ mà không hoặc chưa có những hành đông cụ thể hỗ trợ Việt Nam? Chung quy cũng tại thói du dây trả treo của Hà Nội. Cho đến tận lúc này, não trạng ngả ngớn đu lắc và õng ẹo đu dây chính trị vẫn bị nén chặt trong những cái đầu bí bách và bế tắc của giới chóp bu Việt Nam. Não trạng luôn duy trì hy vọng đầy ảo tưởng vào tình cảm ‘bốn tốt’ và ‘mười sáu chữ vàng’ với Bắc Kinh đã dẫn đến hậu quả là cho đến nay, dù đã xảy đến ba lần bị Trung Quốc ‘tát tai’ ở Bãi Tư Chính, vẫn chẳng có bước tiến đáng kể nào trong mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ, trong khi sự hiện diện của hải quân và không quân Hoa Kỳ tại quân cảng Cam Ranh lẽ ra đã phải được ưu tiên số một. Và lẽ ra tại Cam Ranh giờ đây đã phải có hình ảnh thường trú của một hàng không mẫu hạm Mỹ. Giờ đây, người Mỹ còn phải chờ Hà Nội có dám tự đi trên đôi chân của mình hay vẫn theo thói đu dây chính trị kiểu ‘vừa lắc vừa quỳ’. Thói ươn hèn mãn tính là tác nhân của căn bệnh nhũn não dài hạn và mất đứt lãnh thổ. Ngay cả lúc bị kẻ cướp xông vào nhà mà còn không dám la làng thì làm sao còn tinh thần chống giặc! Nếu không chịu từ bỏ phần lớn chủ trương đu dây chính trị, biểu thị thái độ phản ứng dứt khoát đối với sự gây hấn của Bắc Kinh và xoay trục về phía Hoa Kỳ một cách thực chất, chính thể Việt Nam thậm chí sẽ không còn nhận được sự hỗ trợ ngoại giao và quân sự từ Washington, trong lúc cả tá đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam chắc chắn sẽ bất động và khiến Hà Nội lâm vào cảnh bị Bắc Kinh bắt nạt thậm tệ – không khác gì cái cách chính quyền Việt Nam thẳng tay đàn áp dân chúng tại quốc gia này./. Nguồn ảnh: CTM Media - Âu Châu    
......

Hậu quả của chính sách đối ngoại “đu dây“ và quốc phòng “ba không“

Chính Luận Trần Trung Đạo| Theo dõi phản ứng của Trung Cộng (TC) trước mọi biến cố quốc tế nhất là về tranh chấp lãnh thổ sẽ thấy các lãnh đạo đảng CSTQ từ Đặng Tiểu Bình đến Tập Cận Bình chỉ áp dụng một chính sách, đó là đối phó riêng biệt với từng quốc gia xung đột và qua đó có biện pháp thích nghi. Có những trường hợp TC nhượng bộ như đối với Bắc Hàn, thỏa hiệp như đối với Brunei hay cứng rắn không khoan nhượng như đối với CSVN. Với một ASEAN không thống nhất quan điểm về tranh chấp Biển Đông, sách lược cổ điển trích trong chương đầu của Binh Pháp Tôn Tử này đang đem lại vài thành quả cho TC. Nắm được chủ trương của TC, TT Philippines, Benigno Aquino Jr., tháng Giêng 2013, đã tranh thế thượng phong bằng cách thách thức TC trước tòa trọng tài quốc tế và Philippines đã thắng. Chính phủ Philippines không sa vào cái bẫy “đàm phán song phương” do TC bày ra để kéo dài từ năm này qua tháng nọ như TC đã từng làm với Liên Sô từ thập niên 1960 cho đến khi Liên Sô tan rã 1991. TC, ngoài miệng phủ nhận giá trị của phán quyết nhưng cùng lúc tìm cách làm dịu với Philippines thay vì dùng các biện pháp cứng rắn để trả đũa. Tập Cận Bình thỏa hiệp với Brunei, một nước nhỏ nhưng là một thành viên của ASEAN và một trong bảy nước liên quan đến tranh chấp chủ quyền Trường Sa. Tập Cận Bình biết mục đích của Sultan Hassanal Bolkiah đơn thuần là quyền lợi kinh tế và ổn định chế độ độc tài chứ không phải là chiến lược quân sự. Lòng tham không đáy của Hassanal Bolkiah đã được Tập Cận Bình thỏa mãn khá dễ dàng như y đã áp dụng với các nhà độc tài Phi Châu. Với việc thành lập Brunei-China One Belt One Road Association vào cuối năm 2018, Hassanal Bolkiah coi như chính thức đội trên đầu cái vòng kim cô của họ Tập ban cho. Với Việt Nam, Tập Cận Bình chủ trương cứng rắn, đe dọa, hiếp đáp. Lý do, không giống như Philippines và TC, quan hệ giữa CSVN và TC thực chất là quan hệ giữa hai đảng CS chứ không phải hai nước. Tập Cận Bình đi trong gan ruột của giới cầm quyền CSVN. Y biết CSVN không dám kiện như Philippines đã làm. Đưa nhau ra tòa là một hình thức chiến tranh, chặt đứt cầu quan hệ. Cả hai đảng đều biết CSVN không thể tự đứng một mình. Nếu tách ra khỏi quỹ đạo TC và mở rộng quan hệ mật thiết về kinh tế chính trị với các nước dân chủ phương Tây, không sớm thì muộn đảng CS sẽ mất quyền cai trị đất nước. Dù đã nhiều lần bị “cho roi cho vọt”, trong năm nước CS tàn dư chỉ có TC và CSVN là hai nước có cùng một cơ chế độc tài gần như rập khuôn nhau. CSVN phải dựa vào TC về mặt lý luận, tư tưởng và đường lối cai trị để tồn tại. Ban Tuyên giáo Trung ương CSVN hợp tác chặt chẽ, viếng thăm và học tập hàng năm với Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc CSVN sợ mất quyền cai trị đất nước nên từ 1990 đến nay đã cam tâm đứng nhìn bầy chuột đồng TC gặm nhấm từng phần đất nước. Sau chiến tranh biên giới 1979, TC tiếp tục các trận chiến xoi mòn như trận Cao Bằng 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên 1984, Lão Sơn Hà Giang 1984, Vị Xuyên lần nữa 1985, 1986, Gạc Ma 1988. Quyền lợi của đảng CSVN luôn được giới lãnh đạo đảng đặt trên sự sống còn của dân tộc. Đất nước, biển trời, quê hương, tổ quốc chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền treo trước cổng ngân hàng của các ủy viên trung ương, ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN. Chính sách quốc phòng “ba không” Để làm vừa lòng TC, CSVN theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Chính sách quốc phòng “ba không” căn bản là nguyên tắc trung lập về quốc phòng và chỉ có hiệu quả nếu các bên trong vòng xung đột tôn trọng luật quốc tế, các cam kết quốc tế và tôn trọng nhau. Trong tranh chấp Biển Đông, chính sách quốc phòng “ba không” chỉ có lợi cho TC. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình, và nếu cần, tạo thế chiến lược trong chiến tranh. Không. Thay vì tận dụng mọi công pháp quốc tế, gây cảm tình trong dư luận thế giới, gây căng thẳng, gây chú ý và nếu cần chủ động gây bất ổn giữa các cường quốc có quyền lợi trong khu vực tranh chấp ở Biển Đông, CSVN chọn chính sách ngoại giao “đu dây”. “Đu dây” (tightrope diplomacy) là tự sát. So sánh các không ảnh chụp Biển Đông năm 1995 và Biển Đông năm 2017 sẽ thấy khác nhau rất nhiều. Chính sách chuột đồng của TC không hề thay đổi. TC tiếp tục bành trướng Biển Đông và đặt thế giới vào chuyện đã rồi qua các “status quo” đang được họ Tập cho xây dựng. Trong lúc đó CSVN tiếp tục “đu dây”, tiếp tục nhún nhường và tiếp tục lùi dần trước những lấn áp, răn đe của TC. Hai bài học về bang giao quốc tế cần phải học. Tito của Nam Tư và mầm mống tai họa của chính sách đối ngoại “đu dây”. Josip Broz Tito, nhà độc tài Nam Tư từng áp dụng chính sách đối ngoại “đu dây” trong Chiến tranh Lạnh để duy trì quyền cai trị. Các nước trong phe dân chủ Tây phương o bế Tito hơn bất cứ một lãnh đạo CS nào, nhưng sau khi phong trào CS Châu Âu sụp đổ, Mỹ buông đầu dây và quốc gia liên bang này rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu suốt mười năm. Ismet Inonu của Thổ Nhĩ Kỳ và chọn lựa sáng suốt đứng về phía Tây phương. Một buổi sáng tháng 4, 1946 bên bờ vịnh Istanbul, cả Tổng thống Ismet Inonu và Thủ tướng Sukru Saracoglu của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, đều có mặt để chào đón chiến hạm USS Missouri. Trong diễn văn chào mừng, Thủ tướng Sukru Saracoglu phát biểu: “Nước Mỹ, người con yêu quý của thế giới cũ mà chúng ta đang sống, đang bước những bước can đảm, vững chắc trên con đường tạo ra một trật tự quốc tế hòa bình và một thế giới đoàn kết bằng việc cầm chắc ngọn cờ nhân đạo, công lý, tự do và văn minh.” Sau chuyến viếng thăm của USS Missouri, Stalin ra lịnh gia tăng sự hiện diện quân sự tại Hắc Hải nhưng không dám bắn một viên đạn nào và cuối cùng rút êm. Về mặt địa lý chính trị, xung đột Eo Biển Thổ (Turkish Straits) giữa Thổ và Liên Sô khá giống xung đột giữa Việt Nam và TC. Nếu chính phủ Thổ cũng áp dụng chính sách “đu dây” giữa Mỹ và Liên Sô, số phận của Eo Biển Thổ chưa biết ra sao và Thổ Nhĩ Kỳ chắc chắn đã không là thành viên của NATO. TC năm 2018 không khác gì Liên Sô năm 1946. Vị trí chiến lược của Biển Đông đối với Việt Nam cũng quan trọng như Eo Biển Thổ đối với Thổ Nhĩ Kỳ. So sánh giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam để thấy có một điểm khác nhau duy nhất, đó là quyết tâm của giới lãnh đạo hai quốc gia. Từ một con người cho đến một đất nước, tại một thời điểm nào đó trên hành trình phải chấp nhận những thách thức và hiểm nguy để thay đổi hướng đi. Thổ dứt khoát thay đổi để thích ứng với xu thế thời đại và CSVN tiếp tục bang giao theo kiểu “đu dây” giữa Mỹ và TC để duy trì chế độ. Làm gì? Bạn có thể là người ủng hộ chiến lược bao vây TC của Mỹ, có thể là người ủng hộ chính sách “đu dây” của đảng CSVN, hay là người quan tâm đến nền dân chủ và thịnh vượng lâu dài cho dân tộc. Trong ba mẫu người đó, chỉ có những ai quan tâm đến lối thoát dân chủ mới là người thật sự đặt lợi ích của đất nước lên trên hết. Như lịch sử các quốc gia cựu CS cho thấy chỉ có dân chủ mới bảo vệ được đất nước và cũng chỉ có dân chủ mới tập trung được sức mạnh tổng hợp của dân tộc làm nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu dài. Trong số 35 người thành lập Phong trào Độc Lập Lithuania không phải ai cũng là trí thức, học nhiều hiểu rộng mà từ nhiều thành phần xã hội khác nhau, quá khứ khác nhau. Một giáo sư đại học ngồi chung bàn với một anh kéo màn sân khấu để cùng lo chuyện nước non. Cách mạng dân chủ Lithuania thành công vì tất cả cùng có một thái độ dứt khoát với chế độ CS và một mục đích “thoát Liên Sô”. Đừng quên, Lithuania giành được độc lập và bước vào tiến trình dân chủ hóa trước khi Liên Sô sụp đổ. Việt Nam cũng thế. Đây là thời điểm lịch sử để những người yêu nước ở mọi nơi, mọi thành phần cùng bước ra ánh sáng để nhận lãnh trách nhiệm bảo vệ chủ quyền đất nước bắt đầu bằng nỗ lực dân chủ hóa Việt Nam trong thời gian nhanh nhất. Yêu dân chủ là yêu nước, bởi vì, dân chủ hóa Việt Nam là con đường “thoát Trung” bền vững, lâu dài và hiệu quả nhất.
......

Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng: Trung Quốc vào Tư Chính là để thách đố Mỹ và Việt Nam?

Phạm Trần - huynhngocchenh.blogspot   ”...quyền lơi ích kỷ, áp lực và chính sách chia để trị của Trung Quốc cùng với sự nghi ngờ về khả năng và quyêt tâm của Hoa Kỳ khiến cho các quốc gia trong khối ASEAN không dám bênh nhau để cùng đương đầu vơi Trung Quốc...” *Nga và ASEAN có thể làm gì cho hòa bình Biển Đông? Lời giới thiệu : Trung Quốc đã bất chấp luật pháp Quốc tế để đem tầu Hải Dương 8 vào thăm dò dầu khí bên trong vùng Đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực bãi Tư Chính, cách Vũng Tầu khoảng 370 cây số về hướng Đông nam, từ ngày 03/07/2019 Việt Nam đã khẳng định chủ quyền vùng biển này và đòi Trung Quốc rút lui, nhưng Trung Quốc vẫn ở lại và còn quả quyết đây là lãnh thổ của họ. Vậy Hoa Kỳ, cường quốc số một Thế giới, đang đứng ở đâu trong cuộc tranh chấp này, và liệu chính quyền Donal Trump có sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh ở Biển Đông ? Để trả lời cho câu hỏi này và vì sao đã không có biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam, xin mời bạn đọc theo dõi toàn văn bài Phỏng vấn độc quyền của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quôc tê ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Ishak Institute, Tân Gia Ba. Các bài nghiên cứu của ông, phần lớn về Á Châu và Đông Nam Á đươc đăng trên các Tạp chí chuyên môn (professional journals) như World Affairs, Asian Survey, Pacific Affairs, Global Asia, The Diplomat, Asia Pacific Bulletin và CogitAsia.   Sau đây là toàn văn Bài Phỏng vấn: Tại sao Tư Chính? H: Thưa Giáo sư, tại sao Trung Quốc chọn vùng biển bãi Tư Chính mà không phải nơi khác để tìm kiếm dầu khí vào thời điểm này? Đ: Trung Quôc đưa tầu thăm dò địa chất Hải Dương 8 vào vùng biển bãi Tư Chính với mục đích áp lực không cho Việt Nam khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên vùng biển nằm trong đường lưỡi Bò của Trung Quốc, một đòi hỏi căn cứ trên lịch sử sai lầm (theo Bill Hayton của viện nghiên cứu Chatham House) và trái với luât quốc tế (Luật Biển 1982 và phán quyết của Tòa án Trọng tài Thuờng trực Quốc tế năm 2016). (Chú thích: Hình lưỡi Bò, còn được gọi là Đường 9 đoạn, chiếm ¾ của diện tích 3.447.000 cây số vuông Biển Đông). Trong liền hai năm, 2017 và 2018, Trung Quốc đã thành công trong áp lực không cho Việt Nam khai thác dầu khí ở hai lô (lô 136/03 và 07/03) thuộc vùng biển bãi Tư Chính. Lần này, Việt Nam khởi động khoan dầu ở môt lô khác, lô 06/01, cũng trong vùng biển bãi Tư Chính nên Trung Quốc lại tìm cách ngặn chặn. H: Việc Trung Quốc đem tầu thăm dò dầu khí Hải Dương 8 vào bên trong vùng đặc quyền kinh tế 200 Hải lý của Việt Nam có ý nghĩa chính trị và địa lý như thế nào đối với tham vọng chủ quyền Biển Đông của Bắc Kinh? Đ: Trung Quốc muốn áp đặt chủ quyên của mình và khai thác tài nguyên trên vùng biển trong đường lưỡi Bò bằng chính sách “tầm ăn dâu.” Sau khi đã đặt đươc chân đứng trong quần đảo Trường Sa, Trung Quôc bắt đầu xây 7 đảo nhân tạo của họ từ năm 2014. Sau đó, với việc cải tạo bồi đắp và quân sự hóa đá Chữ Thập, bãi Vành Khăn và bãi Xu Bi năm 2017 Trung Quốc đã đạt được thế thượng phong để áp dụng chiến thuật mà giáo sư Carl Thayer gọi là “chiến thuật vùng xám” (grey zone tactics) phối hơp các phương tiện chính trị, kinh tế và quân sự, đặc biệt là dùng các tầu đánh cá dân sự đươc hỗ trợ bởi các tầu Hải giám và lực lương Dân quân biển để biến vùng biển thuộc chủ quyền các nước khác thành vùng tranh chấp. Trung Quôc đã làm viêc ấy đối với Philippines ở vùng biển đảo Thị Tứ hồi tháng 3, với Malaysia ở vùng biển đảo bãi Luconia hồi tháng 5, và với Việt Nam bây giờ. H: Ông lý giải ra sao về việc Bộ Ngoại giao Việt Nam phải đợi cho đến ngày 19/07 (2019), tức sau 16 ngày sau khi Trung Quốc đem tầu tìm dầu và các tầu có võ trang hộ tống vào vùng Tư Chính hoạt động (từ ngày 03/07/019), mới chính thức lên án Trung Quốc “vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông” và “yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam” ? Đ: Việt Nam bắt đầu khoan dầu tử tháng 5. Đầu tháng 7 Trung Quóc mới đưa tầu Hải Dương 8 đến khảo sát địa chất. Hai bên vờn nhau cả tuần nhưng không bên nào công bố vì không muốn làm lớn chuyện. Cho đến khi Việt Nam thấy cần công khai lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”, và đòi Trung Quôc rút toàn bộ tầu ra khỏi vùng này. Đó là tiến trình tự nhiên, theo thứ tự thời gian. Từ Hải Dương 981 đến Hải Dương 8 H: Nếu so với vụ Trung Quốc đem tầu Hải Dương 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014 (từ ngày 01 tháng 5, 2014 - 16 tháng 7, 2014) thì Giáo sư đánh giá vụ Hải Dương 8 vào vùng Tư Chính năm 2019 có mức độ nghiêm trọng như thế nào ? Đ: Sự kiện năm 2014 nghiêm trọng hơn. Năm ấy, tầu HYSY 981 được khoảng 100 tầu lớn nhỏ của Trung Quốc bảo vệ trong số đó có 7 tầu quân sự; tầu hai bên xô xát và bắn nước vào nhau dữ dội, công thêm với các cuộc biểu tình và bạo động ở trên đất liền. Lần này, tầu Hải Dương 8 lúc đầu chỉ được hai tầu hải giám hộ tống, Ngoài ra, lần này viêc khoan dầu đươc Việt Nam trao phó cho công ty Rosneft, môt công ty mà chính phủ Nga là một cổ đông. Và thế của Rosneft mạnh hơn thế của công ty tư nhân Repsol của Tây Ban Nha. H: Khi xẩy ra vụ Hải Dương 981, người Việt Nam cả trong và ngoài nước, kể cả giới trí thức, không phân biệt chế độ chính trị, đã lên tiếng phản đối Trung Quốc. Nhiều cuộc biểu tình chống các Công ty của Trung Quốc cũng đã xẩy ra ở Việt Nam. Ngược lại, năm nay (2019) người dân đã không có phản ứng như thế sau vụ Tư Chính. Giáo sư nghĩ sao về sự kiện này? Chẳng lẽ tinh thần “bài Trung”, trước hiểm họa chủ quyền lãnh thổ và biển đảo bị mất vảo tay Bắc Kinh đã mờ nhạt trong tâm trí người Việt? Hay là vì bị Chính quyền đàn áp trong các vụ biểu tình chống Tầu trong qúa khứ mà người dân đã làm ngơ, mặc cho nhà nước lo? Đ: Không phải không có chỉ trích chính quyền, nhưng biểu tình lớn thì không có. Mệt mỏi và chán nản như ông nghĩ cũng có lý. Ngoài ra, có thể có nhiều lý do khác: Thứ nhất, cuôc khủng hoảng lần này không nghiêm trọng bằng lần trước. Thư hai, chính quyền Việt Nam đã học được bài học và kinh nghiệm đối phó với Trung Quôc cũng như đối với ngươi dân. Lần này, họ công khai chống đôi Trung Quôc. Họ nêu đích danh Trung Quôc để chỉ trich trươc thế giới và trên diễn đàn khu vực ASEAN chứ không còn phải nấp sau từ “tầu lạ” hay “hữu nghị viển vông.” Thư ba, nội bô đảng Công sản không chia rẽ trầm trọng như 5 năm trước để người ngoài có thể dễ khai thác. Thứ tư, môt số nhân vật có quá khứ cách mạng và uy tín có thể gây cảm hứng và làm lá chắn cho các cuộc biểu tình hoặc đã qua đời hoăc quá già. Thư năm, trong thởi điểm này không có các công ty Trung Quốc ở Việt Nam có hành động gây căm phẫn biến họ thành cái đích rõ rệt để chông đối và bạo động. Mỹ và Biển Đông H: Vào ngày 20/7 (2019) vừa qua, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ (MORGAN ORTAGUS) đã đưa ra lời tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ Tư Chính, có lợi cho lập trường ở Biển Đông của Việt Nam. Giáo sư có nghĩ rằng khi Chính quyền Mỹ lên tiếng như thế là họ muốn kéo Việt Nam ra khỏi qũy đạo của Trung Quốc, hay vì lý do nào khác? Đ: Với tuyên bố ấy, họ vửa chỉ trích và răn đe Trung Quốc vừa hỗ trợ lập trường của Việt Nam đồng thời khuyến khích Việt Nam và các quôc gia Đông Nam Á mạnh dạn chống sự bắt nạt và cưỡng chế của Trung Quốc. Trươc đó, tháng 10 năm ngoái trong một cuộc phỏng vân với Hugh Hewitt, cô vấn an ninh quốc gia của Hoa Kỳ John Bolton coi viêc Trung Quốc quấy nhiễu tầu tuân tra của Mỹ ở Biển Đông là hành động “nguy hiểm,” và khẳng định Hoa Kỳ không chấp nhận để Trung Quốc biến vùng này thành “một tỉnh của Trung Quốc.” Ông còn tuyên bố “chúng tôi sẽ tim cách khai thác thêm các tài nguyên khoáng sản ở Biển Đông dủ có hay không có sự họp tác của Trung Quốc.” Đôi với Việt Nam, dự án khai thác dầu khí Cá Voi Xanh ở lô 118, cách Việt Nam 88 cây số và nằm ngoài đường lưỡi bò, sẽ là thử nghiêm xem lời nói của Hoa Kỳ có đi đôi vơi việc làm hay không. Từ tháng 3 năm 2017, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Tập đoàn ExxonMobil của Mỹ đã ký kết thỏa thuận hơp tác trong dư án mỏ khí Cá Voi Xanh. Năm tháng sau, Thủ Tương Viêt Nam Nguyễn Xuân Phúc thúc dục ExxonMobil “chính thức khởi động” dự án này để đánh dấu thời điểm lịch sử khi Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump thăm Việt Nam và dự Hội nghị Thương Đỉnh Họp tác Kinh tế Á châu Thài Binh Dương (APEC) vào tháng 11 năm 2017 (tại Đà Nẵng). Lúc ấy cựu Chủ Tịch ExxonMobil ( Rex W. Tillerson) đang là Ngoại trưởng Hoa Kỳ nhưng tập đoàn này không nhúc nhích. Phải đợi một ngày sau khi hội nghị bắt đầu, đương kim chủ tịch của tập đoàn Exxon Mobil mới thông báo dư án sẽ hoàn thành “thủ tục ban đầu vào cuối năm nay (2017), và năm 2018 sẽ chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật cần thiết. Đến 2019, dư án sẽ đưa vào khai thác mỏ này.” Chỉ còn 4 tháng là hết năm 2019. Thử xem Hoa Kỳ sẽ làm gì để hỗ trợ cam kết của ExxonMobil. H: Xin Giáo sư đánh giá chính sách ở Biển Đông của Chính quyền Trump trước sự bành trướng ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Trung Quốc ở Á Châu-Thái Bình Dương dưới thời Tập Cận Bình? Đ: Mỹ muốn đóng vai trò trội yếu và không muốn Trung Quôc độc chiếm Biển Đông. Để thưc hiện mục tiêu này, chính quyên Obama (năm 2008) đưa ra chính sách “xoay trục” về Á châu Thái Bình Dương đươc hỗ trợ bằng Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, Trans-Pacific Partnership), tái phối trí lực lượng quân sự từ Trung Đông sang Á châu, tăng cường hơp tác chiến lược vơi các đối tác Á châu, và các cuộc tuần tra bảo vệ tư do hàng hải. Chính quyền Trump đưa ra chiến lược Ân Đô-Thái Bình Dương nhằm lôi kéo Ấn Độ vào chính sách ngăn chặn sự bành trương của Trung Quốc và muôn có cái tên khác với tên do chính quyền Obama đặt ra. Ngay từ đầu, chính sách này vấp phải hai điều bất lợi. Việc đơn phương rút khỏi hiêp đinh TPP khiến Hoa Kỳ mất một đòn bẩy kinh tế của chiến lươc quân sự đồng thời làm xói mòn lòng tin của các đồng minh và đối tác của mình về quyêt tâm và khả năng giúp họ chống lại sức ép của Trung Quốc. Hành động này tạo khoảng trống giúp Trung Quôc cơ hội khai thác vai trò lãnh đạo kinh tế khu vực của mình với chủ trương thương mại tư do và kế hoạch “môt vòng đai, môt con đường” nối liền Á châu với Âu Châu và Phi Châu mà trung tâm là Trung Quốc. Ngoài ra, việc Trung Quốc thành công trong việc cải tạo bồi đắp và quân sự hóa tam giác đá Chữ Thập-bãi Vành Khăn-bãi Xu Bi đã tạo đươc thế thương phong chiến lược của Trung Quốc trong vùng biển này khiến Tư Lệnh Lưc Lương Thái Binh Dương cũa Mỹ, Đô đôc Philip Davidson phải kết luận rằng “Ngày nay, Trung Quôc có khả năng kiểm soát Biển Đông trong mọi tình huống trừ khi có chiến tranh với Hoa Kỳ.” Chiến lược Ân Độ-Thái Bình Dương là môt chiến lươc mà nội hàm đang đươc khai triển nên phải theo dõi kỹ. Có những điểm cần để ý sau đây: Thư nhất, vì kinh nghiêm và khả năng cá nhân, Tổng Thống Donald Trump quan tâm đến quyên lợi kinh tế, đến việc buôn bán và đổi chác (making deals) hơn là quan tâm chiến lược. Thứ hai, hầu hết các tuyên bố cứng rắn đôi với Trung Quôc từ phia Hoa Kỳ đều do giới quân sự phát biểu, nhưng vị Tổng tư lệnh tối cao của họ lại tập trung vào viêc chỉ trích Trung Quôc về chính sách kinh tế trong khi vẫn ve vuốt, khen ngợi Chủ tich Trung Quốc Tập Cận Bình, ngay cả cách ông này đối phó với cuộc biểu tình chông Trung Quôc ở Hong Kong. Gân đây, nhất là sau vụ bãi Tư Chính, có một số thay đổi trong các tuyên bố của Mỹ. Bên ngoài thì, cùng với bộ Quốc phòng, cả bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ đều nhập cuộc, lên án hành động “bắt nạt” của Trung Quôc ở Biển Đông. Bên trong Nhà Trắng, một số cố vấn Tổng Thống, như đại diên thuơng mại Robert Lighthizer và cố vân thương mại PeterNavarro đều có thái độ cưng rắn với Trung Quôc. Thư Ba, hành đông đơn phương, và đôi khi dường như bất nhất của Tổng Thông Trump làm xói mòn lòng tin và, do đó, sư hơp tác chân thành của các đông minh và đối tác của Mỹ trong viêc đối phó với Trung Quốc. Thư tư, quan hệ đặc biêt của Tổng Thống Trump với lãnh đạo Do Thái và Á Rập cuốn Mỹ vào tranh chấp với Iran. Nếu Mỹ bị sa lầy ở Trung Đông thì chiến lược Ân Độ-Thái Bình Dương khó có thể thực hiện đến nơi đến chốn. Thư năm, trươc áp lực của giơi tư bản và nông dân Mỹ bị thiêt hại vì cuôc “chiên tranh thương mại” Mỹ-Trung và vì nhu cầu tranh cử năm 2020, chính quyên Trump cần môt nhân nhượng của Trung Quôc đê có môt cái gọi là thắng lơi ngoai giao, Tổng Thông Trump có thể đổi chác để bám lấy thị trương Trung Quốc. Đổi chác ấy, nếu có, sẽ thiệt hại cho ai? Nga- ASEAN- Biển Đông H: Nước Nga trong thời đại của Vladimir Putin có tạo được ảnh hưởng gì với Mỹ, Trung Quốc và ASEAN trong nỗ lực giải quyết tranh chấp ở Biển Đông? Đ: Sưc mạnh quân sư và kinh tê của Nga thua xa Mỹ. Putin chỉ có khả năng làm kẻ phá bĩnh (a spoiler), gây khó khăn cho Mỹ ở cả Á châu và Âu châu. Đối với Biển Đông, vì mối quan hệ đặc biệt với cả Trung Quốc và Việt Nam, Putin, có thể giúp Việt Nam tăng cường khả năng quân sự, và nếu Trung Quốc đồng ý, có thể đóng vai trò con thoi, can gián, và làm trung gian hòa giải giũa Việt Nam và Trung Quôc H: Thưa Giáo sư, tôi không thấy có nước nào trong khối ASEAN 10 quốc gia lên tiếng về vụ Tư Chính của Việt Nam. Tại sao? Đ: Chỉ trích Trung Quốc thì có, nhưng họ chỉ nói đến sự xâm phạm của Trung Quốc tới vùng biển của họ, như Phi luật Tân đôi với vùng biển đảo Thị Tứ (tháng 3) và bãi Scarborough (tháng 7), Malaysia với vùng biển bãi Luconia (tháng 5), chứ không lên án Trung Quốc về vụ bãi Tư Chính. Ngay cả thông cáo chung ngày 31 tháng 7 của ASEAN cũng chẳng đả động đến vụ bãi Tư Chính, chẳng chỉ đích danh Trung Quốc mà chỉ nói mù mờ về “những sự cố nghiêm trọng đang diễn ra trên Biển Đông”. Đó là thái độ “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại,” nghi ngờ quyêt tâm bảo vệ của Mỹ, không muốn làm mếch lòng Trung Quốc với hy vọng đươc nươc này ban riêng cho môt nhượng bộ nào đó. Riêng Phi luật Tân, Tổng Thông Rodrigo Duterte đã nói rõ ông không tin vào cam kêt của Mỹ dù họ đã ký hiệp ươc phòng thủ chung với Phi, vì thê Phi phải hòa hoãn với Trung Quôc. Ông tuyên bố một mình Phi không đánh nổi Trung Quốc, và thách thức nếu Hoa Kỳ thực sự muôn đẩy Trung Quốc ra khỏi Biển Đông thi hãy “đưa toàn thể Hạm đội 7 vào Biển Đông.” Lúc ấy Phi” sẽ theo ngay sau lưng Hoa Kỳ” và còn hô hào đánh bom tan nát hạm đôi Trung Quôc. Nói tóm lại, quyền lơi ích kỷ, áp lực và chính sách chia để trị của Trung Quốc cùng với sự nghi ngờ về khả năng và quyêt tâm của Hoa Kỳ khiến cho các quốc gia trong khối ASEAN không dám bênh nhau để cùng đương đầu vơi Trung Quốc. (08/019) Phạm Trần  
......

Hong Kong, nhìn từ Trung Nam Hải

Cuộc kháng cự của người dân Hong Kong trước con rồng Đại lục đã đến thời khắc quyết định. Ảnh: FT Tầm quan trọng kinh tế của Hong Kong trong mối tương quan với Trung Quốc đã giảm đáng kể, nhưng Trung Quốc không thể tránh khỏi áp lực từ các sự kiện gần đây. *** Hường Quyền Lược dịch từ bài viết How Beijing sees Hong Kong, của Giáo sư Kerry Brown, giảng dạy bộ môn Trung Quốc học tại King’s College, London; đăng ngày 04 tháng 8 năm 2019 trên Inside Story. *** Nhìn lại lịch sử, Hong Kong đã trải qua nhiều thử thách. Bạo loạn lan rộng xảy ra trong thời điểm Cách mạng Văn hóa là bằng chứng chống lại quan điểm cũ rích rằng cư dân thành phố này không quan tâm đến chính trị. Từ thời điểm năm 1997, người dân đã phản đối một loạt các động thái lập pháp, bao gồm cả những thay đổi đối với Điều 23 của Luật Cơ bản (Hong Kong Basic Law – được coi như Hiến pháp lâm thời của Hong Kong) liên quan tới việc thay đổi chế độ. Nhưng kể từ khi cuộc biểu tình Chiếm Trung tâm [Dù vàng – ND] bắt đầu năm 2014, thành phố dường như đã bước sang một kỷ nguyên mới mà tranh chấp và khủng hoảng xảy ra thường xuyên. Một điều gì đó quan trọng đang diễn ra, nhưng dường như không ai biết rõ nó là cái gì. Nhà kinh tế Leo Goodstadt cùng đồng sự đã chỉ ra rằng vẻ bề ngoài gây ấn tượng với du khách của Hong Kong đơn giản chỉ là vẻ bề ngoài. Cuộc sống thường nhật khá là vất vả đối với hầu hết người dân, và ngày càng vất vả hơn. Giá bất động sản đắt đỏ tới mức không thể tin được, mà theo các chuyên gia tư vấn bất động sản CBRE là đắt nhất thế giới. Chi phí sinh hoạt tại Hong Kong cũng sánh ngang với Paris và Singapore trong bảng xếp hạng toàn cầu. Những áp lực như thế này sẽ là nguồn cơn gây bất mãn ở bất cứ nơi đâu. Nhưng điều thực sự khiến dân chúng phản kháng chính quyền là cảm giác bất lực về chính trị. Các cuộc biểu tình trước đó cuối cùng cũng bị giải tán, nhưng cơn tức giận thì không. Ngược lại, mọi dấu hiệu cho thấy nó ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Hong Kong, một trung tâm tài chính thế giới, đang bị bao phủ bởi không khí bất an do cơn giận dữ luôn bị đè nén. Người dân Hong Kong đang tỏ thái độ khinh bỉ một cách bất thường đối với các nhà lãnh đạo của họ. Kể từ thời điểm Hong Kong được bàn giao cho Trung Quốc năm 1997, không có Trưởng đặc khu nào tại vị đủ hai nhiệm kỳ. Người đầu tiên, ông Tung Chee-hwa, đã từ chức sau các cuộc biểu tình liên quan tới Điều 23 của Hiến pháp. Người thứ hai, Ông Donald Tsang, không tái tranh cử. Người thứ ba, ông C.Y. Leung, cũng chỉ giữ ghế trong một nhiệm kỳ sau khi phải đối mặt với cơn bất mãn ghê gớm của công chúng liên quan tới cách ông thực hiện cải cách bầu cử.  Người kế vị của Leung, bà Carrie Lam, cũng phải đối mặt với tình huống tương tự, nhưng sớm hơn rất nhiều. Điều này có thể không liên quan gì đến khả năng lãnh đạo của bà. Nó có thể là một dấu hiệu cho thấy việc quản trị thành phố đã khó đến mức trở nên gần như không thể quản trị nổi do công chúng mất niềm tin vào các nhà lãnh đạo của mình. Công chúng không tin rằng những người như bà Carrie Lam có thực quyền. Thực quyền nằm cách Hong Kong vài ngàn cây số, ở Bắc Kinh. Ý định của Bắc Kinh đối với Hong Kong sau các cuộc biểu tình lớn và kéo dài gần đây vẫn là đề tài được bàn tán rộng rãi. Mặc dù bà Carrie Lam tuyên bố dự luật dẫn độ (nguyên nhân của tình trạng bất ổn hiện tại) đã chết, các cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn, ngày càng nhuốm màu bạo lực hơn và gây gián đoạn sinh hoạt bình thường. Khi Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc được phát hiện ở vùng giáp ranh với tỉnh Quảng Đông vào cuối tháng 7, nỗi lo sợ rằng Bắc Kinh sẽ thẳng tay đàn áp càng gia tăng. Trong bối cảnh này, chúng ta phải ghi nhớ hai điều trong quan điểm của Bắc Kinh về Hong Kong dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình. Trước tiên là về mặt kinh tế, Hong Kong đã trở nên kém quan trọng với Trung Quốc so với trước đây. Tại thời điểm bàn giao năm 1997, nền kinh tế Hong Kong chiếm 1/5 kinh tế Trung Quốc. Ngày nay, nó ít hơn 3%. Thâm Quyến, trước đây là một làng chài, hiện đã có dân số lớn hơn và nền kinh tế có quy mô tương tự Hong Kong, và đang phát triển nhanh hơn.  Thế giới bên ngoài có thể có một cái nhìn lệch lạc về sự ưu tiên của các lãnh đạo Bắc Kinh dành cho Hong Kong. Thực tế là Trung Quốc đã học hỏi nhiều từ Hong Kong trong các lĩnh vực tài chính và kinh doanh. Việc bàn giao năm 1997 cũng quan trọng đối với thể diện quốc tế của Trung Quốc. Trong thập kỷ đầu tiên sau khi tiếp nhận Hong Kong, Bắc Kinh đã cẩn trọng tuân thủ tinh thần của thỏa thuận chuyển giao và Luật Cơ bản của Hong Kong.  Tuy nhiên, dưới thời Tập Cận Bình, cam kết của Bắc Kinh đối với thoả thuận lịch sử này dường như ngày càng yếu đi. Hong Kong đã hoàn thành sứ mệnh phục vụ mục đích của Trung Quốc; giờ là lúc Bắc Kinh hướng đến những mục tiêu và tham vọng lớn hơn. Mối bận tâm chính của Tập Cận Bình là làm sao tránh né những đòn chỉ trích và tấn công trực diện trên trường quốc tế, điều có thể ảnh hưởng đến mục tiêu tương lai lớn hơn của ông. Còn Hong Kong? Không quan trọng như nhiều người nghĩ.  Vấn đề thứ hai thường bị lãng quên là Tập Cận Bình và các đồng sự của ông tin tưởng tuyệt đối vào khả năng tồn tại của chủ nghĩa xã hội mang đặc tính Trung Quốc. Niềm tin này giúp họ chèo lái đất nước hướng tới một vị thế kinh tế toàn cầu trong khi vẫn phải đối phó với sự tấn công hàng ngày của Mỹ. Sự sụp đổ của Liên Xô, từng được coi là một điềm báo cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc, thực sự củng cố niềm tin đó của Bắc Kinh. Đối với họ, sự suy giảm quyền lực của nước Nga sau thời Xô viết cho thấy rằng việc vứt bỏ ý thức hệ cốt lõi là sai lầm tai hại. Ông Tập trong một cuộc họp của Diễn đàn Kinh tế Thế giới hồi 2017 tại Thụy Sĩ. Nền kinh tế Trung Quốc đã đạt mức độ tăng trưởng và quy mô khiến Trung Nam Hải đủ tự tin phủ nhận tất cả các giá trị tự do – dân chủ phương Tây. Ảnh: AP Photo/Michel Euler) Gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, việc Donald Trump thắng cử, Brexit và các sự kiện khó lường khác đã khẳng định niềm tin của Tập Cận Bình và đồng nghiệp rằng những người tiền nhiệm của họ hoàn toàn có lý khi từ chối cải cách chính trị theo hướng tự do – điều mà phương Tây muốn áp đặt cho họ. Như Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố: thực hành là tiêu chí duy nhất đánh giá sự thật (practice is the sole criterion for truth). Từ thế giới quan này, mô hình Hong Kong thể hiện tính không thực tế của chủ nghĩa tư bản phương Tây đối với tương lai dài hạn của Trung Quốc. Theo một góc độ phức tạp hơn, Hong Kong cũng chứng tỏ rằng dân chủ và văn hoá Trung Hoa không ăn nhập gì với nhau. Các từ như “sự hỗn loạn” (chaos) và “vô pháp” (lawless) – thường dùng để mô tả về thực trạng không thể tránh khỏi nếu đảng Cộng sản Trung Quốc mất quyền kiểm soát đất nước – đã bị cấm sử dụng trên báo chí chính thống. Theo một cách kỳ cục khác, tình trạng của Hong Kong dường như không được Bắc Kinh coi là một sự phản kháng với những việc mà Bắc Kinh làm. Ngược lại, nó là bằng chứng cho thấy di sản chính trị và hành chính của mô hình Anh Quốc luôn không bền vững. Số phận Hong Kong phải như vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin rằng tất cả những gì họ phải làm chỉ là chứng kiến Hong Kong tan vỡ một cách có kiểm soát. Thượng Hải và những nơi khác ở Trung Quốc rồi sẽ đảm nhận vai trò kinh tế của Hong Kong trước đây. Hong Kong sẽ lùi xuống vị trí 2% và sau đó là 1% nền kinh tế của một đế chế vĩ đại, họ tin là như vậy. Với hai yếu tố kể trên – sự suy giảm vị thế kinh tế của Hong Kong và thế giới quan của Bắc Kinh – liệu Hong Kong có được Tập Cận Bình và các đồng nghiệp nói đến trong kỳ nghỉ hè thường niên tại thị trấn Bắc Đới Hàn hay không? Tất nhiên, vấn đề Hong Kong sẽ được đưa vào chương trình nghị sự. Nhưng có khả năng nó sẽ không được ưu tiên như các thảo luận về củng cố lòng trung thành của người dân với chế độ trong cuộc cạnh tranh kinh tế với Mỹ, và cố gắng đồng thuận quốc gia để đạt mục tiêu thiên niên kỷ đầu tiên của Trung Quốc (tập hợp các mục tiêu như tỷ lệ đô thị hóa 60%, chuyển đổi sang năng lượng sạch, và xã hội phồn thịnh).  Bắc Kinh đang tự mãn, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đúng. Việc người dân Hong Kong tham gia biểu tình không đơn giản bó hẹp trong sự bất mãn của họ với một điều luật hoặc sự yếu kém của các lãnh đạo chính trị. Những gì chúng ta đang thấy là sự xuất hiện của một thái độ chính trị mới trong lòng một trung tâm thương mại lớn. Điều đó không nên và không thể bỏ qua. Người dân Hong Kong tức giận về những điều mà nhiều người dân Trung Quốc đại lục cũng đang cảm thấy: sự bất bình đẳng, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các vấn đề môi trường, nhà ở, dịch vụ công cộng, việc làm cho thanh niên và tình trạng già hóa dân số. Những vấn đề này có thể không được nhìn thấy rõ ràng ở đại lục, nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Đơn giản vì Hong Kong là nơi duy nhất ở Trung Quốc mà chúng ta có thể thấy người dân công khai bày tỏ sự lo lắng của họ.  Điều đáng làm cho Tập Cận Bình và Bắc Kinh lo lắng có lẽ không phải là các cuộc biểu tình ở Hong Kong mà là các yếu tố tiềm ẩn khủng hoảng. Biểu tình ở Hong Kong, sự thất vọng bị dồn nén ở Trung Quốc có thể dẫn đến thảm họa. Vì những lý do khác nhau, và theo những cách khác nhau, những gì đang xảy ra ở Hong Kong dạy tất cả chúng ta, kể cả giới lãnh đạo Trung Quốc, nhìn sự việc theo những góc khác nhau, nếu biết nhìn đúng cách. https://www.luatkhoa.org/2019/08/hong-kong-nhin-tu-trung-nam-hai/
......

Trận Waterloo của hoàng đế Tập? – Ai sẽ “chết” trong cuộc chiến tranh tiền tệ Mỹ Trung?

Tân Phong – viettan.org|   10% thuế áp dụng cho phần còn lại của giỏ hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng Chín, 2019, cùng với tuyên bố “Trung Quốc là quốc gia thao túng tiền tệ” của Bộ Trưởng Tài Chính Steven Mnuchin ngay sau quyết định giảm giá đồng Nhân dân tệ của Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc PBOC xuống dưới mức 7 CNY/1 USD hôm 5 tháng Tám, 2019 – mức thấp nhất trong mười một năm trở lại đây – cho thấy loạt phản ứng gần như tức thì, quyết liệt nhưng đó là những toan tính thực dụng được trù liệu từ trước. Tổng Thống Donald Trump đang áp dụng đúng chiêu thức của “cụ tổ” Trung Quốc Cộng Sản Đảng: “Vừa đánh, vừa đàm”.  Ảnh hưởng của việc định giá thấp đồng CNY của PBOC cũng như đòn trả đũa của Mỹ có thể biến thành một cuộc chiến tiền tệ hay không cần phải được xem xét nhiều phương diện, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Việc một đồng tiền bị định giá thấp hơn giá trị thực của nó sẽ có lợi nhiều mặt cho nền kinh tế. Nó giúp hạ thấp cấu trúc chi phí, tăng xuất khẩu, tạo việc làm và thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh bằng phí tổn của các đối tác thương mại. Trong lịch sử chiến tranh tiền tệ đều liên quan đến việc định giá thấp đồng tiền, đó là cách rõ ràng nhất, liên quan trực tiếp nhất. Mặc dù, theo sự “tiến hóa” của thị trường tài chính toàn cầu, để phá hoại nền kinh tế đối phương có nhiều phương thức tinh vi hơn. Nhưng việc định giá thấp đồng tiền là một vũ khí có “mức sát thương lớn”, ảnh hưởng ở qui mô rộng lớn tới toàn bộ nền kinh tế. Một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ sẽ không giống như đổ vỡ về thị trường chứng khoán hay trái phiếu chính phủ, mà nó có thể làm sụp đổ một nền kinh tế hoặc tiêu hủy mọi nỗ lực tăng trưởng trong nhiều thập kỷ. Chiến tranh tiền tệ là một cuộc chiến mà kẻ yếu thế hơn nhưng quỉ quyệt hơn sẽ dành nhiều lợi thế và đó là sự lựa chọn của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua. Thương chiến Mỹ – Trung chỉ làm lộ rõ bộ mặt nham nhở của Bắc Kinh được che dấu dưới hình hài con gấu trúc dễ thương Po mà thôi. Trung Quốc đã sử dụng “vũ khí” lợi hại này để hình thành một chiến lược “thảm sát” các đối thủ thương mại và sản xuất toàn cầu. Nó được biết đến với cái tên “China Price and Mass Production” – một nền sản xuất ở qui mô khổng lồ, có khả năng tạo ra bất kể thứ hàng hóa, dịch vụ nào với mức giá thấp đến không tưởng. Đi cùng với thứ “vũ khí hủy diệt” này là chính sách đồng tiền yếu và những “bộ công cụ giết chóc” khác. Doanh nghiệp có hàng hóa dịch vụ xuất khẩu được nhà nước trợ giá, tiếp cận dễ dàng những nguồn vay vốn ưu đãi, chính quyền ngó lơ thậm chí thông đồng để cùng hưởng lợi việc doanh nghiệp bóc lột tàn tệ lao động, làm hàng giả, ăn cắp bản quyền, xả thải mà không bị trừng phạt… Hàng hóa Trung Quốc dễ dàng đánh bại bất kể đối thủ nào ở sản phẩm cùng loại không chỉ về mặt giá cả mà bằng cả sức mạnh hậu thuẫn to lớn đầy hắc ám của Bắc Kinh. Chiến lược này đã mang lại 4 thập kỷ tăng trưởng phi thường cho Trung Quốc, nhưng là thảm họa cho các nền kinh tế khác. Ở nhiều phương diện, doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là các tập đoàn nhà nước hoặc các doanh nghiệp chiến lược được hậu thuẫn đặc biệt từ chính phủ, quân đội như Huawei đều là những cấu trúc quan trọng của Chủ nghĩa tư bản nhà nước – một “biến dị” của chủ nghĩa trọng thương mà theo đó doanh nghiệp là cánh tay nối dài của quyền lực Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Những con khủng long như Sinopec, Petrochina, CNOOC, SGCC, Huawei, ZTE… đều mang dáng dấp và đặc điểm giống như mô hình công ty thương mại Đông Ấn của Anh thế kỷ 17 – thứ vũ khí đã tạo ra sức mạnh cốt lõi xây dựng một đế quốc “mặt trời không bao giờ lặn”. Giờ đây, những “đồ tể Thiên An Môn” đang sở hữu hàng trăm “công ty thương mại Đông Ấn” như vậy. Trung Quốc vừa là công xưởng thế giới vừa là quốc gia có lượng hàng hóa xuất khẩu lớn nhất thế giới và họ có một câu cách ngôn “người Trung Quốc ở đâu, hàng hóa Trung Quốc ở đâu, biên giới Trung Hoa ở đấy”. “Kẻ nào dùng gươm sẽ chết vì gươm – Kinh Thánh Tân Ước” Tuy vậy, “chiến tranh tiền tệ” không phải thứ vũ khí vạn năng và cũng không phải thời điểm nào cũng phù hợp. Việc sử dụng nó giống như chơi dao hai lưỡi trong thời điểm suy thoái ngày một nghiêm trọng bởi rất nhiều nguyên nhân khách quan nằm ngoài lý do xung đột lợi ích thương mại đơn thuần với người Mỹ. Hiệu quả tích cực cho thị trường sẽ rất thấp, trong khi mặt trái của chính sách này sẽ tạo ra rủi ro lớn cho một cuộc khủng hoảng lòng tin đang chín muồi – đó là một cuộc tự sát kinh tế. Việc trì hoãn thực hiện các cam kết thương mại với hy vọng rằng Tổng Thống Donald Trump có thể “trượt chân” nhiệm kỳ tiếp theo và quyết định tỷ giá mới của PBOC thể hiện Bắc Kinh thực sự túng quẫn phương sách để đối phó với Mỹ trong bối cảnh thương chiến leo thang những bước nguy hiểm mới. Ngoài mức thuế mới sẽ áp dụng kể từ ngày 1 tháng Chín, 2019 cho 300 tỷ USD giá trị hàng hóa còn lại, một tin xấu khác cho hoàng đế Tập là Tổng Thống Donald Trump chuẩn bị các bước để tước “sổ hộ nghèo” của Trung Quốc tại WTO. Tuy là nền kinh tế có qui mô thứ 2 thế giới, với bình quân GDP/ đầu người ở mức 9.608,42 USD năm 2018 (theo con số thống kê của statista.com), song Bắc Kinh vẫn cố mọi cách “được” công nhận là quốc gia thuộc “thế giới thứ 3” – một thuật ngữ địa kinh tế dành cho các nước nghèo kém phát triển cần được quốc tế giúp đỡ – để hưởng lợi từ việc tiếp cận nhiều khoản vay ưu đãi, được viện trợ không hoàn lại nhiều dự án y tế, giáo dục, môi trường… và chính sách thuế ưu đãi cho hàng hóa có xuất cảng từ Trung Quốc. Việc bị “mất sổ hộ nghèo” sẽ làm trầm trọng thêm gánh nặng an sinh xã hội mà Bắc Kinh đang phải đối mặt với làn sóng “di cư” của những tập đoàn đa quốc vốn đã làm ăn tại Trung Quốc nhiều thập kỷ qua bởi sức ép của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung. Trung Quốc thừa nhận mức tăng trưởng thấp nhất trong thập kỷ vừa qua bởi sự thay đổi chóng mặt trong chính sách thương mại của Hoa kỳ. Người khổng lồ Trung Quốc “mong manh dễ vỡ” hơn người ta tưởng rất nhiều. Dù mục tiêu tái cơ cấu lại nền kinh tế khổng lồ sang hướng “bền vững”, “sạch” và “sáng tạo” hơn đã được nghiên cứu từ sau 1978 tới nay song những nỗ lực cải cách thực sự của hệ thống chính trị cũng như đà quán tính quá lớn của nền kinh tế tỏ ra khó có được sự thay đổi cần thiết. Tại đại hội nhân dân toàn quốc tháng Ba, 2015, chính phủ Trung Quốc đã hạ tỷ lệ tăng trưởng GDP dự kiến từ 8% xuống 7%. Ông Lý Khắc Cường cũng nói rằng ngay cả hạ mục tiêu tăng trưởng cũng khó lòng đạt được. Một chuyên gia của Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển thuộc Hội Đồng Nhà Nước Trung Quốc – trao đổi với David Shambaugh – tác giả của quyển sách nhan đề China’s Future – rằng họ thậm chí dự đoán mức tăng trưởng sẽ xuống mức 3% vào giai đoạn 2020 -2025. Nhưng ở đây, có một mâu thuẫn cố hữu giữa mong muốn duy trì con số tăng trưởng GDP đẹp của các lãnh đạo tối cao nhằm mục đích thu hút đầu tư, ve vuốt lòng tự tôn của đảng và khả năng thực tế của nền kinh tế. Trong khi đó, “siêu cấu trúc” của chủ nghĩa tư bản nhà nước khổng lồ này có những điểm yếu chết người đang ở mức chịu đựng tới hạn. Nền kinh tế Trung Quốc lao dốc quá nhanh kể từ khi bắt đầu cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung. Việc cải tổ không hề đơn giản kể cả khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải chấp nhận giảm tốc tăng trưởng xuống 3% GDP/năm. Điều này, giống như việc phanh gấp một đoàn tàu gồm 30 toa tàu, mỗi toa nặng 50 tấn, đang chạy với tốc độ 250km/h khi vào khúc cua. Sẽ không thể lường trước điều gì sẽ xảy ra với qui mô và mức độ của cuộc đổ vỡ này. Người ta có thể cảm thấy áp lực xã hội gia tăng nhanh chóng từ con số nợ công ngất ngưởng ở mức 300% GDP, những tòa cao ốc chọc trời trống trơn không có người thuê và những dòng người lao động đang cuồn cuộn đổ về các nước Đông Nam Á, Trung Á hay Phi Châu. Ở một quốc gia mà cái gì cũng có thể làm giả, những con số thống kê dù đẹp đẽ tới đâu thì cũng chẳng có giá trị gì và chỉ khi nào “con voi” Trung Quốc đổ sụp xuống với tất cả sức nặng của nó thì người ta mới có thể biết được phần nào của thảm kịch diễn ra. Sẽ không vui vẻ gì cho tất cả khi nền kinh tế lớn nhất Châu Á có một kết cục xấu và cũng quá sớm khi nhận định rằng một số quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc đón được dòng đầu tư FDI của các tập đoàn đa quốc gia đang rời bỏ Trung Quốc. Vấn nạn của cuộc sụp đổ này đáng lo ngại hơn là cơ hội nó mang lại, đặc biệt là những quốc gia vốn đã phụ thuộc nhiều vào bàn tay bú mớm của Bắc Kinh. Cái bẫy nợ xập xuống và miếng phomat ăn dở cũng bị lấy đi. Những quốc gia như Việt Nam, Cambodia, Laos… sẽ phải đối mặt với vực thẳm nợ nần trong khi mọi tài nguyên, hải cảng giá trị nhất đã bị bán hết. “Kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm” nhưng đám “theo voi ăn bã mía” thì còn kết cục thê thảm hơn nhiều./.  
......

Tại Sao Trung Quốc Rút Khỏi Bãi Tư Chinh

Trung quốc cộng sản bạo ngược và nham hiểm hơn Trung quốc phong kiến. Nguyen Ngoc Chu ĐỪNG MẮC MƯU BẮC KINH THÊM MỘT LẦN NỮA 1. Nhiệt liệt hoan nghênh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam, tuy số lượng ít hơn, vẫn kiên trì đeo bám tàu Hải dương 8 và đối đầu với lực lượng Hải cảnh Trung quốc trong suốt hơn một tháng qua ở vùng biển Bãi Tư chính. Sự không lùi bước của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã khẳng định 2 điều cốt lõi: Bãi Tư chính là của Việt Nam; Và Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. 2. Nhưng cũng phải nhìn thẳng vào 3 sự thật sau đây. Một là, từ 03/7/2019 – 06/8/2019 tàu Hải dương 8 đã thăm dò địa chất và thu được các dữ liệu địa chất trên một vùng biển rất rộng lớn của Việt Nam mà Việt Nam không có phương tiện để chống phá hiệu quả. Hai là, sự rút lui của tàu Hải dương 8 là thuộc quyền tự quyết của Trung Quốc; Nếu Trung quốc tiếp tục ở lại Việt Nam vẫn chưa có cách nào đuổi đi được. Ba là, Trung quốc sẽ còn đến Bãi Tư chính nhiều lần nữa theo tùy thích của Trung quốc. TẠI SAO TRUNG QUỐC RÚT KHỎI BÃI TƯ CHÍNH? Có rất nhiều nguyên nhân. Chỉ xin nêu 5 nguyên nhân chính sau đây. 1. Trung quốc đã thu được những dữ liệu địa chất cần thiết. 2. Trung quốc đã chứng minh qua hành động thực tế, chứ không chỉ tuyên bố suông, rằng Bãi Tư Chính là của Trung quốc - bằng cách ngang nhiên đưa tàu Hải dương 8 đến khảo sát nhiều ngày, đưa hàng chục tàu hải cảnh đến đi lại nghênh ngang để khẳng định chủ quyền. Như vậy Trung quốc đang trên con đường biến vùng biển Việt Nam thành vùng biển tranh chấp với Trung quốc. 3. Trung quốc đã biết được phản ứng của Việt Nam và cộng đồng quốc tế. 4. Trung quốc không muốn để Việt Nam rời xa hơn Trung quốc để nghiêng hơn về phía Mỹ. 5. Trung quốc không muốn để Việt Nam kiện Trung quốc ra Tòa án quốc tế. ĐỪNG MẮC MƯU TRUNG QUỐC CỘNG SẢN Chính quyền Bắc kinh đang chơi sách lược của kẻ cướp già đời: Vừa ăn cướp vừa la làng; Vừa đấm vừa xoa. Sự rút lui của tàu Hải dương 8 chỉ là sự rút lui chiến thuật: Đủ để cho Hà nội không kiện Bắc Kinh ra Tòa án quốc tế; Đủ để cho Hà Nội không nghiêng hẳn về Washington hay tìm kiếm thêm các đồng minh khác. Rồi Trung quốc sẽ trở lại Bãi Tư chính nhiều lần khi chúng thấy cần thiết. Bởi thế, các biện pháp cần thiết nhất trong các biện pháp là: 1. Kiện ngay Trung quốc ra Tòa án quốc tế, trước khi Trung quốc đi những nước cờ nham hiểm, kể cả rời bỏ hoàn toàn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). 2. Phải nhìn rõ bản chất của Bắc Kinh mà xác định rõ ràng mối quan hệ với Bắc kinh, và rằng dứt khoát không có gì chung ý thức hệ với Bắc Kinh. 3. Dứt khoát phải có quan hệ đồng minh với các nước khác. 4. Dứt khoát phải tìm kiếm sự ủng hộ sâu rộng của cộng đồng quốc tế. 5. Khẩn cấp tăng cường lực lượng Cảnh sát Biển, Hải quân và các lực lượng cùng phương tiện bảo vệ biển đảo khác. 6. Phải nghĩ ngay sách lược để Trung quốc không thể vào lại được Bãi Tư chính. Phải có công nghệ và phương tiện kỹ thuật để cản phá không cho Trung quốc thu được dữ liệu địa chất trong vùng biển Việt Nam ngay cả khi chúng ngang ngược xâm phạm. 7. Khẩn trương hợp tác với nước lớn để khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Trung quốc cộng sản bạo ngược và nham hiểm hơn Trung quốc phong kiến. Đừng mắc mưu Trung quốc cộng sản.
......

Dây thòng lọng tên “Bãi Tư Chính”

Ngay trong lúc ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao, nêu đích danh Trung Quốc là xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trong phiên họp khoáng đại Ngoại Trưởng Khối ASEAN với một số Ngoại Trưởng Mỹ, Trung Quốc, Úc Châu, Tân Tây Lan, Nga… hôm 31 tháng Bảy tại Bangkok, thì Bắc Kinh đã nâng số tàu hải giám, cảnh sát biển lên gần 80 tàu quanh khu vực Bãi Tư Chính. Hành động này của Trung Quốc rõ ràng là họ không những coi thường các lên tiếng của phía CSVN, từ nhẹ là gửi công hàm phản đối lên đến mạnh hơn là tố cáo công khai Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền, mà còn bỏ ngoài tai những phản đối khác như Thông cáo chung về Biển Đông của Ngoại Trưởng Khối ASEAN, kể cả các lên tiếng chỉ trích từ Tổng Thống Trump, Bộ Ngoại Giao, và Chủ Tịch Ủy ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Không những thế, Bắc Kinh còn ngang ngược khẳng định rằng Bãi Tư Chính nằm trong vùng Trường Sa (mà họ gọi là Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Từ luận cứ này, Trung Quốc trơ trẽn kết án người bạn “16 vàng – 4 tốt” Việt Nam là kẻ đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Thái độ của Trung Quốc đã quá rõ ràng. Họ chủ trương cướp Bãi Tư Chính như đã từng cướp Hoàng Sa năm 1974 cùng 7 đảo và bãi đá chìm của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa năm 1988, và cướp Scarborough của Phi Luật Tân năm 2012. Có 2 lý do khiến Trung Quốc sẽ ra tay lần này: Một, sự bế tắc đàm phán với Hoa Kỳ và nhất là biến động kéo dài bất ngờ tại Hong Kong đã cảnh báo cho họ Tập thấy là dân chúng Hoa Lục đang mất kiên nhẫn chờ đợi và có thể bộc phát thành làn sóng chống đối. Họ Tập phải làm dậy sóng ở Biển Đông để dùng nó như một lý cớ siết chặt nội bộ, vừa tạo mục tiêu chiến tranh với thế lực bên ngoài để lèo lái sự phẫn nộ của người dân vào một mục tiêu khác, và để phục hồi tư thế của mình trước những biến động mang tính thách đố quyền lực. Nói cách khác, việc chiếm Bãi Tư Chính là thủ thuật nhằm bảo vệ “quyền lực độc tôn” của họ Tập trong lúc nội bộ phân hóa vì cuộc thương chiến với Mỹ. Hai, sự thủ lợi của CSVN trong cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, sẽ tạo cơ hội cho Hà Nội thoát Trung, đi gần với Hoa Kỳ. Đây là điều mà họ Tập không muốn vì sẽ phá đổ chiến lược và tham vọng “đại cục” vốn kiềm chế Hà Nội từ năm 1990 đến nay. Vì thế, việc các quan chức bên Bộ Ngoại Giao CSVN đã hợp xướng cùng với Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ sự xâm phạm của Trung Quốc lần này đã làm cho Bắc Kinh càng phải leo thang sự hiện diện ở Bãi Tư Chính. Nhìn thấy rõ dã tâm của Tập Cận Bình như vậy, Việt Nam sẽ không chỉ mất Bãi Tư Chính mà sẽ còn mất nhiều biển đảo và lãnh thổ khác, nếu tiếp tục thái độ nhu nhược của lãnh đạo CSVN như hiện nay. Đừng sai lầm nghĩ rằng việc lãnh đạo Hà Nội lên tiếng mạnh mẽ phản đối Trung Quốc, và nhất là nộp đơn kiện Bắc Kinh ra Tòa Án Trọng Tài Liên Hiệp Quốc về Biển Đông, là ngã theo Hoa Kỳ để chống lại Trung Quốc. Hãy chấm dứt não trạng “du dây” với chủ trương “ba không” trong quan hệ chiến lược với các quốc gia. Thử hỏi trong số 12 quốc gia mà Việt Nam nâng lên tầm “đối tác chiến lược” đã có quốc gia nào lên tiếng hậu thuẫn mạnh mẽ các quan điểm của Việt Nam đối với các vi phạm của Trung Quốc ở Bãi Tư Chính, ngoài Hoa Kỳ. Muốn bảo vệ Bãi Tư Chính và cho thấy sức mạnh của Việt Nam, lãnh đạo CSVN hãy chấm dứt tư duy nô lệ và để cho người dân Việt Nam bảo vệ lãnh hải bằng chính ý chí và lòng yêu nước. Hà Nội phải coi cuộc thương chiến Mỹ Trung là cơ hội để Việt Nam bước ra khỏi cái bóng “đại cục”. Muốn làm được điều này, những hành động tối thiểu sau đây phải được chuyển động gấp. Thứ nhất, phải thiết lập hồ sơ và nộp đơn kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng Tài Liên Hiệp Quốc càng sớm càng tốt. Thứ hai, phải trả tự do ngay tức khắc những tù nhân lương tâm đã bị bắt giữ và bị đàn áp chỉ vì họ đã dám đứng lên chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Đây là điều kiện tiên quyết để cho thấy Hà Nội muốn bước ra khỏi bóng đen “đại cục” Thứ ba, phải chấm dứt việc theo dõi, ngăn chặn và trù dập những đồng bào, trí thức, thanh niên sinh viên… yêu nước kêu gọi nhau tụ họp trước tòa đại diện của Trung Cộng để phản đối hành vi xâm lược. Hà Nội còn phải có bổn phận giúp cho các nhân sĩ, trí thức tổ chức những buổi đàm thoại về tình hình Biển Đông và góp ý cùng nhau bảo vệ sự toàn vẹn biển đảo và lãnh thổ. Tóm lại, thách thức tại Bãi Tư Chính lần này ở tầm mức rất nghiêm trọng, nhưng đã mở ra cho lãnh đạo Hà Nội một cơ hội để trở về với dân, đứng cùng với dân trong một chiến tuyến chống kẻ xâm lược bá quyền Trung Quốc. Chỉ trong thế toàn dân và khai dụng thế liên minh với các quốc gia bạn, Việt Nam mới chứng tỏ được sức mạnh đối đầu để ngăn chặn được bước chân xâm lược ngông cuồng của Trung Quốc. Nếu không, những biến động tại Bãi Tư Chính có thể biến thành dây thòng lọng siết cổ chế độ CSVN một khi bá quyền Bắc Kinh nổi giận và chính người dân Việt Nam vùng lên cứu quốc. Bài học lịch sử chống quân xâm lược chưa hề phai trong tâm trí người Việt. Trung Điền
......

Mất mát của những nhà đấu tranh nhân quyền

An Viên (VNTB)|  Quốc gia này sẽ bị suy thoái về đạo đức, lương tâm, và trách nhiệm khi mà sự kiềm soát tâm lý và xúc cảm xã hội tiếp tục được tiến hành bằng bộ máy cảnh sát, tòa án và nhà tù. Và chính cách ứng xử theo lối “bàn tay thép” này, sẽ tạo ra một nhóm người “tư tưởng thép”, những người với nhà tù là trường học về trách nhiệm và rèn giũa tư tưởng, những người sẽ tham gia, và tạo ra một sự thay đổi trong tương lai, tương tự như cái cách mà những người cộng sản đời đầu từng được rèn giũa, nơi đau thương trở thành động lực cho các hành động tiếp theo. Nhà hoạt động, Lê Văn Sơn, trong chia sẻ trên Facebook ngày 4.8 cho biết.“Ngày 3/8/2015, tôi được về quê hướng sau 4 năm tù chung đủ. Tôi ra phần mộ Mẹ để thắp nhang và bái lạy. Mẹ tôi mất khi tôi bị cộng sản cầm tù 8 tháng, nhưng mãi tới gần hai năm sau tôi mới biết tin mẹ tôi qua đời”. Nguyễn Nam Phong ngày ra tù Mới đây, hình ảnh người lái xe chở đoàn khiếu kiện Formosa trở về sau 2 năm tù, khi một video ghi lại cho thấy, với khăn tang quàng trên cổ, anh Nguyễn Nam Phong đã khóc đau thương trước bàn thờ con gái (Maria Nguyễn Hải Giang), người đã mất vì ung thư xương khi anh còn đang chịu án tù. Anh Phong cũng mất người cha trong giai đoạn này. Facebooker Long Trần bày tỏ: “Mới thấy được cái đắng, cái chát họng của những người tù chính trị. Họ lựa chọn đấu tranh để rồi muôn vàn bất hạnh cay đắng đổ lên đầu. Những đọa đầy về thân xác, những mất mát giá nào trả nỗi cho những con người yêu nước?”. Trước đó, vào năm 2012, bà Ðặng Thị Kim Liên, mẹ của blogger bất đồng chính kiến Tạ Phong Tần, đã mất sau khi tự thiêu tại khu hành chính Bạc Liêu, trong lúc blogger Tạ Phong Tần sắp bị đưa ra tòa xử về tội tuyên truyền chống phá nhà nước. Có nhiều sự mất mát đã diễn ra, trong thời kỳ mà những nhà bất đồng chính kiến bị tạm giam và giam giữ, nỗi đau về bệnh tật và sự ra đi của người thân trong gia đình, cũng như những đánh đổi liên quan đến hạnh phúc gia đình cũng đã trở thành những góc cạnh khoét sâu vào trong tâm lý của chính họ. Khi một người bất đồng chính kiến vào tù vì nói lên chính kiến của mình, họ đã thể hiện bản lĩnh gan dạ. Và khi ra khỏi tù sau thời gian dài, họ vẫn nở nụ cười, họ xứng đáng là anh hùng thực sự. Anh hùng của chiến thắng nghịch cảnh và khả năng đứng trên nghịch cảnh, với điểm tựa là lý tưởng của chính bản thân của mình. Sự phát triển không ngừng của nhân quyền luôn gắn liền với chuỗi tù dài hạn dành cho các nhà hoạt động, và số lượng người “nhập kho” lớn hơn khi nhu cầu hít thở dân chủ, tự do trong chế độ độc tài cai trị ngày càng lan rộng. Do vậy, khi nhân quyền được tiến triển một chút một, thì trong đó có cả một sự hy sinh thầm lặng và lớn lao của những người như anh Sơn, chị Tần, anh Phong, chị Mẫn,… Ở họ, đều có một điểm chung, đó là thể hiện thái độ dứt khoát, lập trường tư tưởng vững vàng: tất cả vì nhân quyền, tất cả vì Tổ quốc. Facebooker Ngọc Lan: “Họ [những nhà đấu tranh nhân quyền] đã không ngừng chiến đấu cho công lý, quyền con người. Không chỉ cho bản thân họ, mà cho cả chúng tôi!”. Những tiếng nói bất đồng chính kiến đã buộc các nhà hoạt động phải lắng nghe tiếng nói của họ. Quyết định “dừng chặt hạ cây xanh” vào năm 2015 không phải ngẫu nhiên. 500 triệu USD bồi thường mà Formosa bỏ ra vào năm 2016 không hề ngẫu nhiên. Kiên Giang đề nghị tạm dừng quy hoạch đảo Phú Quốc thành đặc khu kinh tế vào năm 2019 càng không phải là sự ngẫu nhiên. Đó là những quyết định được nảy sinh và thúc đẩy bởi chính những nhà hoạt động trong nước, những người tạo ra các sự kiện và buộc chính quyền phải lắng nghe tiếng nói của nhân dân. Những sự kiện tập hợp hàng ngàn cho đến hàng triệu con người, với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao. Những sự kiện như thế được dẫn dắt bởi những con người con lương tri và trách nhiệm với quốc gia và rõ ràng, chúng ta cần phải biết ơn những con người đó, những con người đã phải trả giá tự do cá nhân để giữ đất, giữ nước, giữ cây cho thế hệ sau. Mới đây, trên Nationalinterest có bài viết đề cập đến “một Trung Quốc độc đoán hơn”, theo đó, “Trung Quốc đã trở nên độc đoán hơn kể từ thời Tập Cận Bình nắm quyền. Đặc trưng bằng sự nghiêm túc trong nghiên cứu và tuân thủ học thuyết Marxist-Leninist.” Việt Nam cũng sao chép đặc trưng độc đoán của Bắc Kinh, và thời kỳ ông Nguyễn Phú Trọng, số lượng người bị bắt giam vì các hoạt động bất tuân dân sự, thực thi quyền dân sự – chính trị tăng lên đáng kể. Những người biểu tình, phản đối, hay lên tiếng đại diện cho một thể trạng tâm lý xã hội, đó là họ chán ngấy những gì đã và đang xảy ra trong thể chế, nơi mà tính minh bạch và lắng nghe chưa bao giờ được hiện thực hóa một cách rõ ràng, nơi mà quyền lực độc tài – toàn trị luôn tìm cách kiếm soát, chi phối và uốn nắn xã hội từ trong quá khứ đến hiện tại. Quốc gia này sẽ bị suy thoái về đạo đức, lương tâm, và trách nhiệm khi mà sự kiềm soát tâm lý và xúc cảm xã hội tiếp tục được tiến hành bằng bộ máy cảnh sát, tòa án và nhà tù. Và chính cách ứng xử theo lối “bàn tay thép” này, sẽ tạo ra một nhóm người “tư tưởng thép”, những người với nhà tù là trường học về trách nhiệm và rèn giũa tư tưởng, những người sẽ tham gia, và tạo ra một sự thay đổi trong tương lai, tương tự như cái cách mà những người cộng sản đời đầu từng được rèn giũa, nơi đau thương trở thành động lực cho các hành động tiếp theo. Vòng lặp lịch sử tiếp tục hiện diện./.  
......

Bắc Kinh sẽ lên đài so găng ở Biển Đông?

Phương Thảo (VNTB)|  Việc Bắc Kinh ký kết một thoả thuận bí mật với Campuchia để thuê một căn cứ hải quân đã làm dấy lên nỗi lo ngại về tham vọng của Bắc Kinh ở Biển Đông và Ấn Độ Dương.  Cả Trung Quốc lẫn Campuchia đã bác bỏ tin này, nhưng tin này đã làm cho Mỹ và các quốc gia khác đánh giá lại mối quan hệ của họ trong khu vực. Trung Quốc đã có một thỏa thuận với Campuchia về việc sử dụng một phần căn cứ hải quân đang gây lo ngại rằng Bắc Kinh có thể mở rộng tầm với ra Biển Đông và qua eo biển Malacca, nối liền các đại dương Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Thỏa thuận này được ký vào mùa xuân năm nay và Bắc Kinh sẽ có quyền độc quyền ở một khu vực rộng 62 mẫu nằm trong căn cứ hải quân Ream rộng 190 mẫu, gần Sihanoukville, Campuchia, và cách không xa sân bay lớn mà một công ty Trung Quốc đang thi công. Thỏa thuận sẽ cho phép Trung Quốc đóng quân, tàng trữ vũ khí và cập tàu chiến tại căn cứ này cũng như quyền sử dụng căn cứ quân sự này trong 30 năm và gia hạn tự động sau mỗi 10 năm. Trung Quốc sẽ cho xây dựng hai cầu tàu mới, một cho họ và một cho Campuchia, có thể họ sẽ cần phải nạo vét cảnh biển để tàu chiến lớn hơn của Trung Quốc sử dụng cầu tàu này. Các quan chức Trung Quốc và Campuchia đã bác bỏ tin này, và các quan chức quốc phòng Campuchia đã đưa các nhà báo đến “tham quan” căn cứ để chứng tỏ không có sự hiện diện của Trung Quốc ở đó. Hoa Kỳ và các nước khác đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về những gì họ nhìn nhận là sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, khi đề cập đến một loạt các thỏa thuận dọc theo bờ biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Trong khi các thỏa thuận này dường như tập trung vào cơ sở hạ tầng và các hoạt động kinh tế, các nhà quan sát nghi ngờ Trung Quốc có ý đồ quân sự – mối quan tâm lớn là Djibouti, nơi Trung Quốc mở căn cứ đầu tiên ở nước ngoài vào năm 2017, mặc dù Bắc Kinh gọi đó là cơ sở hỗ trợ hậu cần. Phó cố vấn an ninh quốc gia của chính quyền Obama, Ben Rhodes, cho biết người Mỹ nhận thấy là Trung Quốc đang cố gắng tạo ra một vành đai từ Biển Đông, xuyên qua Ấn Độ Dương và đi tới tận Đông Phi. Ban đầu họ chỉ cho xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng, hải cảng, nhưng sau đó được sử dụng cho mục đích quân sự hoàn toàn như Djibouti của Sri Lanka. Thỏa thuận với Ream cho xây một sân bay có thể xử lý các máy bay ném bom tầm xa và vận chuyển quân sự tại Dara Sakor, khu đầu tư cách phía tây bắc của cảng khoảng 40 dặm (60 km), đã làm nảy sinh mối lo về việc Bắc Kinh mở rộng phạm vi quân sự. Trung Quốc tuyên bố họ chỉ vì mục đích kinh tế nhưng theo biên tập viên cao cấp của tờ The Diplomat, Prashanth Parameswaran ước tính thì căn cứ này hoàn toàn không đủ để tạo cơ hội vì mục đích dân sự và kinh tế nên việc xây dựng sân bay và cảng biến kinh tế là điều bất thường. Còn quan chức Mỹ tin rằng cái điều bất thường đó là mục đích quân sự. Ông Charles Charles Edel, cựu cố vấn của Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố “ Nếu kết hợp căn cứ ở Campuchia với các cơ sở quân sự của Trung Quốc trên các đảo ở Biển Đông về cơ bản sẽ tạo ra võ đài bao lại tất cả các nước Đông Nam Á trên đất liền. Ngoài ra cũng có nhận định rằng sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại đây sẽ làm phức tạp hóa rất nhiều khả năng hỗ trợ Đài Loan của Hoa Kỳ trong trường hợp có xung đột. Gregory Poling, giám đốc Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế, cho biết một căn cứ của Trung Quốc ở Campuchia chắc chắn có thể cho phép Bắc Kinh tăng cường tiềm lực, đặc biệt là không quân, trong vùng Vịnh Thái Lan, eo biển Malacca và biển Andaman. (Theo Businessinsider)  
......

Việt Nam có mạnh lên nhờ ‘hợp tác quốc phòng’?

Mạnh Kim – VOA Khó có thể nói chính quyền Việt Nam không làm gì trước sự đe dọa và lấn lướt của Trung Quốc ở biển Đông. Hợp tác quốc phòng là một trong những chính sách lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này dường như có gì không ổn… Asia Times (1-8-2019) cho biết, ngày 5-8-2019, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) ký thỏa thuận mới về quốc phòng, trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác quốc phòng (thỏa thuận thứ tư mà EU ký với một quốc gia Đông Nam Á – sau Úc, New Zealand và Hàn Quốc). Tháng 4-2019, Jean-Christophe Belliard, Bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao EU, đến Hà Nội gặp Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh. Tháng 5, ông Vịnh sang Brussels họp, theo lời mời Claudio Graziano – Chủ tịch Ủy ban Quân sự EU. Cũng trong tháng 5-2019, cuộc họp đầu tiên trong khuôn khổ Thỏa thuận khung hợp tác và đối tác toàn diện EU-Việt Nam cũng được tổ chức… Xét ở cấp độ song phương với các thành viên EU riêng lẻ, Việt Nam và Pháp cũng “nâng cấp” quan hệ quốc phòng. Hai nước ký thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 2009 và bắt đầu chương trình Đối thoại chính sách quốc phòng cuối năm 2016. Cuộc họp cấp thứ trưởng về an ninh-quốc phòng giữa Việt Nam và Pháp đầu tiên đã được tổ chức vào tháng 9-2018, với kết quả hai bên lập ra các “sáng kiến quốc phòng song phương” đến năm 2028. Ngày 28-5-2019, khu trục hạm Pháp FS Forbin cập cảng Hiệp Phước (huyện Nhà Bè, Sài Gòn). Đây là “hoạt động thăm viếng” đầu tiên bằng hình thức này của Hải quân Pháp với Việt Nam. Không quốc gia phương Tây nào mà Việt Nam xây dựng quan hệ quốc phòng mạnh bằng với Mỹ. Từ năm 2008, hai nước đã tiến hành các cuộc đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị hàng năm giữa hai Bộ Ngoại giao. Đến năm 2010, các cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa cấp cao quân đội hai nước bắt đầu được thực hiện. Tính đến cột mốc ngày 16-12-2013, khi Ngoại trưởng John Kerry và đồng cấp Phạm Bình Minh ra thông cáo báo chí chung tại Hà Nội trong đó có có đoạn “Hôm nay tôi rất vui mừng loan bố khoản viện trợ Mỹ trị giá 32,5 triệu USD cho lực lượng cảnh sát biển các nước Đông Nam Á” (trong đó có 18 triệu USD cho Việt Nam), quan hệ quân sự Việt-Mỹ đã tiến một bước dài. Một tháng sau tuyên bố “Mỹ có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải tại biển Đông” của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Hà Nội, ngày 10-8-2010, khu trục hạm USS John McCain đã xuất hiện tại Đà Nẵng. Hai ngày trước đó, một nhóm quan chức Việt Nam cũng được chở ra hàng không mẫu hạm USS George Washington… Trước đó, quan hệ quân sự hai bên bắt đầu bằng những bước dò đường. Năm 2000, William Cohen trở thành bộ trưởng quốc phòng Mỹ đầu tiên đến Hà Nội. Năm 2003, tàu chiến Mỹ bắt đầu ghé thường niên các cảng Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, tướng Phạm Văn Trà kinh lý Mỹ. Tháng 6-2006, Bộ trưởng Donald Rumsfeld đến Hà Nội. Năm 2007, Nội các Bush điều chỉnh Luật mua bán vũ khí quốc tế (ITAR) nhằm cho phép cấp “giấy phép việc xuất nhập khẩu các hạng mục quốc phòng không sát thương” theo từng trường hợp. Tháng 6-2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kinh lý Mỹ. Hai bên đồng ý tổ chức thường niên các cuộc đối thoại an ninh-chiến lược cấp thứ trưởng và trợ lý thứ trưởng. Cuộc đối thoại đầu tiên được tổ chức tại Washington vào tháng 10 cùng năm. Tháng 12-2009, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đi Mỹ. Tháng 6-2012, Bộ trưởng Leon Panetta qua Việt Nam… Chuỗi sự kiện liên quan quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt sau đó có thể được tóm tắt bằng loạt ghé thăm của tàu chiến Mỹ và việc mở cửa quân cảng Cam Ranh cho tàu Mỹ vào sửa chữa bảo trì. Giới chức quân sự Việt Nam cũng nhiều lần được chở ra thăm các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên gửi quan sát viên tham dự cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương. Tháng 6-2013, tướng Đỗ Bá Tỵ đến Lầu năm góc (vài tuần trước chuyến ghé Nhà trắng của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang). Tháng 10-2013, Việt-Mỹ tổ chức hai cuộc họp thường niên quan trọng về an ninh: Đối thoại quốc phòng-an ninh-chính trị lần thứ 6; và Đối thoại chính sách quốc phòng lần thứ 4… Gần đây hơn, tháng 4-2019, Philip Davidson, chỉ huy Bộ tư lệnh Ấn-Thái Bình Dương của Mỹ, đã đến Việt Nam. Năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis đến Việt Nam không chỉ một mà là hai lần (tháng 1 và tháng 10). Và trước khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào tháng 5-2018, tháng 10-2017, Nguyễn Chí Vịnh đã trở thành quan chức cao cấp nhất của Việt Nam đặt chân lên chiến hạm này (vài ngày sau khi Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Phạm Quang Vinh, tham quan hàng không mẫu hạm USS George H.W. Bush tại Norfolk, bang Virginia)… Vấn đề cần chú ý không chỉ là những cuộc tiếp xúc, ký kết, trao đổi… liên quan hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với phương Tây. Trong thực tế, hầu hết các cuộc mở rộng hợp tác quốc phòng dường như vẫn giới hạn ở khuôn khổ đối ngoại hơn là “có thực chất”. Chúng truyền tải những thông điệp nhằm cho Bắc Kinh thấy Việt Nam luôn xoay chuyển ứng biến trước mối đe dọa Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Việt Nam ráo riết và tích cực trong việc “thắt chặt”, “nâng cấp” và “đi vào chiều sâu” trong các quan hệ quốc phòng với các nước dường như vẫn không đủ để làm Trung Quốc… “sợ”. Chính sách quốc phòng Việt Nam có lẽ không đạt hiệu quả đủ mạnh để Trung Quốc có thể “ngán”, đặc biệt khi Hà Nội vẫn chưa dám bước sang “lằn ranh” để đưa quan hệ Mỹ-Việt trở thành “đối tác chiến lược”. Theo công thức đối ngoại Việt Nam, quan hệ ngoại giao được thiết lập theo các cấp độ: thấp nhất là “đối tác”, rồi “đối tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, và cao nhất là “đối tác chiến lược toàn diện”. Cho đến thời điểm này, Việt Nam vẫn đặt Mỹ ở cấp độ “đối tác toàn diện” (ký kết vào tháng 7-2013). Trong khi đó, tính đến thời điểm này, Việt Nam đã ký kết “đối tác chiến lược” với 16 quốc gia (Nga-2001; Nhật-2006; Ấn Độ-2007; Trung Quốc-2008; Hàn Quốc và Tây Ban Nha-2009; Anh-2010; Đức-2011; Pháp, Indonesia, Ý, Singapore, Thái Lan-2013; Malaysia và Philippines-2015; Úc-2017). Các quan hệ này đã được điều chỉnh theo thời gian. Năm 2009, quan hệ với Hàn Quốc được nâng lên “đối tác hợp tác chiến lược”; năm 2014, quan hệ với Nhật được nâng lên “đối tác chiến lược mở rộng”; năm 2012, quan hệ với Nga thành “đối tác chiến lược toàn diện” và tương tự với Ấn vào năm 2016. Với Trung Quốc, Hà Nội đã nâng lên đến cấp độ “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, vào năm 2009. Như vậy, xét theo chính sách ngoại giao Hà Nội, Trung Quốc hiện là “đối tác” quan trọng nhất; trong khi Mỹ là “ít quan trọng nhất” (cùng chung “hạng” với Argentina, Brazil và Bồ Đào Nha!), thậm chí Mỹ còn kém hơn Myanmar, nước mà Hà Nội xếp vào nhóm “đối tác hợp tác toàn diện” hồi năm 2017. Có gì khác nhau giữa “đối tác toàn diện” và “đối tác chiến lược”? Trả lời phỏng vấn báo Chính Phủ (14-12-2015), ông Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, Học viện Ngoại giao, giải thích: “Đối tác chiến lược có đặc điểm nổi bật là không chỉ có sự hiểu biết lẫn nhau sâu sắc, mà hai bên còn có lòng tin chính trị ở mức cao. Giữa hai nhà nước, giữa lãnh đạo cấp cao thường xuyên có trao đổi, thăm viếng lẫn nhau. Giữa hai nước hình thành nên các cơ chế hợp tác toàn diện, trong đó ưu tiên cho một số lĩnh vực hợp tác chiến lược… Còn đối tác toàn diện ở cấp độ thấp hơn một chút, chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh hợp tác toàn diện, cùng có lợi. Nói tóm lại, đối tác chiến lược có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị và các cơ chế hợp tác cùng có lợi, trong khi đối tác toàn diện chủ yếu tập trung vào khía cạnh hợp tác cụ thể”. Theo đó, quan hệ Việt Nam-Trung Quốc đặt trên cơ sở “có lòng tin chính trị ở mức cao”; trong khi Việt Nam với Mỹ là “hợp tác toàn diện, cùng có lợi”. Trong thực tế, ngôn ngữ dùng để “minh họa” cho quan hệ Việt-Trung mà giới ngoại giao-viên chức Việt Nam sử dụng luôn vượt khỏi khuôn khổ ngoại giao bình thường. Nó luôn được trang điểm bằng những từ vựng màu mè nhất có thể và nó đã là thứ sáo ngữ quen thuộc được dùng xuyên suốt từ thời Hồ Chí Minh-Mao Trạch Đông đến nay. Tháng 5-2019, tại Hà Nội, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tiếp đồng cấp Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa. Báo Nhân Dân (27-5-2019) cho biết, hai bên đã “tập trung đánh giá kết quả triển khai Nghị định thư về hợp tác quốc phòng song phương năm 2003, Tuyên Bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng đến năm 2025 của Bộ Quốc phòng hai nước đã ký năm 2017… Nổi bật là, hoạt động tiếp xúc cấp cao và các chuyến thăm của lãnh đạo quân đội hai nước được thúc đẩy duy trì thường xuyên; một số cơ chế hợp tác được thiết lập, mở rộng về nội dung và hình thức như: Đối thoại Chiến lược quốc phòng, giao lưu sĩ quan trẻ, tuần tra liên hợp trên Vịnh Bắc Bộ, giao lưu hữu nghị Quốc phòng biên giới, hợp tác công tác đảng, công tác chính trị, đào tạo; hợp tác giữa các quân khu giáp biên giới hai nước”… Hai bên cũng “xác định”, rằng “năm 2019 là năm bản lề mang tính đột phá trong quan hệ hai quân đội hướng tới chào mừng 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước vào năm 2020. Trong đó, thống nhất, thời gian tới tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng trên các lĩnh vực: công tác đảng, công tác chính trị; hoàn thành các công trình nghiên cứu khoa học lịch sử, phim tài liệu; tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực quân y; hợp tác giữa các quân chủng Hải quân, Phòng không – Không quân, lực lượng bảo vệ biên giới, công nghiệp quốc phòng, gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới Chương trình Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới và quan hệ giữa các quân khu, biên phòng, Hải quân, Không quân của Việt Nam với Chiến khu Miền Nam của Trung Quốc…”. Chưa bao giờ có bất kỳ thỏa thuận hợp tác quốc phòng nào giữa Việt Nam với các nước lại “toàn diện” như những gì Việt Nam “cam kết” với Trung Quốc. Do đó, cho dù có tổ chức bao nhiêu cuộc gặp với giới chức quân sự phương Tây, cho dù đón bao nhiêu tàu chiến Mỹ, cho dù mua bao nhiêu vũ khí, Việt Nam vẫn không thể xây dựng được niềm tin với các “đối tác” và khiến cho Trung Quốc chùn tay. Việt Nam không thể vừa là đối thủ quân sự “đáng sợ” khi mà Việt Nam cùng lúc nằm chung “chiến hào” với chính “đồng chí” vốn to khỏe hơn gấp nhiều lần. Những thông điệp “hợp tác quốc phòng với EU” hay cái bắt tay với tướng lĩnh Mỹ dường như cũng chỉ là những tín hiệu để mặc cả giúp hạn chế bớt cái nút thắt của sợi thòng lọng Trung Quốc. Một khi Việt Nam còn chưa nhận ra vấn đề chủ quyền và tương lai dân tộc không phải nằm ở cái gọi là “lời nguyền địa lý” mà chính là “lời nguyền thể chế” thì mọi nỗ lực vận động đối ngoại và hợp tác quốc phòng cũng chỉ là những thông điệp có “hàm lượng” “răn đe” nhẹ đến mức không đủ để làm gợn nổi một ngọn sóng biển Đông./.  
......

Công an giải tán cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân Hà Nội

Cô Nguyễn Thúy Hạnh tham gia biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội Lực lượng công an xuất hiện và yêu cầu nhóm 10 nhà hoạt động thuộc nhóm NO-U biểu tình trước Đại sứ Quán Trung Quốc ở Hà Nội hôm 6 tháng 8để phản đối việc Bắc Kinh tiến hành hoạt động thăm dò trên vùng biển chủ quyền Việt Nam. Ảnh Cô Thao Teresa   tham gia biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội Sự việc diễn ra trong vòng 20 phút trưa ngày 6/8/2019, không có hành động bắt bớ nào đến từ lực lượng an ninh diễn ra như thường thấy. Tin từ trong nước cũng như của hãng Reuters loan đi thì vào giờ gần trưa ngày 6/8/2019, một số người dân bao gồm các nhà hoạt động dân sự tiến hành căng băng rôn, hô khẩu hiệu chống Bắc Kinh ngay trước Tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội. Băng rôn có nội dung cụ thể "Yêu cầu chính phủ Việt Nam nộp đơn kiện Trung Quốc lên tòa quốc tế". Ngoài ra những người tham gia biểu tình hô vang các khẩu hiệu: "Hoàng Sa, Việt Nam! Trường Sa, Việt Nam! Đả đảo Trung Quốc xâm lược Bãi Tư Chính!"... Chị Hoàng Thị Hồng Thái, một người tham gia biểu tình cho Đài Á Châu Tự Do biết: “Các anh chị rất bức xúc trước việc Trung Quốc đang gây hấn ở Biển Đông và  họ cũng rất bức xúc việc chính phủ Việt Nam không có thái độ dứt khoát về điều đó. Thành ra có những anh chị như Thảo Teresa, anh Hưng, anh Lê Hoàng, Phương và mấy người nữa đến. Mục đích của cuộc biểu tình bất ngờ hôm nay là muốn chính phủ Việt Nam kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế về điều đó.” Anh Lê Hoàng thì cho biết thái độ của lực lượng an ninh đối với những người tham gia biểu tình vào ngày 6 tháng 8 ở Hà Nội: “Họ có ra và ý họ cũng như bảo thôi, không cho thể hiện như thế nữa. Lần này họ cũng ôn hòa chứ không như những cuộc biểu tình trước là giật băng rôn, khẩu hiệu, máy quay hay che bằng ô. Những hành động như thế rất là vô lý nhưng hôm nay theo tôi nghĩ chắc cũng có gì đó. Thực ra cũng là lòng dân nên họ cũng chỉ xua và nói thôi thôi.” Trong thực tế, tàu khảo sát thăm dò dầu khí Hải Dương Địa Chất số 8 cùng đội tàu hộ tống của Trung Quốc trong một tháng qua tiến hành thăm dò trái phép trong vùng biển Việt Nam gây nên đối đầu giữa 2 nước. Hôm 5/8, Cục Hải sự đảo Hải Nam thông báo sẽ cho quân đội tập trận ở vùng biển Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Thông tin mới nhất được Giáo sư Carl Thayer thuộc Trường Đại học New South Wales, đưa trên Twitter hôm 3 tháng 8 cho thấy Trung Quốc đã điều 35 tàu các loại vào vùng biển Việt Nam, trong này có những tàu trang bị vũ khí hạng nặng. Lúc đỉnh điểm số tàu lên đến 80 chiếc. Trước đó, hôm 30/7, truyền thông Ấn Độ dẫn các nguồn tin ngoại giao khác nhau cho biết phía Việt Nam đã thông báo cho Ấn Độ về những căng thẳng ở Bãi Tư Chính và xác nhận đã có khoảng 35 tàu Trung Quốc có mặt ở khu vực này. Đây cũng là khu vực gần những lô dầu khí mà Việt Nam đã cho Ấn Độ khai thác. Theo các thông tin đã được nhiều nguồn xác định, vào tháng 5 vừa qua, công ty Rosneft của Nga đã ký hợp đồng với một công ty Nhật Bản để giàn khoan Hakuryu 5 tiến hành khoan ở lô 06.1 ở bể Nam Côn Sơn. Hai tàu hậu cần của Việt Nam thường xuyên đi lại giữa Vũng Tàu và lô 06.1 để cung cấp hậu cần cho giàn khoan. Bộ Ngoại giao Trung Quốc mới đây cho biết từ tháng 5, Trung Quốc đã yêu cầu Việt Nam không được khoan dầu. Trung Quốc coi toàn bộ vùng nước và các thực thể nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này vẽ ra ở Biển Đông thuộc ‘vùng nước lịch sử’ của Trung Quốc. Bãi Tư Chính với lô 06.1 nằm trong khu vực này, dù bãi này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam căn cứ theo Công ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc năm 1982. Theo Trang Minh Bạch Hàng Hải, từ ngày 16/6, tàu Hải cảnh Haijing 35111 đã đi vào gần khu vực lô 06.1 nằm ở phía tây bắc Bãi Tư Chính. Tàu này luôn đi gần các tàu hậu cần của Việt Nam nhằm đe dọa các tàu này. Ngày 2/7, tàu 35111 thậm chí đi với tốc độ nhanh và chỉ cách các tàu hậu cần của Việt Nam khoảng 100 mét mỗi tàu. Ngày 3/7, Trung Quốc điều tàu Hải Dương 8 được hộ tống bởi 4 tàu Hải Cảnh và một tàu dân binh, trong đó có tàu Hải cảnh 3901 là tàu hạng nặng cỡ 12.000 tấn tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Đối mặt với các tàu Trung Quốc vào lúc đó chỉ có 4 tàu Cảnh sát biển của Việt Nam. Trong khi tại khu vực Bãi Tư Chính đang có căng thẳng như vừa nêu thì tin cho hay  nhóm tàu tác chiến của Hoa Kỳ dẫn đầu bởi hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan vào ngày 5 tháng 8 tiến vào vùng biển của Philippines. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan hiện là một trong những tàu sân bay lớp Nimitz của Hải quân Hoa Kỳ. Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan từng là chiến hạm lớn nhất của Mỹ cho đến năm 2017 khi Hàng không mẫu hạm USS Gerald Ford xuất hiện; tuy nhiên đến nay USS Gerald Ford vẫn chưa được triển khai.  
......

Vì sao dân Việt ‘ngóng’ hàng không mẫu hạm Mỹ giữa xung đột Biển Đông?

Khánh An -: VOA Động thái mới nhất của Washington, điều hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan tới Biển Đông, đang được công luận Việt Nam hưởng ứng và chào đón nhiệt tình giữa bối cảnh căng thẳng trong vùng biển tranh chấp vẫn chưa có dấu hiệu “giảm nhiệt”. Nhiều ý kiến bày tỏ hy vọng Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam và các nước trong khu vực kiềm chế những hành động hung hăng của Bắc Kinh và “sớm lập lại trật tự ở Biển Đông”. Tin tức về sự hiện diện của USS Ronald Reagan, chiếc hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hạm đội 7 Hoa Kỳ, với sức chứa lên đến hơn 70 máy bay phản lực siêu thanh F18, trực thăng và máy bay trinh sát, trong khu vực Biển Đông hôm 6 tháng Tám đã được chia sẻ rộng rãi trên các trang mạng xã hội tại Việt Nam. “Mừng và hy vọng”, Facebooker Thùy Đan bày tỏ, trong lúc Facebooker Đoàn Kiên Giang nói “Chào 500 anh em USS Ronald Reagan ghé Biển Đông chơi” và “chúc team thuận buồm xuôi gió”. Facebooker Mai Nuong To viết “Hy vọng Mỹ đánh cho nó (Trung Quốc) sập luôn chế độ cs (Cộng sản) để dân ko khổ nữa”. Còn Facebook Thu Tran thì “Cầu mong sao cho sớm lập lại trật tự ở biển đông”. Lý giải cho sự “ủng hộ nhiệt tình” của công luận Việt Nam đối với sự hiện diện quân sự của Mỹ, nhà báo độc lập Võ Văn Tạo cho rằng có nhiều nguyên nhân khiến người dân Việt Nam ngả về phía Mỹ trước nguy cơ xung đột với Trung Quốc ở Biển Đông. “Những năm gần đây, khi Trung Quốc tăng cường lấn hiếp ở Biển Đông, Hoa Kỳ đã tỏ thái độ rất rõ, ngay cả từ sự kiện giàn khoan HD-981 năm 2014. Lúc đó, Quốc Hội Mỹ đã có nghị quyết phản đối chuyện đó rồi, trong khi Quốc Hội Việt Nam thì chưa dám ra nghị quyết”, nhà báo cư ngụ tại Nha Trang đưa ra nhận định với VOA. Một lý do nữa, theo nhà báo Võ Văn Tạo, là động thái mới nhất của Washington rất có lợi cho Việt Nam và khu vực, giữa bối cảnh đang diễn ra “đối đầu” giữa Việt Nam và Trung Quốc, sau khi Bắc Kinh đưa tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 đến hoạt động gần Bãi Tư Chính, khu vực thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kể từ ngày 3 tháng Bảy. Ông nói: “Tôi cho rằng nhất cử nhất động của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ, đặc biệt là các hạm đội, mà Hoa Kỳ là một cường quốc đại dương, là rất quan trọng. Họ đưa (tàu) xuống như thế thì dù mình không biết thực chất tàu đó đến Biển Đông nhằm mục đích gì, nhưng dù sao trong bức tranh tổng thể nó vẫn có lợi cho Việt Nam và hòa bình, an ninh khu vực, và cũng làm cho Trung Quốc phải lo lắng, giật mình theo dõi.” Nhà báo độc lập này cho rằng tình hình Biển Đông và mối quan hệ Việt-Trung hiện nay đang khiến cho những người dân am hiểu thời cuộc ở Việt Nam “rất lo lắng”. Ông nói: “Chính sách ‘lấy thịt đè người’ của Trung Quốc, ăn hiếp láng giềng, tìm cách lấn lướt và ăn cướp quyền lợi chính đáng của các nước láng giềng thì đã rõ rồi, nhưng khổ cái là Việt Nam từ những năm trước đây, đặc biệt tính từ Hội nghị Thành Đô vào tháng Chín, 1990 đến nay, thì rõ ràng quan điểm của Đảng Cộng Sản, chóp bu của Nhà nước Việt Nam nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Họ nêu lên quan tâm lớn nhất của họ là giữ chế độ, nghĩa là thực ra là giữ quyền lợi cho chóp bu của Đảng Cộng Sản Việt Nam thôi, còn quyền lợi của quốc gia, dân tộc bị xem nhẹ, nên người dân rất lo lắng trước tình hình đó.” Mặc dù thừa nhận Hà Nội đã “thay đổi quan điểm” và có “bước ngoặt tương đối quan trọng” trong mối quan hệ Việt-Trung sau sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông năm 2014, nhưng theo nhà báo Võ Văn Tạo, quá trình “thoát Trung” và mở rộng quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là với Mỹ, của Việt Nam hiện nay đang diễn ra “quá chậm”, khiến cho ông và nhiều người dân “vô cùng sốt ruột”. Sự kiện hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan đến Biển Đông diễn ra chỉ vài ngày sau khi Bộ Trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mark Esper lên tiếng chỉ trích Trung Quốc “gây bất ổn” trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Trước đó, Ngoại Trưởng Mỹ Mike Pompeo tại Hội nghị Bộ Trưởng Ngoại Giao ASEAN cũng chỉ trích Bắc Kinh đã có hành động “cưỡng ép” trên Biển Đông. Trả lời báo chí về thông điệp của sự hiện diện của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan ở Biển Đông trong bối cảnh đang có nhiều căng thẳng giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam, Chuẩn Đô Đốc Mỹ Karl Thomas được AP dẫn lời nói sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ là nhằm “giúp mang lại an ninh và ổn định, thúc đẩy các cuộc đàm phán ngoại giao”. Khánh An -: VOA
......

Đánh hay không đánh?

  Đỗ Đăng Liêu – Web Việt Tân   Đánh hay không đánh” là câu hỏi mà nhiều người Việt muốn có câu trả lời trong tình hình “có vẻ nóng” ở Bãi Tư Chính.   Tiếp theo “lời kêu gọi nhân dân bảo vệ bờ cõi” của ông thủ tướng CSVN, trên mạng lại có chỗ loan tin là “Nhà Nước sẽ kêu gọi người dân biểu tình chống Trung Cộng”.   Chuyện chiến tranh mà cứ ngỡ như đùa!   Người dân chứ phải đâu đàn vịt!   Mật Ước Thành Đô, dù văn bản chính thức chưa được công khai nhưng thực tế khó lòng chối cãi: từ Hoàng Sa, Trường Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, bô-xít Tây Nguyên, Đường Lưỡi Bò, Formosa, Viện Khổng Tử, HD 981, Đặc Khu Kinh Tế, Luật An Ninh Mạng,… và hôm nay HD 8 ở Bãi Tư Chính.   Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng CSVN kiêm Chủ Tịch Nước đã nói khi HD 981 tiến vào lãnh hải Việt Nam: “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không?…“   Rõ ràng là đối với ông Trọng và Đảng CSVN “giữ Đảng quan trọng hơn giữ Nước!” và “thà mất nước còn hơn mất Đảng”.   Và để ru ngủ thêm người dân Việt đã mệt nhoài và nửa tỉnh nửa mê sau gần một thế kỷ trong mê hồn trận Xã Hội Chủ Nghĩa, ông phó thủ tướng trẻ tuổi của CSVN Vũ Đức Đam bồi thêm: “…Hoàng Sa Trường Sa … con cháu chúng ta sẽ đòi lại!” Đúng vậy, các ông đã bán cho chúng rồi thì làm sao các ông đòi lại được, nhưng đổ việc lên đầu con cháu là một thái độ hèn!   Và giờ đây, nhân biến cố Bãi Tư Chính, chính ông Trung Tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, thay vì thúc trống dẫn quân đối đầu chặn giặc, thì lại tuyên bố là “Tâm nguyện của nhân dân và Quân Đội Việt Nam và Trung Quốc là vun đắp cho tình hữu nghị lâu bền”!   Ông Tướng ơi, ông muốn nói thay cho Trung Quốc thì nói, nhưng chả có quân đội nào và nhân dân Việt Nam nào có cái “tâm nguyện giả trá và đớn hèn” như ông nói đâu.   Đọc truyện xưa, những kẻ bạc nhược như ông Tướng này thường bị đem chém đầu tức khắc.   Tổng Bí Thư Đảng kiêm Chủ Tịch Nước đã phán như thế!   Thế hệ kế tiếp của Đảng CSVN (như ông Vũ Đức Đam) đã phán như thế!   Tướng để chặn giặc, đánh giặc, của Đảng CSVN đã phán như thế!   Tay của những kẻ đang nắm quyền quyết định vận mệnh đất nước đã bị giặc trói chặt.   Tình hình chỉ có thể thay đổi khi trong nội bộ Đảng những kẻ tay bị trói không còn ở đó nữa.   Cho nên, trong hiện tại, câu hỏi là “Đánh hay không đánh?” hẳn đã có câu trả lời.   Đó là, “sẽ đánh”, nhưng không phải là “đánh giặc” mà là “đánh dân”! Quen, và dễ hơn nhiều! Đỗ Đăng Liêu    
......

Khi đảng cần xương máu của dân với luận điệu: “vận nước không của riêng ai”.

Bạch Hoàn Thật kỳ lạ. Người ta đang đặt trách nhiệm lên vai người dân rằng “vận nước không của riêng ai”, nghĩa là lúc nghĩ đến nguy cơ xung đột, cần tiền và máu, cần mất mát và khổ đau thì người ta tìm đến dân để nói đất nước này không của riêng ai. Đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng ai, nhưng người dân có được biết đầy đủ về những gì đang xảy ra trên đất nước khốn khổ này không? Đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng, nhưng ai đang xài xể tài nguyên, ai đang cào cấu và vơ vét nguồn lực quốc gia, bao nhiêu người được lợi và bao nhiêu triệu người phải chịu đựng hậu quả? Liệu người ta có dám nói đất nước không của riêng ai với những người dân Hà Tĩnh sau thảm hoạ Formosa không? Liệu người ta có dám nói vận nước không của riêng ai với người dân Bình Thuận xuống đường biểu thị lòng yêu nước khi Quốc hội mang dự Luật Đặc khu ra hăm he thông qua và rồi họ bị những tay bồi bút chụp mũ là một lũ nghiện ngập, là phá hoại không? Liệu người ta có dám nói đất nước không của riêng ai với người dân Văn Giang, Dương Nội, với người dân Thủ Thiêm, với những mảnh đời vất vưởng Vườn Rau Lộc Hưng, với những người đã mất đất mất nhà vào tay những dự án của ông này bà kia trên khắp đất nước này không? Liệu người ta có dám nói vận nước không của riêng ai với những người người dân yêu nước bị chụp mũ nhận 300.000 đồng khi xuống đường vì lo cho vận mệnh quốc gia không? Liệu người ta có dám nói đất nước này không của riêng ai với những người có lý tưởng, có khát khao xây dựng đất nước này đã bị đánh đập, bỏ tù? Liệu người ta có đủ can đảm để nói đất nước không của riêng ai với tử tù Đặng Văn Hiến hay không? Nếu có đủ độ dày mặt để nói đất nước không của riêng ai, vận nước không của riêng ai với những người dân khốn cùng ấy, nếu trơ lì được tới mức đó thì hãy mở miệng nói với những người còn lại.  
......

Định Mệnh Và Sự Tự Quyết

Đỗ Ngà - Fb Van Nga Do Một thành phố được sinh ra từ năm 1701, sau đó đến năm 1896 chiếc ô tô Ford đầu tiên được thử nghiệm ở đây. Và từ đó, nơi đây trở thành kinh đô của ngành công nghiệp ô tô của thế thế giới trong kỷ 20 với trụ sở GM, Ford, Chrysler đặt tại đó. 3 ông lớn ngành ô tô này đã nắm đến 90% thị trường ô tô nước Mỹ thời đấy. Nhờ công nghiệp ô tô, thành phố này trở nên phồn vinh nhanh chóng. Khi đó, công nhân của ngành ô tô nhận lương rất cao. Nhờ đó, chính quyền thành phố thu được khoản thuế khổng lồ để vận hành bộ máy công. Dân số tăng lên nhanh chóng, từ 285 ngàn dân năm 1900, đến năm 1930 đã là 1,5 triệu người và đỉnh điểm là năm 1950 với 1,8 triệu người. Khi đó, thành phố này trở thành thành phố lớn thứ 5 nước Mỹ và sự hào nhoáng của nó sánh ngang với thành phố Chicago của bang Illinois kế bên. Những năm 1940 thành phố này đã có nhà chọc trời mọc lên san sát, đường sá thoáng, hệ thống tàu điện rất hiện đại. Thế nhưng bắt đầu từ năm 1960 vấn đề chủng tộc gây mẫu thuẫn sâu sắc và bạo lực xảy ra liên miên. Chính vì thế, người dân bắt đầu rời thành phố sang nơi khác sinh sống. Và tiếp theo những thập kỷ sau đó, các nhà máy xí nghiệp của ngành công nghiệp ô tô cũng rời khỏi thành phố tìm kiếm nơi mà có nhân công rẻ để xây dựng. Khi ngành công nghiệp ô tô giảm dần, ngân sách chính quyền thành phố thất thu và dần trở nên thiếu hụt. Kể từ đó, chính quyền thành phố cắt giảm chi phí những dịch vụ công như tinh giảm lực lượng cảnh sát, cắt giảm chi phí chăm sóc cây xanh thành phố vv.. Mà khi lực lượng cảnh sát mỏng thì bạo lực leo thang. Mà khi bạo lực leo thang thì dân cảm thấy bất an và họ lại bỏ thành phố sang nơi an toàn hơn sinh sống. Cứ như thế diễn ra trong nhiều năm, dân số thành phố giảm dần. Nhiều khu nhà bị bỏ hoang thành nơi ẩn náu của tội phạm và người vô gia cư. Kinh phí thiếu hụt, chính quyền thành phố phải liên tục đi vay nhưng cũng chỉ trang trải dịch vụ công ở mức hạn chế. Cuối cùng đến năm 2013 chính quyền thành phố nợ 18 tỷ đô và không có khả năng trả nợ nữa, thế là chính quyền thành phố nộp đơn lên toàn án liên bang xin được phá sản. Khi đó dân số thành phố chỉ còn 700 ngàn dân. Sau khi phá sản, khu downtown với những nhà chọc trời của thành phố lần lượt bị bỏ hoang, và cho đến hôm nay thành phố này gần như đã thành một thành phố ma. Hiện tại nó vẫn đang thoi thóp và chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng để trở thành một phế tích thời hiện đại. Vâng, đó là cuộc đời của thành phố Detroit thuộc tiểu bang Michigan Hoa Kỳ. Điều vô cùng ngạc nhiên là, thành phố này có số phận vô cùng bi đát ngay trong lòng nước mỹ đang thịnh vượng và giàu có. Nó được xem như đứa con của vị đại gia giàu có số một thế giới, nhưng cái chết vẫn cứ đến với nó mà không thể cứu vãn. Đó chính là định mệnh, định mệnh của một thành phố. Vậy định mệnh là gì? Nó là một quyền lực vô hình mà quyết định cuộc đời ta mà chính bản thân ta dù có nỗ lực vẫn không thể nào vượt qua được. Cuộc đời con người luôn chia làm 2 phần, một phần do ta tự quyết, và một phần khác là do một quy luật tự nhiên vô hình nào đó quyết định. Giữa 2 sức mạnh này, thì sức mạnh vô hình thường mạnh hơn và nó có thể bẻ gãy phần sức mạnh tự quyết của chúng ta. Điều đó là hoàn toàn có thật. Mỗi người hãy tự cảm nhận, đừng tự xưng ta giỏi, phần tự quyết của chúng ta rất giới hạn. Con người có kẻ sống thọ, có kẻ sống yểu, có kẻ giàu, có kẻ nghèo. Các thành phố trên thế giới cũng vậy, có thành phố ngàn năm, nhưng cũng có thành phố chỉ được tính bằng trăm năm, có thành phố giàu có, và cũng có thành phố nghèo như hệt phận một con người vậy. Tương tự như vậy, các quốc gia trên thế giới cũng có quốc gia lâu đời, cũng có quốc gia non trẻ, và cũng có quốc gia bị khai tử khỏi lịch sử hiện đại. Qua quan sát và tổng hợp, tôi thấy dù là quốc gia hay thành phố, nó vẫn có thuộc tính vận mệnh như cuộc đời con người. Qua hình ảnh trước lúc hấp hối của thành phố Detroit ta thấy gì? Ta thấy 2 điều vô cùng qua trọng: Điều thứ nhất, là quan sát hiện tượng, khi mà thành phố bắt đầu cho một thời kỳ suy tàn, thì dân cư trong nó lần lượt bỏ nó ra đi; Điều thứ nhì, là phân tích nguyên nhân. Nguyên nhân đó là gì? Đó là bởi nguồn sống của chính quyền thành phố phụ thuộc quá lớn vào ngành công nghiệp ô tô. Chú ý! Không nên bỏ tất cả các quả trứng vào cùng một giỏ, khi bể hết thì hỏng ăn. Mà khi đã phụ thuộc vào một ngành nào đó quá lớn, khi ngành đó rút đi thì chính quyền thành phố không có nguồn thu khác đủ lớn để trám đầy vào lỗ hổng ngân sách. Và như thế, cứ như quân cờ domino vậy. Ngân sách ít, thì thiếu tiền nuôi cảnh sát, cảnh sát ít thì bạo lực tăng, mà bạo lực tăng thì dân bỏ đi, dân bỏ đi thì ngân sách lại bị teo vì thuế ít. Và cứ như vậy nó đi đến ngày tàn. Nhìn lại Việt Nam, hình ảnh Detroit như đang hiện ra. Đã từ năm 1975 đến nay, người dân Việt cứ tìm đường ra đi bằng mọi cách. Chính quyền CS nợ ngập đầu và núi nợ ngày một phình to. Sự sống của chính quyền đang cậy quá nhiều vào các FDI (doanh nghiệp nước ngoài) như Samsung hay Formosa. Phụ thuộc vào Formosa đến nỗi khi doanh nghiệp này gây thảm họa môi trường khủng khiếp mà chính quyền vẫn không dám đóng cửa nó. Nếu một ngày đẹp trời, Samsung và Formosa rút đi thì sao? Thì chính quyền sẽ trở nên túng quẫn và tất nhiên họ lại đè cổ dân ra vặt thêm lông để bù vào. Và ngân sách cạn đến khi vặt hết lông trăm triệu con vịt vẫn không đủ thì điều gì đến cũng sẽ đến - cắt đất đai tổ tiên trao cho ông hàng xóm trừ nợ. Và cứ như vậy, cái kết cho đất nước này là một cái kết buồn nếu dân không dám làm gì với CS. Quốc gia bị khai tử, đó là chuyện lịch sử đã chứng minh rất nhiều chứ không phải ít. Cuộc đời con người có phần bị quyết định bởi số phận và cũng có phần tự quyết bởi chính chúng ta. Khi đã nỗ lực hết sức mà không thắng nổi số phận thì không có gì để trách, nhưng phần tự quyết của chúng ta có mà chúng ta không dùng đến và để số phận vùi dập thì đó mới là điều đáng trách. Hiện nay 100 triệu dân đang có trong tay sức mạnh tự quyết, sức mạnh này rất lớn, nhưng chúng ta đang không biết dùng đến nó. Nếu cứ như vậy thì đất nước này rất khó thoát khỏi số phận bi đát như thành phố Detroit ngay trong thế kỷ 21 này. Đó là lời cảnh báo và hy vọng chúng ta – 100 triệu đừng để nó xảy ra. -Đỗ Ngà-  
......

Nguy Hiểm Tột Cùng

Kao Phú CÁC BẠN có biết tại sao TQ quyết liệt giành thầu đường cao tốc bắc nam ko? - Các bạn nghĩ nó cần mấy tỷ đô lời lãi ư? Muỗi! - Các bạn sợ nó sẽ dây dưa kéo dài phá kinh tế ta ư? Chuyện vặt! ... ...! Nguyên nhân chính và thật kinh khủng là đây nè: DỌC ĐẤT NƯỚC TỪ Lạng sơn đến Cà mau hơn 2.000 km cao tốc, theo luật cứ 70 km được đặt một trạm thu phí (BOT). Đương nhiên, TQ đầu tư thì người TQ phải thu phí. Mỗi trạm thu phí có ít nhất 100 đến 200 nhân viên từ TQ sang. Nó có quyền xây một khu nhà ở cho nhân viên trú ngụ. Mỗi khu nhà ở ấy, chỉ sau ít năm lấy vợ, sinh con đẻ cái sẽ biến thành làng TQ. Làng ấy sẽ có trường học, trạm xá, khu phố xóm ấp riêng... kiểu TQ. - Khi bình thời làng ấy là ổ gián điệp thu lượm tin tức. - Khi có chiến tranh, làng ấy biến thành trạm trung chuyển vũ khí, trạm giao liên, thành pháo đài bắn ra từ trong ruột gan mình thì chống thế nào? Nhất là chiến tranh trực diện với TQ thì lúc ấy đỡ làm sao...? Trời ơi! Nghĩ đến thôi đã sợ dựng cả tóc gáy. NGUY HIỂM TỘT CÙNG! Hỡi những người tử tế của bộ giao thông! Các bộ Công an, BỘ QUỐC PHÒNG, Đảng và Chính phủ ơi...!!!??? PHỤ LỤC - Đường cao tốc bắc nam đang được phát ngôn của bộ GT hướng rằng chỉ Nhà thầu TQ mới đủ năng lực xây dựng. Xin hỏi vài điều: - Đường sắt Cát linh Hà đông, Apatit Lao cai, Gang thép Thái nguyên... do nhà thầu nào? Thi công tiến độ, chất lượng... ra sao? - TQ trúng thầu ta có cản được họ đưa máy móc thiết bị cũ kỹ mà họ đã đào thải vào VN ko? Có cấm hoặc hạn chế được công nhân TQ tràn vào ko? - Nếu họ cứ chây ì kéo dài 15 - 20 năm chưa xong như Cát linh Hà đông thì bộ GT làm thế nào? Kinh tế VN ngóc lên bằng cách nào? ... ...? - Nhìn trên bản đồ thì cao tốc rất tiện cho xe tăng tràn vào. Với tốc độ 80km/h, đánh từ Lạng sơn đến Cà mau chỉ 30 tiếng. Từ các trạm BOT nống ra theo chiều ngang cả nước khoảng mươi tiếng nữa...
......

Sau hí hửng EVFTA, chóp bu CSVN phải đối mặt với điều gì?

Ông Nguyễn Văn Đài (thứ hai từ phải) khi đến Brussel, Vương quốc Bỉ trong trong hai ngày 9 và 10 Tháng Bảy để vận động các nghị sĩ trong Nghị Viện Âu Châu quan tâm đến tình trạng nhân quyền rất xấu tại Việt Nam trước khi xem xét thông qua EVFTA. (Hình: Viettin.de) Phạm Chí Dũng – Người Việt   Sau cơn đắc chí được ký kết không chỉ EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Châu Âu-Việt Nam) mà còn cả EVIPA (Hiệp Định Bảo Hộ Đầu Tư Với Liên Minh Châu Âu) tạm lắng xuống, giờ đây chính thể độc tài Việt Nam có lẽ không còn quá hí hửng khi nhận ra họ mới chỉ bò được một đoạn trong số những đoạn đường để mới có thể “ăn” được hai hiệp định thương mại mang tính cứu cánh chế độ chính trị đó.   Cửa ải mới   Ngay trước mắt là một cửa ải mới: làn sóng vận động trong giới nghị sĩ Châu Âu – nhằm gây áp lực chính thể Việt Nam phải cải thiện nhân quyền – đang hình thành một cách có hệ thống và có trách nhiệm. Làn sóng này được cung cấp thông tin, xúc tác và hỗ trợ bởi nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và người Việt hoạt động về nhân quyền trên thế giới.   Luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài, người được trả tư do trước thời hạn vào năm 2018, bị chính quyền Việt Nam tống xuất ra nước ngoài và hiện đang cư trú ở Đức, cho biết có tới gần 60% số nghị sĩ được bầu mới trong cuộc bầu cử Nghị Viện Châu Âu vào Tháng Năm, 2019. Phần đông các nghị sĩ này không thích các chế độ Cộng Sản, đặc biệt họ rất phẫn nộ khi nghe tới các vi phạm nhân quyền.   Cần nhắc lại, nghị viện Châu Âu đã được bầu cử lại với nhiều gương mặt nghị sĩ mới thay thế cho những nghị sĩ cũ. Gương mặt mới lại đại diện cho quan điểm và cách nhìn mới về các vấn đề quốc tế, trong đó có vấn đề Việt Nam và tình trạng vi phạm nhân quyền cực kỳ trầm trọng tại đất nước bị ví là “lệ tuôn hình chữ S” này.   Vào gần trung tuần Tháng Bảy, 2019, tức chỉ ít ngày sau khi Liên Minh Châu Âu (EU) và Hà Nội ký hai hiệp định EVFTA và EVIPA, nhóm vận động của Luật Sư Nhân Quyền Nguyễn Văn Đài đã đến thủ đô Brussels của Vương Quốc Bỉ, nơi đặt trụ sở của EU. Nhóm này đã gặp các nghị sĩ đang làm việc trong lĩnh vực nhân quyền và thương mại, đặc biệt có sự hiểu biết và quan tâm đến nhân quyền tại Việt Nam và cũng có ảnh hưởng tới các nghị sĩ khác trong nghị viện Âu Châu. Trong số đó có Nghị Sĩ Pascal Durand đại diện của CH Pháp, Nghị Sĩ Ismael Ertug và Nghị Sĩ Anna Cavazzini đại diện của CHLB Đức, Nghị Sĩ Miapetra Kumpula Natri đại diện của Phần Lan, Nghị Sĩ và là Tân Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Maria Arena đại diện của Vương Quốc Bỉ, cô Miriam Lena Horn cố vấn chính sách thương mại cho Nghị Sĩ Joachim Schuster.   Khi nghe nhóm của Luật Sư Nguyễn Văn Đài trình bày về những vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, sự hủ bại, tham nhũng của chế độ Cộng Sản, đặc biệt là việc đàn áp các tù nhân lương tâm trong các nhà tù, các nghị sĩ đều rất bất bình, thậm chí phẫn nộ. Các nghị sĩ đều hứa sẽ quan tâm đặc biệt tới tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và cũng sẽ chia sẻ thông tin với các đồng nghiệp của họ. Các nghị sĩ sẽ chuyển các câu hỏi và các yêu cầu để phái đoàn của Ủy Ban Thương Mại EU chất vấn nhà cầm quyền CSVN trong chuyến làm việc ở Việt Nam dự kiến vào Tháng Mười tới đây.   Cũng theo Luật Sư Đài, tân Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Quyền Maria Arena đã hứa sẽ tổ chức buổi điều trần về nhân quyền Việt Nam để giúp các nghị sĩ trong nghị viện Âu Châu hiểu rõ hơn về tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và để họ có quyết định đúng đắn về EVFTA.   Nghị quyết 2018/2925 (RSP) sẽ bị vô hiệu?   Để EVFTA được thông qua, chỉ cần có sự chấp thuận của các cơ quan như Ủy Ban Thương Mại Châu Âu, cộng đồng Châu Âu và cuối cùng là nghị viện Châu Âu. Nhưng tỷ lệ áp đảo hơn 60% nghị sĩ Châu Âu với những gương mặt mới là một ẩn số không thể đoán định trước. Nếu chính thể Việt Nam đã có thể vận động được một số nghị sĩ Châu Âu trong nghị viện cũ nhằm ký kết EVFTA và EVIPA, tương lai những nghị sĩ mới có bỏ phiếu thông qua hay không đối với hai hiệp định này là không thể biết trước, và Hà Nội cũng không có nhiều thời gian để lân la làm quen lẫn lobby hành lang như cái cách mà họ đã làm đối với Eurocham (Phòng Thương Mại Châu Âu) ở Hà Nội và lợi dụng cơ quan này để bắc cầu lobby một số nghị sĩ trong nghị viện Châu Âu (cũ).   Còn với EVIPA thì lại “rách việc” hơn nhiều. Khác nhiều với EVFTA, EVIPA mới chính là cái mà một chính thể luôn muốn “ăn sẵn” và “ăn đậm” như Việt Nam cần kíp. Nhưng muốn có được EVIPA để mang lại lợi nhuận cụ thể chứ không phải một thứ danh dự trừu tượng và an ủi như EVFTA, Việt Nam lại cần “vận động” đủ 28 quốc gia thành viên của khối EU, mà nếu 4 trong số các quốc gia đó không đồng ý thì EVIPA không thể được ký kết và phê chuẩn, cũng đồng nghĩa với EVFTA sẽ “toi” dù có được EU phê chuẩn.   Trong dĩ vãng gần, đã có tiền lệ về việc giới nghị sĩ Châu Âu lên tiếng cảnh báo và cảnh cáo về tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Đó là cuộc điều trần EVFTA – nhân quyền tại Brussels vào Tháng Mười năm 2018.   Trong cuộc điều trần trên, nhiều nghị sỹ đã yêu cầu Việt Nam phải sớm thông qua 3 công ước còn lại của Công Ước Quốc Tế về Quyền Lao Động nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động Việt Nam một khi có công đoàn độc lập.   Trong khi điều mà những người tham gia muốn biết là Việt Nam sẽ làm gì để cải thiện nhân quyền; kế hoạch cụ thể để cải thiện nhân quyền là gì; Việt Nam cần thể hiện bằng hành động để chứng minh sẽ và có thể thực hiện các cam kết, ngoài ra cũng yêu cầu rằng 3 công ước còn lại của ILO cần phải được Việt Nam ký chính thức trước khi EU bỏ phiếu chấp thuận EVFTA, thì phái đoàn Việt Nam tham dự cuộc điều trần trên đã không thể trả lời và đánh bài lờ.   Một trong những đại biểu – bà Granwander Hainz – đã chỉ thẳng ra rằng những lời hứa về ILO của Việt Nam chỉ là lời hứa suông từ trước giờ vì chưa có gì được thực hiện, cũng như các cam kết về nhân quyền chỉ toàn có tiêu đề mà không có nội dung cụ thể…   Thế nhưng cho đến ngày 30 Tháng Sáu, 2019 khi đặt bút ký kết hai hiệp định EVFTA và EVIPA tại Hà Nội, chỉ mới một phần rất nhỏ trong toàn bộ nội dung rất rộng và sâu của bản nghị quyết về nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2018/2925 (RSP) do nghị viện Châu Âu tung ra vào giữa Tháng Mười Một, 2018 được phía Việt Nam đáp ứng. Bản nghị quyết này còn cứng rắn hơn cả bản nghị quyết về vấn đề nhân quyền Việt Nam mang số hiệu 2016/2755 (RSP) công bố vào Tháng Sáu, 2016.   Toàn bộ nội dung của bản nghị quyết 2018/2925 (RSP) giống hệt một cáo trạng toàn diện và đanh thép lên án chính thể độc đảng ở Việt Nam về rất nhiều hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng về tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí, nạn bắt bớ người hoạt động nhân quyền, không chịu ký kết các công ước quốc tế về lao động…   Trước yêu cầu phải ký 3 công ước quốc tế còn lại của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), chính thể Việt Nam đã chỉ mang ra quốc hội bàn việc ký và phê chuẩn Công Ước 98 mà không nói gì đến hai công ước quốc tế còn lại về lao động, còn Công Ước 105 về chống cưỡng bức lao động được hứa hẹn ký vào năm 2020. Nhưng bỉ bôi nhất vẫn là Công Ước 87 – công ước then chốt quy định bắt buộc về quyền của người lao động được tự do thành lập công đoàn độc lập – bị phía Việt Nam treo đến năm… 2023.   Nhưng chẳng có gì chắc chắn là đến năm đó Công Ước 87 sẽ được ký. Và nhất là sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc.   Còn việc sửa đổi Bộ Luật Lao Động và Luật Công Đoàn cũng trí trá và ma mãnh không kém khi dự thảo này tuyệt đối không đề cập đến khái niệm “công đoàn độc lập,” trong khi dựng lên một núi thủ tục hành chính để làm nản lòng những công nhân muốn tự tay thành lập công đoàn phi nhà nước.   Trong khi đó, không khí đàn áp nhân quyền ở Việt Nam vẫn đặc sệt như một thùng thuốc súng. Công an Việt Nam vẫn liên tiếp bắt bớ và hành hung dã man những người hoạt động nhân quyền và xã hội dân sự. Vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho bất kỳ một “cải thiện nhân quyền” nào, dù chỉ mang tính mị dân hoặc để đối phó với cộng đồng quốc tế…   Kẻ mò mẫm trong đêm trường tối thẫm   Những bằng chứng không thể chối cãi về vi phạm nhân quyền, cộng với tình trạng đàn áp bất đồng chính kiến ngày càng “vươn lên một tầm cao mới” của chính thể độc tài ở Việt Nam chắc chắn sẽ là những gì mà nhiều nghị sĩ EU không thể bỏ qua khi cân nhắc bỏ phiếu có thông qua hay không Hiệp Định EVFTA. Một cái gật đầu dễ dãi của nghị viện Châu Âu đối với EVFTA sẽ phủ nhận toàn bộ bản nghị quyết nhân quyền Việt Nam của chính cơ quan này yêu sách vào Tháng Mười Một năm 2018, khiến uy tín lẫn hình ảnh của nghị viện Châu Âu bị giảm sút không ít trong đánh giá của cộng đồng quốc tế.   Cũng những bằng chứng sống động cay đắng về đàn áp nhân quyền trên sẽ là quá đủ để khiến nhiều Quốc Hội ở những quốc gia trong khối EU, đặc biệt là Đức, Slovakia, Czech – những quốc gia hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp bị biến thành nạn nhân của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh – thậm chí sẽ có thể phải ban hành những nghị quyết riêng của từng nước về nhân quyền Việt Nam, trải thêm hàng tá hoa hồng có gai nhọn trên “đường cao tốc nối Việt Nam với EU” (câu ví von của quan chức thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) mà giới chóp bu Hà Nội đang mò mẫm trong đêm trường tối thẫm.   Phạm Chí Dũng  
......

Hồng Kông Dậy Sóng.

HỒNG KÔNG - CUỘC CHIẾN KHÔNG MỎI MỆT Amy Truc Tran Sáng thứ 2, 05/08/2019, Hồng Kông tê liệt vì cuộc tổng đình công của người dân toàn thành phố. Các cơ sở thương mại đều đóng cửa, các hệ giao thông như bus, metro, sân bay đều bị xáo trộn và ảnh hưởng nặng nề. Đài phát thanh, truyền hình chính thức RTHK nhìn nhận ít nhất 1/3 nhân viên điều khiển lưu thông hàng không đã đình công, khiến 200 chuyến bay bị huỷ. Bất chấp lời đe dọa của Bắc Kinh và đặc khu trưởng Carrie Lam, nhiều cuộc đụng độ với cảnh sát cũng như sự đàn áp khốc liệt của nhà cầm quyền đã diễn ra, nhưng người dân vẫn cương quyết xuống đường. Người Hồng Kông ý thức rõ đó là cái giá phải trả cho tự do. PRAY FOR HONG KONG!!   GIAO THÔNG HỒNG KÔNG GẦN NHƯ TÊ LIỆT TRƯỚC THỀM CUỘC ĐẠI ĐÌNH CÔNG Trần Đình Thu Tình hình Hồng Kông không còn đơn giản là biểu tình chống luật dẫn độ nữa mà dường như đã manh nha chuyển qua một cấp độ mới. Bà Carrie Lam đặc khu trưởng nói sáng nay trong cuộc họp báo là những người biểu tình đang thách thức chế độ, thách thức mô hình chính trị hiện tại. Hôm nay trên 100 chuyến bay đến Hồng Kông đã bị hủy sau lời kêu gọi tổng đình công của giới công chức vào hôm qua. Các chuyến tàu tốc hành tại Hồng Kông cũng bị ngưng. Nếu xảy ra đại đình công, tình hình Hồng Kông sẽ rất khó dự đoán. Có vẻ như chính quyền trung ương Bắc Kinh và chính quyền Hồng Kông đang lúng túng trong việc giải quyết. Một giải pháp “phản biểu tình” có vẻ được nhà cầm quyền tổ chức, đó là dùng những người thân chính quyền hoặc những người trong lực lượng tuyên truyền viên tập trung trước sứ quán Mỹ để phản đối Mỹ can thiệp vào Hồng Kông, nhưng giải pháp này chắc chắn không có ý nghĩa gì nhiều. Trong những ngày tới tình hình Hồng Kông nói riêng và Trung quốc nói chung sẽ không còn yên tĩnh.
......

Không lùi bước ở Bãi Tư Chính

Phải khẳng định rằng hiện nay không ai có mưu đồ xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam ngoài Trung quốc. Và cũng chưa ai lấy được lãnh thổ Việt Nam ngoài Trung quốc. Từ đó mà xác định rằng Việt Nam không có kẻ thù nào ngoài Trung quốc. Nguyen Ngoc Chu   KHÔNG LÙI BƯỚC Ở BÃI TƯ CHÍNH Chính sách thân CHND Trung Hoa từ 1950 đã đưa nước ta vào bước ngoặt số phận, dẫn đến những đại họa đớn đau không muốn nhắc lại ở đây - vì đã thành quá khứ. Trong số đó có tổn thất dứt day hàng thế kỷ là mất đi một phần lãnh thổ trên đất liền và trên biển đảo cho Trung quốc. Trung quốc đã công khai tiến hành nhiều năm cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ Việt Nam trên đất liền và trên biển đảo. Và hiện nay nhờ tiềm lực kinh tế và lực lượng hải quân ngày càng lớn mạnh mà Trung quốc hung hăng đẩy mạnh chiến dịch gặm nhấm biển đảo. Bồi đắp đảo nhân tạo để biến thành lãnh thổ trên biển. Quân sự hóa để làm căn cứ chiến tranh và kiểm soát vùng trời vùng biển. Lấn chiếm biển đảo của các nước lân cận. Biến biển quốc tế thành biển riêng của mình. Trung quốc đang ngang ngược chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Hành động mới đây nhất của Trung quốc là ngang nhiên đưa tàu đến Bãi Tư chính của Việt Nam để thăm dò địa chất. Không chỉ thế, ngang ngược hơn, Trung quốc tuyên bố Bãi Tư chính là của Trung Quốc và kết tội Việt Nam xâm phạm quyền chủ quyền của Trung quốc. Như vậy Trung quốc đã công khai xâm lược Bãi Tư chính của Việt Nam. Để mất Bãi Tư chính, Việt Nam sẽ mất thêm lãnh thổ nữa cho Trung quốc. Bởi vậy, nhiệm vụ cấp thiết nhất hiện nay của Lãnh đạo Việt Nam là không để mất Bãi Tư chính. LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHÔNG MẤT BÃI TƯ CHÍNH? Những biện pháp tác nghiệp không thể đề xuất công khai ở đây. Nó phải xếp hàng trong sách lược bí mật của những người đứng đầu nhà nước. Những người đó chịu trách nhiệm về sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Họ phải dồn tâm trí, tinh lực, cho vấn đề cấp thiết quan trọng này. Những giải pháp cho Bãi Tư chính phải là mối lo đêm ngày không ăn không ngủ của các Lãnh đạo Việt Nam hiện nay chứ không phải là điều gì khác. NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN Không chỉ Bãi Tư chính, mà Trung quốc sẽ còn trắng trợn xâm lược thêm những vùng biển đảo khác của Việt Nam. Để chống lại tiến trình xâm lược gậm nhắm của Trung quốc, dứt khoát phải tuân thủ mấy nguyên lý sau đây như là các sách lược tiên quyết. 1. MUỐN KHÔNG MẤT THÊM LÃNH THỔ THÌ PHẢI THOÁT TRUNG Chủ trương cầu hòa, thân Trung quốc, để cầu mong Trung quốc không xâm chiếm lãnh thổ là một chủ trương mê muội. Càng thân Trung quốc càng phụ thuộc vào Trung quốc. Càng phụ thuộc vào Trung quốc càng bị Trung quốc chèn ép. Càng bị Trung quốc chèn ép càng buộc phải để cho Trung quốc gặm nhấm lãnh thổ. Cầu xin Trung quốc nương tay là sách lược đớn hèn chỉ chuốc lấy thất bại thảm hại. Phép biện chứng và lý thuyết tập hợp bày cho ta kế sách ngược lại. 1. Nép vào Trung quốc là biến thành Trung quốc. 2. Không muốn Trung quốc chiếm thêm lãnh thổ thì phải đứng tách hẳn ra khỏi Trung quốc. 3. Phải tâm luôn luôn niệm rằng, càng đứng xa Trung quốc thì càng tăng khả năng không bị Trung quốc thâu tóm. 4. Đứng xa không có nghĩa là thù địch. 5. Đứng xa không có nghĩa là đối đầu. 6. Đứng xa có nghĩa là ít liên quan đến kinh tế - không phụ thuộc vào kinh tế. 7. Đứng xa có nghĩa là ít liên quan đến chính trị - không phụ thuộc vào chính trị. 8. Đứng xa có nghĩa là ít liên quan đến quân sự - không phụ thuộc vào quân sự. 9. Đứng xa có nghĩa là ít liên quan đến dân số - khộng bị đồng hóa dân số. 10. Đứng xa có nghĩa là ít liên quan đến văn hoá - không bị đồng hoá về văn hoá. Hiểu cho đúng phép “ĐỨNG XA” thì tự khắc biết phải làm gì. 2. MUỐN THOÁT TRUNG THÌ PHẢI THOÁT CHÍNH MÌNH Đất nước chúng ta đang đứng trước những hiểm họa lớn. Những hiểm họa này có thể quy thành hai nhóm NỘI XÂM và NGOẠI XÂM, mà kết cục làm cho Dân tộc Việt suy yếu, bị phụ thuộc vào Trung quốc và từ đó bị Trung quốc chèn ép ngày càng thêm trầm trọng, dẫn đến mất lãnh thổ từng phần cho Trung quốc. Những hiểm họa này mọi người dân thường Việt Nam – từ già đến trẻ, từ đàn ông đến đàn bà, không ai không thấy. Ai cũng nhìn thấy họa NỘI XÂM phát sinh từ thể chế. Làm cho mình không mạnh lại phụ thuộc vào kẻ NGOẠI XÂM cũng nguyên do từ thể chế. Cho nên, muốn thoát khỏi hiểm họa NỘI XÂM và NGOẠI XÂM thì phải thoát khỏi vòng kim cô tư tưởng người nước ngoài mà chúng ta đang tự đeo vào. Chừng nào mà chúng ta không tự giải phóng chính mình, chưa độc lập tư tưởng, thì chừng đó Việt Nam còn phụ thuộc vào Trung Quốc. Phải khẳng định rằng, hiện nay không ai có mưu đồ xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam ngoài Trung quốc. Và cũng chưa ai lấy được lãnh thổ Việt Nam ngoài Trung quốc. Từ đó mà xác định rằng Việt Nam không có kẻ thù nào ngoài Trung quốc. Một thể chế mới cùng một chính sách mới về ngoại giao và quốc phòng mới có thể cứu Việt Nam không mất dần thêm lãnh thổ cho Trung quốc.  
......

Tin nóng: 80 Tàu Chiến Trung Quốc đã Uy Hiếp Bãi Tư Chính

Chu Vĩnh Hải Giáo sư Carly le Thayer- nhà bình luận chính trị hàng đầu về Việt Nam, vào lúc 4 giờ ngày 4-8 giờ Úc, tức khoảng 7 giờ sáng giờ Việt Nam đã đưa thông tin về bãi Tư Chính trên trang cá nhân của ông. Theo Giáo sư Carlyle A.Thayer: báo cáo mới nhất hiện nay ở khu vực Bãi Tư Chính thì số lượng tàu Hải cảnh của Trung Quốc đạt đỉnh điểm 80 chiếc. Tin của vị giáo sư khả kính này không cho biết số lượng tàu chấp pháp của Việt Nam tại bãi Tư Chính. Trong khi đó, phía Việt Nam không hề đưa ra thông tin chi tiết về Tư Chính. Bãi Tư Chính là khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thuộc thềm lục địa Việt Nam, không phải là vùng biển mà Việt Nam và Trung Quốc tranh chấp. Tôi cho rằng, việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trong khoảng thời gian dài là một hành vi xâm lược. Khi Trung Quốc quấy nhiễu việc khai thác dầu khí của Malaysia ở biển Đông, tập trận và bắn tên lửa ở biển Đông, ngay lập tức Malaysia đã tiến hành tập trận và bắn tên lửa ở biển Đông để đáp trả. Trung Quốc im lặng và dừng ngay việc quấy nhiễu. Khi Trung Quốc tập trận rầm rộ gần Đài Loan cách đây khoảng 10 ngày, ngay lập tức Đài Loan đã tiến hành tập trận lớn để đáp trả, và đã bắn đi 117 quả tên lửa. Tại sao lại là 117 quả mà không phải là ít hơn hoặc nhiều hơn? 117 là số hiệu tàu hải quân Trung Quốc mà Tập Cận Bình ở đó để theo dõi cuộc tập trận. Đài Loan dù nhỏ bé về diện tích lãnh thổ nhưng quá lớn lao về tầm vóc chống Trung Quốc man rợ. Nếu Việt Nam không có thông điệp cứng rắn trước hành vi xâm lược của Trung Quốc ở bãi Tư Chính, Việt Nam sẽ phải đón nhận nhiều cay đắng.
......

Hết Cứu

Van Nga DO Nước Úc là một quốc gia nông nghiệp, Nhật Bản là một quốc gia công nghiệp hiện đại, thế nhưng nói về mức sống thì Úc đứng ở vị trí cao hơn Nhật Bản. Điều này cho thấy, để đất nước giàu mạnh không phải cứ phải là công nghiệp mới phát triển đất nước mà là những nhà hoạch định chính sách ở đất nước đó biết đặt trọng tâm nền kinh tế đất nước mình lên đúng ngành mũi nhọn nào có thể gánh vác vai trò phát triển kinh tế đất nước mà thôi. Nhật mạnh về công nghiệp, Úc mạnh về nông nghiệp vì họ biết thế mạnh của họ là gì. Nếu đặt mũi nhọn vào đúng trọng tâm vật thể thì vật thể đó sẽ được mũi nhọn nâng đỡ hoàn toàn trọng lượng của nó. Tương tự vậy, nếu đặt trọng tâm nền kinh tế đất nước vào đúng ngành mũi nhọn thì nền kinh tế đất nước sẽ được nó nâng đỡ rất lớn. Đặt mũi nhọn sai trọng tâm thì tất nhiên vật thể sẽ đổ. Nền kinh tế cũng gần giống như vậy. Nói thế không có nghĩa là những quốc gia công nghiệp họ xem nhẹ nông nghiệp, mà đơn giản họ xem đất nước của họ thế mạnh là gì ưu tiên ngành đó hơn mà thôi. Có nước ưu tiên phát triển công nghiệp vì đất hẹp người đông và nhân lực của họ mạnh về hoa học kỹ thuật vv.., có nước ưu tiên phát triển nông nghiệp vì đất rộng người thưa và nhiều yếu tố khác như truyền thống, khí hậu thổ nhưỡng, mà quan trọng nhất vẫn là trình độ con người trong quản lý lẫn trong chuyên môn thích hợp cho sản phẩm nông nghiệp chủ lực nào đấy. Lấy ví dụ như ở quốc gia công nghiệp như Mỹ, nước này chỉ 1% dân số làm nông nghiệp không có nghĩa là chính phủ Mỹ xem nhẹ nông nghiệp, mà đơn giản vì tính hiệu quả của ngành này mà thôi. Nước Mỹ chỉ cần lượng người như thế nhưng sản xuất ra lượng nông sản đến dư thừa. Có nước diện tích rất hẹp như Hà Lan nhưng nông nghiệp cũng vô cùng phát triển, như Israel đất hẹp và khô cằn nhưng vẫn phát triển nông nghiệp. Vì sao thế? Vì cả 2 nước này phát triển nông nghiệp dựa trên nền tảng là nguồn nhân lực của họ chất lượng cao. Dù nông nghiệp hay công nghiệp, khi tích tụ hàm lượng chất xám cao thì họ sẽ biến điều không thể thành có thể. Như Israel là ví dụ, chính chất xám đã khắc phục được những bất lợi do tự nhiên mang lại. Nói chung, có rất nhiều cách giải quyết bài toán kinh tế đất nước, mỗi nước có một cách giải khác nhau nhưng ở họ vẫn có những bài toán cơ sở giống nhau. Bài toán cơ sở ấy là gì? Đó là bài toán con người – nâng cao chất lượng thành phần chất xám. Ở tại Việt Nam, với nền giáo dục XHCN có thể biến hàng loạt những con người có tiềm năng chất xám tốt thành những kẻ phục tùng thiếu sáng tạo, thì rõ ràng bài toán chất lượng con người bị phá sản. Chính vì thế nên nó dẫn tới cái thất bại toàn diện ở cả công nghiệp lẫn nông nghiệp. Làm nhà hoạch định chính sách là những con người phải có tầm nhìn, phải được đào tạo bài bản và phải có thực tài. Chỉ có những con người như thế mới nhìn ra thế mạnh nước mình là gì, cần phải phát huy mặt nào cần phải khắc phục điểm nào để đặt trọng tâm kinh tế đất nước vào cái mũi nhọn ấy. Thế nhưng, với một con người mà khi nói về ngành nào cũng hô hào nó là “ngành mũi nhọn” như ông thủ Phúc thì cuối cùng trọng tâm kinh tế đặt vào đâu? Trong một rừng vật thể có hình mũi nhọn nhô lên, chỉ có 1 mũi nhọn là làm bằng sắt còn lại vô số mũi nhọn kia là những chiếc lá hành, thế nhưng ông Phúc không hề phân biệt được cái nào là mũi nhọn của cây cọc sắt, cái nào là mũi nhọn của lá hành thì xem như ông thủ tướng này đang đánh cược nền kinh tế đất nước vào tính may rủi mất rồi. Chính vì thấy quá nhiều mũi nhọn nên anh ấy mới không biết đặt trọng tâm kinh tế đất nước vào đâu. Và thực tế anh ấy đang đặt nền kinh tế đất nước lên đầu những lá hành có hình mũi nhọn mà thôi. Thế nên kinh tế Việt Nam mới đổ nát như hôm nay. Đặc trưng của ĐCS là hồng hơn chuyên, với những con người chỉ biết cầm súng bắn bắn giết giết từ Trường Sơn xuống đô thị rồi cậy công nhảy phóc lên ghế quản trị đất nước, thì làm sao những con người này nhận ra được những việc làm mang tầm trí tuệ của một nhà hoạch định chính sách được? Toàn những kẻ võ biền giành lấy quyền quyết định chính sách thì đất nước không nát mới lạ. Như thế rõ ràng, Việt Nam đã thất bại ngay từ chất lượng con người ở tầm quản lý đất nước nên nó mới tạo hiệu ứng domino làm hàng loạt cái thất bại sau đó. Thượng tầng lãnh đạo kém chất lượng nên chính sách giáo dục thất bại, chính sách giáo dục thất bại kéo theo chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam mãi dẫm chân tại chỗ ở level yếu kém. Mà nhân lực của đất nước này kém ngành nghiệp nào hay ngành nông nông nghiệp nào cũng thất bại. Từ thời kinh tế bao cấp cho tới thời kỳ “đổi mới” thì bài ca công nghiệp hóa cứ vang lên liên tục nhưng rồi sao? Tất cả đều thất bại. Không những nền công nghiệp không có gì mà nông nghiệp chả ra gì. Bao năm nay, người nông dân luôn phải gánh chịu rất nhiều mất mát. Chuyện nông dân sản xuất ra không có nơi tiêu thụ cứ xảy ra từ năm này sang năm khác. Rất nhiều loại nông sản bị nông dân Việt bỏ hoang ngoài đồng không thèm thu hoạch vì giá rẻ, thế nhưng dân Việt thì cứ bỏ tiền túi ra mua nông sản Tàu để dùng. Một điều rõ ràng ai cũng thấy, Việt Nam dưới tay ĐCS thì cả công nghiệp lẫn nông nghiệp đều thất bại toàn diện. Hôm nay ngày 04/08/2019, trên báo Vneconomy có đăng bài “EVFTA: 90% nguyên liệu đi nhập, dù thuế về 0% doanh nghiệp dệt may vẫn công cốc". Ý của bài báo cho biết rằng, chính phủ đàm phán với EU để có Hiệp Định Thương Mại EVFTA, trong đó phía EU giảm thuế xuống còn 0% nếu vải được sản xuất ở Việt Nam, thế nhưng ngành dệt may Việt Nam không thể tận dụng vì 90% vải nhập từ Trung Quốc. Việc này được ví như EU ở trên cao đã chồm người xuống và với tay hết cỡ để nắm tay Việt Nam kéo lên cao. Thế nhưng thảm hại thay, Việt Nam đưa tay lên rướng hết sức mà vẫn không chạm được vào tay của kẻ đang chìa ra cứu mình. Trách ai bây giờ? Chấp nhận ĐCS cai trị thì cho dù thế giới muốn chìa tay vớt Việt Nam lên cũng khó vớt được. Khi Việt Nam đã rướng hết cỡ mà không với tới tay kẻ muốn vớt mình thì sao? Thì tất nhiên bị lún xâu hơn nữa vào vũng lầy. Câu hỏi là Việt Nam sẽ lún sâu vào vũng lầy nào? Câu trả lời là “Trung Cộng”! - Đỗ Ngà -  
......

Phản biện chương trình "Đối Diện" của VTV

Ảnh Nguyễn Thúy Hạnh VTV phát sóng. Mạnh Kim Phải kiên nhẫn lắm mới có thể xem toàn bộ 38 phút chương trình “Đối diện” số đầu tiên của Đài truyền hình Trung ương VTV phát ngày 31-7-2019. Chủ đề là “Mặt trái của truyền thông xã hội”, với nội dung “lật tẩy” những ý đồ “kích động” “gây rối xã hội” “chống phá Nhà nước”… Đại loại vậy. Ngay ở thời điểm mà báo Nhân Dân kêu gọi “Huy động sức mạnh đại đoàn kết trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia” thì truyền thông nhà nước lại giở lại lá bài “thế lực thù địch”, như thể kẻ thù đang ngay trong lòng đất nước chứ không phải ngoài biên cương. Từ khi vụ khủng hoảng bãi Tư Chính nổ ra, thái độ nhà cầm quyền đối với Trung Quốc đã được đánh giá là “mạnh mẽ”, ít ra là trên bề mặt, đặc biệt nếu được quan sát ở cự ly xa chẳng hạn từ lăng kính giới ngoại giao nước ngoài. Với người trong nước, những động thái thế này vẫn chỉ là bổn cũ soạn lại. Lại là những “cực lực lên án” và “phản đối gay gắt”. Chúng chẳng có gì mới để tạo nên bước ngoặc trong đối sách xử lý khủng hoảng sự kiện nói riêng và trong chiến lược đối ngoại về lâu dài với Trung Quốc nói chung. Điều không hề mới nữa, so với các sự kiện trước đó, từ vụ cắt cáp tàu Bình Minh năm 2011 đến vụ giàn khoan HD-981 năm 2014, là khoảng cách trong cách nhìn giữa chính quyền với người dân. Với sự kiện bãi Tư Chính, khoảng cách này còn nghiêm trọng hơn. “Ký ức” về những cái dùi cui dã man có lẽ là bài học lớn nhất mà người dân rút ra được. Chính quyền không chỉ man rợ. Chính quyền cũng “nổi tiếng” tráo trở. Năm 2011, buổi chiếu phim “Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau mất mát” của ông André Menras-Hồ Cương Quyết tại Bình Thạnh đã bị chính quyền phá hỏng, cụ thể là lệnh trực tiếp của “Ba Đua” (Nguyễn Văn Đua, lúc ấy là Phó Bí thư thường trực TP.HCM). Ba năm sau, khi vụ “giàn khoan” nổ ra, bộ phim này lại được trình chiếu miễn phí, ngay tại Hà Nội! Năm 2012, ký giả Bill Hayton bị cấm nhập cảnh Việt Nam bởi “tội” tung ra quyển sách “Vietnam: Rising Dragon”. Mới đây, hạ tuần tháng 7-2019, khi vụ bãi Tư Chính nổ ra, phóng viên Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV) đã tìm gặp Bill Hayton tại Washington DC (nhân một hội thảo về biển Đông) để phỏng vấn! Những trò tiểu xảo hai mặt như vậy có thể kể ra hàng lô. Những phát biểu kiểu như “Vun đắp cho tình hữu nghị bền lâu... đó không chỉ là tâm nguyện của nhân dân và quân đội Việt Nam và Trung Quốc mà còn là tâm nguyện, khát vọng của thế giới văn minh ngày nay” của trung tướng Ngô Minh Tiến, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam ngày 30-7-2019 vừa qua, có thể kể ra hàng trang dài… Không khó khăn để thấy Hà Nội đang làm mọi cách, sử dụng “mọi kênh” cần thiết, để vận động sự ủng hộ khu vực, đặc biệt Mỹ, trong vụ Tư Chính nói riêng và chủ quyền biển đảo nói chung. Hà Nội thành công hay không còn tùy sự cân nhắc lợi ích địa chính trị của các quốc gia liên quan. Điều mà nhà cầm quyền thất bại là họ đã không “huy động” được “sức mạnh toàn dân”. Đằng sau thói ngổ ngáo cuồng vọng Bắc Kinh là cả tỉ người dân Trung Quốc, được nhồi sọ rằng đường lưỡi bò là hợp pháp. Đứng trước mặt nhà cầm quyền Hà Nội là những “thế lực thù địch” trong và ngoài nước. Nếu có thể được gọi là “thành công” thì chính quyền đã có thể xoa tay thỏa mãn trong việc tạo ra, nhào nặn ra, những “thế lực nguy hiểm” cùng màu da và giòng máu. Làm thế nào mà những cá nhân như “Hiếu Buôn Gió”, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Lân Thắng, hay bất cứ “thế lực” nào mà chính quyền tưởng tượng, lại có thể “nguy hiểm”, "đe dọa chủ quyền" và "sự tồn vong dân tộc"? Làm thế nào chính quyền có thể huy động sự “đoàn kết thống nhất” để chống lại kẻ thù ngoại bang khi mà một người ngồi ở vị trí to cỡ “thủ tướng”, như Nguyễn Xuân Phúc, lại có thể hả hê như một đứa trẻ và phát biểu vô ý thức đến mức ngoài sức tưởng tượng khi nói về việc “bọn phản động lưu vong rã rời chân tay”? Nhà cầm quyền Việt Nam giống Trung Quốc ở nhiều điểm. Hà Nội học cách cầm quyền không khác mấy Bắc Kinh. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn không học được cách tập hợp được sức mạnh toàn dân theo cách như Bắc Kinh, đặc biệt khi đụng đến vấn đề chủ quyền. Truyền thông Hà Nội cũng chỉ ở tầm học lóm Bắc Kinh cách tạo ra những “thế lực nguy hiểm”, hơn là đủ khả năng “đối diện” và đánh Trung Quốc trên truyền thông quốc tế như cách mà Trung Quốc đang làm, và làm rất hiệu quả.  
......

Các nhà hoạt động đáp trả phóng sự “Mặt trái của truyền thông mạng xã hội” của VTV

Hình minh họa. Người biểu tình phản đối công ty Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường. Hà Nội ngày 1/5/2016 Cao Nguyên (VNTB)   “Tôi thách thức các tổ Đảng, các báo đài cũng như VTV - Đài truyền hình Việt Nam chỉ ra bất kỳ một chi tiết nào từ các bài viết hay trả lời phỏng vấn của tôi sai sự thật, có nghĩa là xuyên tạc hay là kích động” - Đó là khẳng định của nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng sau khi Đài truyền hình Việt Nam (VTV) phát phóng sự dài hơn 30 phút mang tên “Đối diện: Mặt trái của truyền thông mạng xã hội”. Không chỉ có nhà báo Phạm Chí Dũng bị nêu dích danh trong phóng sự này, còn có nhiều nhà hoạt động xã hội khác bị cáo buộc là sử dụng mạng xã hội để kích động biểu tình, xuyên tạc hay đưa tin giả nhằm tiến tới “xoá bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản, lật đổ Chính quyền nhân dân”. Cáo buộc “kích động biểu tình” Chương trình “Đối Mặt” được phát sóng lần đầu vào lúc 8 giờ 10 phút tối 30/7/2019 trên kênh VTV1 do nhà báo Đức Hoàng dẫn chương trình đã gây xôn xao dư luận trong vài ngày qua, mặc dù đài đã khéo kéo làm mờ mặt những người được nói đến nhưng không khó để nhận ra những nhà bất đồng chính kiến được đề cập. Phóng sự được làm theo phương cách phỏng vấn một chiều các quan chức chính quyền như Bí thư tỉnh uỷ Bình Thuận, Phó cục trưởng Cục an ninh mạng, Phó chủ nhiệm ban đối ngoại Quốc Hội, nguyên Viện trưởng viện Nghiên cứu chiến lược - Bộ Công An… và 2 người dân nhưng tuyệt nhiên không cho quyền những “đối tượng” bị cáo buộc kích động lên tiếng nói. Một người bị VTV1 đưa hình ảnh cá nhân vào phóng sự trên nhưng làm mờ nội dung băng rôn đang cầm và gạch chéo đỏ là nhà hoạt động Nguyễn Thúy Hạnh. Bà là người từng nhiều lần tham gia biểu tình chống Trung Quốc và đang điều hành một quỹ để giúp đỡ cho thân nhân các tù nhân lương tâm Việt Nam. Giọng của phát thanh viên bình luận khi đưa hình ảnh của bà Thúy Hạnh: “Những thông điệp đầy kích động, xuyên tạc, bóp méo sự thật này trên mạng xã hội đã khiến không ít người dân tin theo và từ đó thực hiện các hành vi gây rối, vi phạm pháp luật”. Bà Hạnh, từ Hà Nội cho hay: “Đầu tiên, tôi thấy rằng họ rất hèn khi đưa hình ảnh rõ mặt tôi nhưng cái biểu ngữ của tôi có thông điệp chống Trung Quốc thì họ lại làm mờ đi. Họ đã cố tình bóp méo sự thật để bôi nhọ chúng tôi. Thứ hai là họ đổi trắng thay đen, lươn lẹo, dối trá nên không đáng chấp.” Không những thế, phóng sự lần này của đài truyền hình quốc gia còn gạch chéo đỏ lên gương mặt của linh mục Nguyễn Đình Thục, người từng dẫn đầu đoàn Giáo dân Song Ngọc, Nghệ An đi nộp đơn khiếu kiện công ty Formosa, yêu cầu phải bồi thường thiệt hại và trả lại biển sạch cho người dân. Ông nói với phóng viên RFA qua điện thoại như sau: “Cái trò bịa đặt vu khống là nghề của họ, bản chất của cộng sản là dối trá. Không phải bây giờ mà trước đây đã rất nhiều lần họ vu khống, không chỉ riêng tôi mà còn tất cả những ai đấu tranh cho quyền lợi của người dân hay là cho công lý sự thật, hoặc bất cứ một ai làm điều gì đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người Cộng sản thì đều bị như vậy. Nên tôi cảm thấy việc này cũng bình thường lắm!” Về cáo buộc muốn “xóa bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, lật đổ chính quyền nhân dân” bà Thúy Hạnh cho hay: “Họ thừa biết là cuộc biểu tình của chúng tôi vào lúc này là chưa thể thực hiện được điều ấy nhưng vẫn cố tình vu khống. Cũng có thể để họ có chút sợ hãi chăng?! Nhưng rõ ràng là một sự vu khống trắng trợn!” Còn linh mục Nguyễn Đình Thục thì thừa nhận, dù không ưa gì chế độ Cộng sản hiện nay vì nó đem lại nhiều bất công trong xã hội tuy nhiên những vụ việc mà ông giúp người dân đi đưa đơn khiếu kiện hay biểu tình phản đối công ty Formosa đều không nhằm mục đích “lật đổ chính quyền”. Cáo buộc “tung tin giả” Một khía cạnh của “mặt trái mạng xã hội” được VTV chỉ ra là, một số Facebooker có tầm ảnh hưởng “liên tục viết bài cường điệu những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lí để khoét sâu vào xung đột lợi ích, làm chia rẻ xã hội, thực hiện diễn biến hoà bình, đòi lật đổ chế độ.” Đi kèm những lời bình luận trên là hình ảnh trang Facebook cá nhân của một số nhà báo độc lập nổi bật hiện nay như Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, anh Thái Văn Đường hay nhà báo Lê Trung Khoa từ Berlin, Đức. Đáp trả lại cáo buộc này, nhà báo Phạm Chí Dũng cho biết sẽ để ngỏ khả năng kiện đài VTV ra tòa. “Đây không phải là lần đầu tiên VTV đề cập đến tôi. Trước đây, một số lần họ cũng dùng những từ ngữ như xuyên tạc, kích động, nói xấu… Nhưng vấn đề tôi muốn nói là tất cả những lần báo chí nhà nước, cũng như VTV hay hệ thống Tuyên giáo đề cập tới tôi thì họ đều không chứng minh được bất kỳ một chi tiết nào về việc nói xấu, kích động hay xuyên tạc, ở đây có thể hiểu là nói sai sự thật. Tôi thách thức các tổ đảng, các báo đài cũng như VTV - Đài truyền hình Việt Nam (THVN) chỉ ra bất kỳ một chi tiết nào từ các bài viết hay trả lời phỏng vấn của tôi sai sự thật, có nghĩa là xuyên tạc hay là kích động. Nếu như họ không chứng minh câu nói nào sai sự thật thì chính là họ đã vu khống tôi. Do vậy, tôi có thể kiện họ, tất nhiên là ở Việt Nam chứ không phải là án quốc tế. Tôi biết một khi ra tòa Việt Nam là rất khó khăn nhưng vẫn có thể tôi sẽ kiện họ ra tòa về việc này trong những năm sau chứ chưa nhất thiết là ngay tại thời điểm này.” Nhà báo Lê Trung Khoa, chủ bút tờ Thời Báo, người theo sát và liên tục cập nhật thông tin nóng hỏi về vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ bắt cóc đưa về Việt Nam khẳng định với RFA: “Từ trước đến nay, khi đăng bất kỳ bản tin nào về vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa ra thì chúng tôi đều có dẫn nguồn kiểm chứng. Mọi người có thể tự truy cập vào các trang web đó để tự kiểm chứng. Ở Việt Nam, truyền thông trong nước với hơn 800 tờ báo và các đài truyền hình đều nằm dưới sự quản lý và giám sát của đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy họ chỉ đưa thông tin phục vụ cho Đảng Cộng sản chứ không phải phục vụ cho nhân dân. Những thông tin mà chúng tôi đưa ra là rất mới và lạ đối với người dân trong nước, kể cả một số người Việt Nam ở nước ngoài. Đó có thể là nguyên nhân mà chúng tôi bị cáo buộc là đưa tin giả nhưng thực tế thế thông tin của chúng tôi đều có nguồn gốc và kiểm chứng. Ông Võ Văn Thưởng - Trưởng ban Tuyên giáo Việt Nam đánh giá rất cao giá trị thông tin mà chúng tôi đưa ra hiện nay đã tiếp cận được rất nhiều người. Việc họ dùng VTV1 là cơ quan truyền thông lớn nhất của Việt Nam để đưa chúng tôi lên như vậy vô hình chung lại để cho càng nhiều người Việt Nam biết đến chúng tôi”. Một điều nữa là họ đưa hình ảnh trang cá nhân của tôi lên trên phóng sự và dùng gạch chéo đỏ. Đó là một cách làm thường thấy của lực lượng dư luận viên, nó cũng khẳng định thêm về chất lượng truyền thông của Đài truyền hình Việt Nam các cơ quan tuyên truyền của đảng đã đã xuống cấp một cách rất nghiêm trọng.” Sau những thông tin dồn dập về ông Trịnh Xuân Thanh được chủ bút thoibao.de đăng tải, ông Khoa vẫn chưa được cấp hộ chiếu Việt Nam bị hết hạn và còn có người nhắn tin dọa giết và giờ là “Đối Mặt”. Phóng viên Đài Á Châu Tự Do nhiều lần gọi điện thoại cho nhà báo Đỗ Đức Hoàng, người lên kịch bản và dẫn chương trình của phóng sự nêu trên nhưng không có người bắt máy. Phóng sự VTV liên quan gì tới tình hình ở Bãi Tư Chính? Báo chí trong nước nhiều ngày qua liên tục đưa tin với nội dung lên án hành vi của các tàu thăm dò dầu khí Bắc Kinh đang xâm phạm chủ quyền biển của Việt Nam. Điều đó khiến nhiều người quan sát chính trị cho rằng Hà Nội đang muốn “bật đèn xanh” cho các cuộc biểu tình chống Trung Quốc như vụ giàn khoan HD 981 diễn ra 5 năm trước. Tuy nhiên, phóng sự được làm công phu gần đây lại cáo buộc người biểu tình “nhận tiền để thực hiện hành vi gây rối”. Giải thích về hiện tượng này, ông Lê Trung Khoa nhận xét: “Tôi thấy hai sự việc trên có thể liên quan tới nhau. Thông tin về vụ việc Bãi Tư Chính đầu tiên được các đài quốc tế như VOA, RFA và nhiều trang báo độc lập khác ở nước ngoài đưa tin từ rất sớm. Sau đó, một thời gian rất dài truyền thông Việt Nam hoàn toàn im lặng cho đến khi sự việc đã quá nóng rồi thì Việt Nam mới có phát biểu dè dặt và chỉ nói rằng là tàu nước ngoài mà thôi. Dường như có sức ép nào đó trong đảng, trong các cơ quan cầm quyền trong nước họ không thể chịu đựng được sự im lặng như vậy vì sự xâm phạm chủ quyền biển đảo của Trung Quốc là rất trắng trợn. Cộng với việc ngay sau đó bộ Ngoại giao Mỹ đã ra thông cáo rằng nước lớn như Trung Quốc bắt nạt nước nhỏ như Việt Nam, thì khi đấy báo chí trong nước mới được phép đưa thông tin này một cách thoải mái hơn. Điều thứ hai là trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam được chia thành nhiều trường phái khác nhau. Có thể có những người muốn mở rộng hợp tác với các nước phương tây hoặc Mỹ. Quân đội Mỹ cho tàu sân bay vào cảng Đà Nẵng trong thời gian vừa qua. Đó thể hiện sự xích lại về phía Mỹ. Ngược lại ở phía Bắc thì có thể thấy ông Nguyễn Phú Trọng và những người theo phe ông ta có thể nói rằng thuộc phe thủ cựu thì họ vẫn rất thân thiết với Trung Quốc, vẫn cử cán bộ sang Trung Quốc để học tập, vẫn có những hiệp định ký với nhau một cách rất mờ ám mà không biết cụ thể hợp tác đó là những gì, có lợi hay là có hại cho đất nước. Chính vì vậy, tôi nghĩ rằng trong nước hiện nay có những sự giằng co với nhau giữa thời kỳ có thể nói nhập ngoạng. Đó có thể lý giải vì sao khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam mà Việt Nam lại không phản ứng ngay.” Nhà báo Phạm Chí Dũng lại cho rằng phóng sự của VTV lần này làm xấu hình ảnh của đảng Cộng sản trong mắt Hoa Kỳ: “Hai việc đó khá mâu thuẫn với nhau vì rõ ràng là vào thời điểm này khi chính quyền Việt Nam đang rất cô độc trên trường quốc tế, gần như không có bất kỳ một quốc gia nào ủng hộ Việt Nam, chỉ có Mỹ lên tiếng một cách gián tiếp thôi. Thế thì chính quyền Việt Nam hiện nay đang rất cần sự hỗ trợ không chỉ của cộng đồng quốc tế mà từ dân chúng trong nước. Nhưng thực ra người dân đã bị chính quyền “bỏ quên” từ lâu rồi, không những bỏ quên mà trong những lần đấu tranh tự phát như là biểu tình chống Trung Quốc trước đây đều bị chính quyền đàn áp dã man. Bây giờ người dân chán rồi và cho rằng nếu đảng và Nhà nước muốn lo thì cứ lo và họ không đi biểu tình nữa. Chính quyền đang cần có biểu tình hoặc là sự biểu thị gì đó từ dân chúng. Trong khi đó, những kênh báo đảng như là đài THVN lên tiếng cáo buộc những tiếng nói bất đồng như thế này thì rất mâu thuẫn ăn với ý muốn của đảng hiện nay là là kêu gọi dân chúng ủng hộ đảng. Mặt khác, tôi còn có thể hiểu ra một ý kiến khác là hiện nay tình hình ngân sách đang rất khó khăn, cho nên đài THVN cần phải dựng ra một chương trình gọi là đối diện để kiếm tiền. Cũng giống như là công an, an ninh của Bộ công an và công an các tỉnh thành rất hay theo dõi những người bất đồng chính kiến, và mỗi người bất đồng chính kiến hay là mỗi tổ chức xã hội dân sự đều là một dự án của họ và đều lấy tiền từ ngân sách. Tôi hiểu rất có thể là đài THVN - VTV cũng đang muốn kiếm tiền từ dự án đấu tranh với các quan điểm luận điểm bị coi là phản động. Cần phải nói thêm một điều nữa là Nguyễn Phú Trọng đã hồi phục sức khỏe, rất có thể sẽ tiến hành một chuyến đi Hoa Kỳ gặp tổng thống Trump vào khoảng tháng 9 hoặc tháng 10. Trong bối cảnh Việt Nam đang rất đơn độc trong vụ việc Bãi Tư Chính thì việc VTV có một chương trình Đối Diện đề cập luôn cả các đài tiếng nói Hoa Kỳ VOA và RFA, nói rằng những đài này xuyên tạc thì chính VTV đang phá đám chuyến đi của Nguyễn Phú Trọng trong thời gian sắp tới. Việc đài THVN tự nhiên lại đưa ra một chương trình mà tôi cho là là rất trái khoáy như thế này chỉ làm xấu đi hình ảnh của Nguyễn Phú Trọng và và tổn thương nghiêm trọng đến quan hệ Việt - Mỹ đang trên đà có một chút phục hồi.” Trước đây, không chỉ đài THVN - VTV mà còn rất nhiều tờ báo nhà nước Việt Nam đăng tải các phóng sự hay bài viết với luận điểm tương tự, họ cho rằng những người dân nhận tiền từ 300 ngàn đến 500 ngàn đồng để đi biểu tình. Hoặc cáo buộc “có bàn tay” của đảng Việt Tân đứng sau các cuộc biểu tình chống Trung Quốc hay phản đối luật Đặc khu, đồng thời cảnh báo người dân và khách du lịch không được tham gia “tụ tập đồng Phóng sự lần này của VTV được tung ra sau khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm đài THVN  hôm 10/7 và cho rằng đài này phải thể hiện giá trị cốt lỗi là “đấu tranh lại tin xuyên tạc, tin giả, tin xấu, tin độc”. Đài truyền hình VTV trong quá khứ từng bị chính quyền Việt Nam phạt nhiều lần vì phát tán tin sai sự thật. Hồi tháng 5/2016, phóng sự "Chổi quét rau" của đài này bị tố là dàn dựng một số cảnh quay, bị Cục phát thanh truyền hình ra quyết định xử phạt 50 triệu đồng và phải cải chính xin lỗi. Trước đó, vào tháng 12/2014, VTV cũng bị phạt 2 lần tổng cộng 14 triệu vì đưa thông tin sai sự thật. Các bản tin thời sự của đài VTV về những nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền bị chính quyền Việt Nam bắt giữ và kết án nhiều năm qua cũng bị các những người bất đồng chính kiến cáo buộc là đưa thông tin một chiều, dàn dựng.
......

Nhục đến mấy đời?

Trân Văn – Thiên Hạ Luận VOA Tuyên bố của Trung tướng Ngô Minh Tiến (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam) tại Lễ Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Hoa, do Đại sứ quán Trung Quốc ở Việt Nam tổ chức: Vun đắp cho tình hữu nghị bền lâu không chỉ là tâm nguyện của nhân dân và quân đội Việt Nam và Trung Quốc mà còn là tâm nguyện, khát vọng của thế giới văn minh ngày nay (1) – đang khuấy động dư luận trên mạng xã hội Việt ngữ. Sau khi đọc tin tường thuật về sự kiện này trên trang facebook của Loc Pham, Lam Thanh Nguyen không giấu được phẫn nộ: Đó chỉ là tâm nguyện của chúng mày – lũ hèn nhát, bán nước – chứ không phải của nhân dân. Cút hết đi! Thanh Quach gọi tuyên bố đó là hệ quả của “độc đảng, độc tài, tham nhũng, bán nước, buôn dân, chưa đánh đã hàng, thà mất nước để giữ đảng, đem cả dân tộc làm nô lệ cho Tàu”. Liên Nguyen thì than: Giờ mới biết quân đội dùng để… vun đắp tình hữu nghị (2)! Cũng với tâm trạng như vậy, Nguyễn Phan thắc mắc: Những lãnh đạo quân đội như thế có thấy nhục với tổ tiên như Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung không nhỉ? Theo Nguyễn Phan thì chắc là… không! Nếu biết nhục thì đã không thốt lên những lời hèn mạt như thế. Với những lãnh đạo như thế, đất nước sẽ sớm rơi vào vòng nô lệ Tàu Cộng thôi! Theo Nguyễn Phan: Mỗi người lính bình thường nhưng có sĩ khí, có lòng tự tôn dân tộc đều sẽ… chửi cha thằng tướng hèn hạ này (4). Đúng là hết sức khó hiểu và đáng phẫn nộ khi Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam lại phát biểu như vừa kể, khi chuyện Trung Quốc vừa xâm nhập – thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, vừa vu cáo Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc tại bãi Tư Chính” càng lúc càng nóng cả ở Việt Nam lẫn các diễn đàn quốc tế. Đáng bận tâm hơn bởi dường như đó là nhận thức chung của đảng ta. Trên facebook của Nguyen Khanh, Lich Thanh Vu chụp lại bài tường thuật có tựa: “Tổng Bí thư: Nếu đụng độ trên biển ta có ngồi đây được không?” đăng trên SOHA ngày 8/12/2015 – và giới thiệu vừa như một ví dụ cụ thể, vừa như một cảnh báo (5)! *** Có một điểm đáng chú ý, do sự phẫn nộ và khinh bỉ lan rộng, nhiều facebooker cùng họ với ông Tiến đồng thanh bảo ông là vết nhơ đáng xấu hổ của Ngô tộc. Ngô Trường An viết hẳn một thư ngỏ gửi ông Tiến, đại ý: Trung Quốc nuôi dã tâm thôn tính Việt Nam đã hàng ngàn năm. Nếu học hành tử tế, ông phải biết, họ Ngô có những danh tướng như Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Ngô Tuấn (Lý Thường Kiệt) đánh quân Tống, Ngô Thì Nhậm tham gia đánh quân Thanh… Là con cháu Ngô tộc, lẽ ra ông phải thấy, tiền nhân hết sức chống giặc Tàu để giữ yên bờ cõi cho con cháu thừa hưởng giang sơn. Nếu họ hèn hạ, sợ mất… hũ gạo, nhẫn nhục vun đắp tình hữu nghị với giặc như ông thì làm gì còn đất nước cho đảng của ông Tiến giành giật lãnh đạo? Theo Ngô Trường An: Là tướng mà không phân biệt được bạn – thù thì quá đần độn! Trước nay, Ngô tộc chẳng có tướng nào ngu dốt đến như thế! – và khuyên ông Tiến: Nên đổi họ khác giống như “cha già” của ông cho Ngô tộc khỏi nhục. Ngo Dinh Thanh – một facebooker khác – tán thành: Chắc y mạo nhận chứ Ngô tộc không thể sinh ra loại tạp chủng này. Facebooker Phuong Trach Ngo nhắn ông Tiến: Ngu xuẩn và hèn hạ đến thế là cùng! Ông chỉ có thể đại diện cho chính ông. Còn nhân dân Việt Nam không bao giờ muốn “vun đắp tình hữu nghị bền lâu” với lũ cướp. Giống như nhiều facebooker cùng họ với ông Tiến, Phuong Trạch Ngo tỏ ra hết sức uất ức: Tại sao Ngô tộc lại có kẻ mang lon Trung tướng mà ngu xuẩn và dốt nát đến thế?.. Đã vậy mà Dung Nguyen còn nhận định giống như đổ dầu vào lửa: Có lẽ con cháu ba đời sau cũng chưa hết nhục vì phát biểu của ông Tiến! Để an ủi Ngô tộc, Trần Đức Đàn chen vào bảo rằng: Tuy “thằng” này họ Ngô nhưng là “ngô biến đổi gien” rồi (5)! *** Vì ông Tiến cao giọng khẳng định “vun đắp cho tình hữu nghị bền lâu không chỉ là tâm nguyện của nhân dân và quân đội Việt Nam” nên trên mạng xã hội Việt ngữ, có rất nhiều facebooker dùng facebook nhắn với ông Tiến là họ không có trong số đó, chẳng hạn Long Huỳnh – một thân hữu của Ngô Trường An. Long nhấn mạnh: Không có tao trong đó mà cũng đ… có nhân dân nào trong đó, chỉ có… đảng chó tụi bay thôi! Còn Ha Lam cảnh cáo: Đừng đánh tráo, đừng mượn hai chữ nhân dân che giấu sự thật, che giấu bản chất của mối quan hệ không liên quan gì đến nhân dân hai nước cả! Kiet Le Nhan thì viết: Trách “chú” bỏ chữ vào miệng quân dân. Chưa trưng cầu quân ý, dân ý mà “chú” phán bừa! Không chỉ có những facebooker như Ban Nguyen tin rằng: Viên tướng này không biết gì về lòng dân cả. Tội nghiệp! Minh Viet Nguyen hoang mang: Liệu “thằng” này có đại diện cho trí tuệ và chí khí của các tướng lĩnh Việt Nam hiện nay không (6)? Phuong Nguyen Tung nửa đùa, nửa thật: Tướng cỡ này thì quân đội mới anh hùng chứ (7)! Trên trang facebook của Ngô Trường An, Trong Phantran góp một trả lời: Phải có tư tưởng CẦU BẠI thì mới là TƯỚNG thời nay chứ! Khai Nguyen lý giải, nỗ lực đánh tráo tâm nguyện xuất phát từ chỗ đảng ta chỉ muốn duy trì quyền lực, quyền lợi của mình, thành ra có mất tất cả cũng không sao. Đó cũng là lý do, giống như nhiều facebooker, Le Phuong ngậm ngùi: Giờ mới biết thế nào là bán nước buôn dân (8)! Chú thích (1) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/military-officers-of-vn-china-vow-to-build-up-relationship-07312019091211.html (2) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2317411888350916&set=a.227252624033530&type=3&theater (3) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2636323753053060&set=a.245249128827213&type=3&theater (4) https://www.facebook.com/khanhtuanng/posts/10156518830988181 (5) https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2123960987714536&set=a.287641388013181&type=3&theater (6) https://www.facebook.com/minhviet.nguyen.14661/posts/669904546821253 (7) https://www.facebook.com/phuong.nguyentung.31/posts/2341989319397587 (8) https://www.facebook.com/le.phuong.5454021/posts/2260739183975400  
......

Hồng Kông, Diễn viên Châu Nhuận Phát hiến số tiền 17 nghìn tỷ đồng để làm từ thiện

......

Câu chuyện của Trường Sa

Khi cuộc đấu tranh giành quyền con người đang xảy ra tại Hong Kong, khi những tinh hoa của phong trào dân chủ ở xứ sở này đang làm cả thế giới ngưỡng phục, khi hầu hết người Việt Nam cũng đang hướng về cuộc đấu trí ngoạn mục của người dân Hong Kong với tất cả lòng ngưỡng mộ, tôi muốn nhắc với chúng ta về một người con gái của đất nước mình. Ngày hôm nay, ở Trà Vinh có một mái nhà nho nhỏ đang ấm lên vì được đón cô trở về. Không có con đường nào dẫn tới dân chủ mà không có những hy sinh. Tôi cũng muốn được sưởi ấm trái tim của chúng ta bằng câu chuyện của cô. Và tôi tin rằng để nói một lời cám ơn đến chị, không gì hơn là chia sẻ lòng biết ơn đó đến với mọi người. Không phải ngẫu nhiên các bạn tù đã gọi tên cô là Trường Sa. Trường Sa, tên một hòn đảo đã mất, đối với nhiều người Việt Nam, Trường Sa được đánh dấu bằng nỗi đau, bằng ký ức của một cuộc hải chiến đẫm đầy máu lệ. Nhưng cái tên Trường Sa khi đặt cho người thiếu nữ này, nó đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng, nỗi ấm áp, và đầy ắp yêu thương. Tên thật của cô là Nguyễn Đặng Minh Mẫn. Cô nhỏ người, xinh xắn, nhưng khuất phục được cô là một điều không tưởng. Cuối tháng Bảy, 2011  Minh Mẫn bị bắt cùng với mười ba thanh niên khác. Đây là vụ án lớn nhất vào thời điểm bấy giờ, tất cả đã bị khép với tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền”. Minh Mẫn là một trong ba người lãnh án nặng nhất. Trước tòa, cô cương quyết không nhận tội, chỉ xin giảm án nhẹ cho mẹ và anh trai. Về phần mình, Mẫn nói: “với tôi thì không cần thiết, vì những gì tôi làm thì tôi chịu và tôi không cần sự khoan hồng”. Kết quả, tòa án Nghệ An đã tuyên án Mẫn lên đến tám năm tù! Vận mệnh, tai ách của đất nước đã áp đặt lên người phụ nữ Việt Nam những điều vượt quá sức chịu đựng của họ. Tuy nhiên, tám năm thanh xuân cùng những gì được nghe về Mẫn đã khiến tôi tự hào về cô, về những người phụ nữ của đất nước mình. Niềm tự hào đó có lúc đã làm tôi rơi nước mắt. Có người mẹ nào trên thế giới này phải chịu trói tay, chứng kiến những oan sai của con mình như mẹ của Minh Mẫn, của Phan Kim Khánh, của Trần Hoàng Phúc, … tôi nhớ tiếng gào khóc của mẹ anh Hoàng Đình Cương bên ngoài phiên xử của con và tôi không khỏi rưng rưng trước sự dũng cảm của chị Huệ, mẹ TNLT Huỳnh Đức Thanh Bình. Trước bản án khắc nghiệt 10 năm của con trai, chị Huệ đã nhiều đêm mất ngủ. Chị nhớ ánh mắt cương nghị của con, nhớ bàn tay con đặt lên ngực như một lời nguyện thề dấn thân, và chị viết cho con: “Mẹ chỉ muốn xin lỗi con, vì những giọt nước mắt yếu đuối của một người mẹ. Giờ mẹ sẽ đi cùng con trên chặng đường đầy cam go này, yêu nước không có tội con ạ …!” Ơi những người mẹ yêu con! Những người mẹ yêu thương cuộc đời của con hơn cả chính bản thân mình. Chính các chị đã cho đất nước này những người con gái, con trai như Mẫn, như Phúc, như Khánh, như Bình, … Chính các chị đang viết nên những giá trị mới cho một xã hội đang khủng hoảng niềm tin này. Ở vào cái thời điểm của năm 2010, nhắc đến hai chữ Hoàng Sa, Trường Sa là một điều cấm kỵ đối với lãnh đạo cộng sản. Vậy mà, một ngày kia người ta bỗng bắt gặp ba chữ viết tắt HS.TS.VN ở khắp mọi nơi. Ngày ấy, Mẫn là một trong những người đã đóng góp tích cực cho phong trào này. Cô đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, dùng sơn xịt, kẻ chữ, vẽ chữ, rải truyền đơn, … Ban đầu HS.TS.VN chỉ xuất hiện ở những nơi hoang vắng, nhưng dần dần nó lộ diện ngay cổng trường học, công khai bên góc phố, trên bến xe, nơi tấp nập đông người qua lại. Thoạt đầu, người ta thấy nó ở Bình Dương, rồi lan đến Củ Chi, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Hới, Quảng Bình, Thanh Hoá, Nam Định, Phan Thiết, Ban Mê Thuột, Sài Gòn v.v… Trong những bóng người hàng đêm, âm thầm trên khắp các nẻo đường đất nước, đi viết lên thông điệp khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc có cái bóng dáng bé nhỏ của hai mẹ con Mẫn. Gia đình Mẫn có tổng cộng bốn người, thì hết cả ba đã bị bắt. Mẹ, anh trai và cô. Cả ba đều cùng bị kết án với “điều 79, Bộ Luật Hình Sự”! Vào đến trại giam, những tháng đầu tiên, Mẫn đã khiến quản giáo và bạn tù suốt nhiều dãy phòng của trại giam B34 phải nể phục. Ngay từ nhỏ, Mẫn đã rất bám mẹ. Khi biết mẹ cũng bị giam trên lầu, một lần quá nhớ, Mẫn đã viết cho mẹ trên cái bo cơm bằng nhựa hàng chữ: “bé Ty nhớ má wá” (bé Ty là tên ở nhà của cô). Chẳng biết cái bo cơm có luân phiên đến được tay người mẹ hay không, nhưng hàng chữ đã khiến Minh Mẫn bị biệt giam đến 15 ngày. Hết hạn, quản giáo buộc cô phải viết đơn xin tha, nhưng Mẫn không đồng ý. Cô cho rằng họ tùy tiện bắt giam thì phải tự ý thả, cô nhất quyết không làm đơn. Lần lữa hết một tháng, rồi một tháng 10 ngày, cuối cùng quản giáo đành phải thả cô ra. Tám năm trong tù của Mẫn là tám năm chúng ta nghe về những cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ của cô. Năm 2014, nghe tin Trung Cộng đem giàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa nước ta. Khi đi lao động, một lần nữa, Minh Mẫn và mẹ đã viết lên nón lá những chữ viết tắt khẳng định chủ quyền biển đảo. Cả hai đã bị quản giáo tịch thu mất nón lá. Tuy nhiên, điều xúc động bất ngờ là những ngày sau đó, họ lại nhìn thấy ba chữ HS.TS.VN được viết trên nón lá của những người bạn tù khác. Rồi có lẽ, để nói lên một lời tri ơn sâu xa nhất đến hai mẹ con, những người bạn tù đã gọi họ bằng cái tên Hoàng Sa và Trường Sa. Mẫn mang tên Trường Sa là từ đó. Khi bị chuyển ra trại giam ở Thanh Hóa, Minh Mẫn liên tiếp bị kỷ luật. Cứ vài tháng chúng ta lại nghe tin cô tuyệt thực. Năm 2014, cô tuyệt thực hai lần cùng TNLT Cấn Thị Thêu và Hồ Thị Bích Khương để phản đối trại giam cho xây 4 lớp cửa cách ly tù nhân chính trị. Năm 2015, cô tuyệt thực cùng TNLT Tạ Phong Tần để phản đối hành vi tàn bạo, khắc nghiệt của trại giam, … Minh Mẫn đã cho chúng ta thấy rõ một điều SỢ HÃI là thứ vũ khí điều khiển xã hội hiệu quả nhất mà lãnh đạo CS mong muốn. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, chưa bao giờ Mẫn trao cho họ thứ vũ khí đó. Nếu ngày hôm nay bạn chưa dám lên tiếng vì những bất công đang diễn ra quanh mình, nếu bạn còn im lặng trước những án oan sai của người yêu nước, nếu bạn tiếp tục chấp nhận sống với những BOT bẩn, … xin được tặng bạn những con búp bê của Mẫn. Những con búp bê do Mẫn tự tay làm và gởi ra cho mẹ những lần cô được thăm nuôi. Quà lưu niệm Minh Mẫn làm trong tù tặng gia đình khi thăm gặp. Ảnh: Gia đình Minh Mẫn Phải nói là chưa có một thông điệp nào từ nhà tù lại mạnh mẽ, tươi thắm và đáng yêu đến thế. Đó là những con lật đật mặc áo, đội mũ, mang màu cờ vàng của miền Nam Việt Nam; những con lật đật mang hình quốc hoa của tổ chức Việt Tân, một tổ chức mà Mẫn tham gia. Giờ này có lẽ Minh Mẫn đang ngồi trên một chuyến xe đò trở về Trà Vinh. Xin được chào đón Mẫn bằng những bông hoa tươi thắm và xin được khép lại câu chuyện ở đây. Câu chuyện của Trường Sa, một trong những câu chuyện đã làm nên Việt Nam. Nguyệt Quỳnh Em Là Bông Hoa Thơ: Mừng em ra tù  
......

Nhà hoạt động nữ bị giam giữ lâu nhất tại Việt Nam vừa được ra tù

VIỆT NAM CANH TÂN CÁCH MẠNG ĐẢNG Thông Cáo Báo Chí Nhà hoạt động nữ bị giam giữ lâu nhất tại Việt Nam vừa được ra tù   Nguyễn Đặng Minh Mẫn, một phóng viên nữ trẻ và là người chụp nhiều hình ảnh các cuộc biểu tình ôn hòa, vừa được thả từ nhà tù Thanh Hóa vào sáng ngày 2 tháng Tám, sau tám năm bị giam giữ tùy tiện trong những điều kiện lao tù khắc nghiệt. Là một nhà hoạt động xã hội và là thành viên của Đảng Việt Tân, cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn đã bị bắt vào tháng 7 năm 2011, trong một cuộc đàn áp của bộ máy công an CSVN đối với các blogger và nhà báo tự do. Cô còn là người đã tham gia việc vẽ và chụp hình các khẩu hiệu “HS.TS.VN” được dán ở khắp nơi công cộng tại Việt Nam. Minh Mẫn đã bị kết án cùng với 13 người khác vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79 của Bộ luật Hình sự cũ), với bản án 8 năm tù giam và 5 năm quản thúc. Trong tù, cô và các tù nhân lương tâm thường xuyên bị ngược đãi như bị bắt phải ăn những thực phẩm bẩn, thiu và thiếu nước sạch để dùng. Để phản đối sự ngược đãi này, Minh Mẫn đã cùng với các tù nhân lương tâm khác tuyệt thực trong các năm 2014 và 2015. Ngoài ra, cô còn bị đánh đập nhiều lần trước khi bị biệt giam. Trước những đàn áp này, tổ chức Sáng Kiến ​​Bảo Vệ Pháp Lý Truyền Thông (MLDI) và các sinh viên của nhóm Luật Tự Do Biểu Đạt tại Đại học Zagreb đã thay mặt Minh Mẫn đệ trình trường hợp của cô lên Uỷ Ban Điều Tra Về Giam Giữ Tùy Tiện của Liên Hiệp Quốc (UNWGAD). Uỷ Ban sau đó đã ra phán quyết xác định rằng việc giam giữ cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn là vi phạm luật pháp quốc tế và kêu gọi trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho cô. Vào năm 2015, ông Nguyễn Văn Lợi, thân phụ của Minh Mẫn đã được mời sang Hoa Kỳ, tường trình trước Uỷ ban Hạ Viện về Nhân Quyền Việt Nam tại Quốc hội về tình hình đàn áp đối với Minh Mẫn và về những điều kiện giam giữ tồi tệ đối với các tù nhân lương tâm nữ phải chịu đựng tại Việt Nam. Trước tin ra tù của cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn, ông Đỗ Hoàng Điềm, Chủ tịch Đảng Việt Tân đã lên tiếng như sau: “Chúng tôi cảm ơn các tổ chức nhân quyền và cộng đồng quốc tế đã liên tục vận động cho cô Nguyễn Đặng Minh Mẫn. Ngay từ đầu, việc cô bị giam giữ là sai trái và án quản thúc tại gia đối với cô phải được hủy bỏ ngay lập tức.” Trong số các nhà hoạt động bị xét xử cùng với Nguyễn Đặng Minh Mẫn, có ông Hồ Đức Hòa vẫn còn ở trong tù và ông Nguyễn Văn Oai bị bắt lại và giam giữ vào năm 2017. Ngoài ra, hàng chục blogger và nhà báo tự do khác cũng đã bị bắt trong hai năm qua. Đặc biệt là trong những tuần gần đây, các tù nhân lương tâm ở Trại giam số 6 tại tỉnh Nghệ An đã tuyệt thực để phản đối các điều kiện giam giữ tồi tệ. Đảng Việt Tân sẽ tiếp tục tranh đấu để bảo vệ cho các nhà hoạt động đang bị đàn áp và các tù nhân lương tâm vẫn còn khắc khoải trong ngục tù. Ngày 2 tháng 8 năm 2019 Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng Mọi chi tiết xin liên lạc: Hoàng Tứ Duy: +1 202-596-7951 https://viettan.org/64326-2/
......

Tướng Đánh Thuê

Phạm Minh Vũ| 1. Vừa qua, ngày 30- 07 Phó tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam, Ông Ngô Minh Tiến đến đại sứ quán TQ phát biểu một bài lắm lời và trong đó có câu “vun đắp cho tình hữu nghị bền lâu là tâm nguyện của Nhân Dân và quân đội Việt Nam và TQ” Thiết nghĩ định không nói về phát ngôn này, nhưng khi Ông Tướng Tiến nhắc đến 2 từ Nhân Dân đồng nghĩa là có cả tôi ở trong đó, một Công Dân Việt Nam tôi phải có trách nhiệm thể hiện thái độ của mình. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử VN có cái gọi là "hợp tác chặt chẽ" giữa quân đội của một nước bị xâm lược với kẻ thù xâm lược như vậy - ngay trong lúc những hành động xâm lấn đang xảy ra làm cả nước phẫn nộ, thay vì có hành động cứng rắn để đáp trả, mà ông đến dự buổi kỷ niệm với tư thế đi bằng 2 đầu gối thế kia thì ông là tướng gì? Chưa kể, tôi là Nhân Dân, tôi phản đối thái độ đó của ông, tôi chưa bao giờ xem TQ là bạn vàng, và càng không muốn vun đắp cái thứ hữu nghị viễn vông ấy. Và tôi khẳng định chắc chắn toàn dân Việt Nam này, trừ những kẻ tay sai cho giặc như ông thì chẳng ai mà muốn “vun đắp bền lâu” với TQ như Ông tướng muốn đâu. Vậy ông phát ngôn ra theo ý nguyện của Nhân dân VN hay của đảng cộng sản TQ? Chắc chắn không phải ý nguyện của Nhân dân VN, vậy ông là tướng đánh thuê cho TQ rồi còn gì nữa? 2. Ngày 18-07 vừa rồi, trong lúc TQ đang xâm lược nước ta. Ông thượng tướng Vịnh nói “Chúng ta một mặt đấu tranh bảo vệ chủ quyền, mặt khác đấu tranh để bảo vệ môi trường hòa bình, và lợi ích chung của Biển Đông với cộng đồng quốc tế. Đây là chủ trương tại các hội nghị quân sự quốc phòng tới đây”. Tướng Vịnh đã sai nguyên tắc cơ bản, đó là đã đánh đồng chủ thể xâm lược với chủ thể bị xâm lược, đánh đồng giữa chiến tranh và hòa bình, coi việc chiếm được lãnh thổ với bị mất lãnh thổ có ý nghĩa như nhau. Coi việc chống xâm lược khi giặc vào nhà mình như là việc của cả nhân loại chứ không phải việc nước ta. Thế giới không chống, tôi cũng mặc kệ. Đấy là một thái độ hèn hạ nhu nhược và cực kỳ nguy hiểm của một vị tướng lãnh cầm dưới trướng hàng vạn tinh binh. 3. Nếu kẻ cướp làm sai, thì chỉ bị ngồi tù, nhưng thân làm tướng mà sai thì mất cả thành. Rõ ràng, qua sự việc căng thẳng ở Tư Chính, thay vì đứng về Nhân dân để nói tiếng nói cứng rắn và thậm chí đè bẹp ý chí quân xâm lược để vệ quốc. Nhưng, các tướng quân đội VN đều phát ngôn mang lợi cho giặc ngoại xâm hơn, chưa kể quân đội VN suốt ngày đi diễn tập chống bạo loạn, chống biểu tình (Chống Dân) chứ chẳng thấy tập trận chống xâm lược... Điều đó nếu giải thích đơn giản thì các tướng này là tướng đánh thuê cho TQ. Vậy thôi!  
......

Nhân phẩm bị lợi dụng

tuankhanh’s blog – RFA| Anh bạn người Việt gốc Hoa kể lại cho tôi nghe chuyến đi “bán chính thức” kinh hoàng của anh vào đầu năm 80. Dù nhiều năm định cư và thành đạt ở Pháp, ký ức như chưa hề mờ nhạt trong lời kể của anh. Những năm tháng đó, người Việt gốc Hoa giật mình khi thấy mình không thuộc về nơi đâu trên thế giới này. Bắc Kinh mở chiến dịch nạn kiều để tạo làn sóng bất ổn trong Việt Nam. Còn Hà Nội thì cũng muốn tống khứ bớt đạo quân thứ năm của Trung Quốc – theo quan điểm của nhà cầm quyền – đồng thời cũng kiếm được không ít tiền của từ người bỏ ra đi. Người Hoa không thể quay về quê quán bởi nơi đó cộng sản là bạo quyền, và họ ra đi, vì nơi chốn hiện tại, cộng sản cũng đang cầm quyền. Nhưng trong lời kể của anh bạn Việt kiều gốc Hoa đó, điều anh cay đắng, là con người luôn bị lợi dụng. Đặc biệt trong chế độ độc tài luôn bị biến thành đinh ốc, biến thành bánh răng để chở đẩy cho cỗ máy phi nhân tính. Nhưng ghê tởm nhất, họ luôn tự gọi mình là chính quyền nhân dân. Năm 79, thế kỷ 20, Hà Nội kêu gào, buộc nhân dân phải đứng lên ngồi xuống, gọi Trung Quốc là kẻ thù. Thậm chí viết vào sách giáo khoa, lập bảo tàng tội ác… nhưng rồi đến thập niên 90, họ tự xé sách, tổ chức vui tình hữu nghị với Trung Quốc, buộc nhân dân phải gọi hai đảng cộng sản là “bạn vàng”, buộc các bà mẹ liệt sĩ phải im lặng, ngay khi nén nhang cho liệt sĩ 6 tỉnh phía Bắc còn chưa tàn. Đầu thế kỷ 21, khi cuộc sống của người dân Việt Nam không còn là một cái nồi đóng nắp kín, tin tức về âm mưu lấn chiếm Việt Nam và ngư dân chết trên biển xuất hiện mỗi lúc càng nhiều. Trung Quốc hiện nguyên hình là một con ác quỷ và không có bạn bè keo sơn nào trên thế giới này, ngoài trừ Việt Nam. Như một câu chuyện cổ tích về những loài thủy quái trên đại dương, nhưng khác biệt ở đây cả thế giới đều biết rõ con thủy quái đó là gì. Thế nhưng Hà Nội chưa bao giờ dừng lại việc hiến tế ngư dân của mình trên biển, cho con thủy quái đó, bằng cách luôn luôn đẩy họ ra biển để chứng minh “chủ quyền Việt Nam”. Như một loại bùa mê áp đặt, Hà Nội phát cho ngư dân những lá cờ, và để mặc cho công dân của đất nước mình bị đâm tàu trên biển, bị bắt, bị cướp, thậm chí bị giết. Trong khi ngư dân sợ hãi và cố gắng đi xa hơn vào vùng biển của những nơi khác để kiếm sống, thì Hà Nội lại ra những đạo luật phạt nặng tất cả những ai bỏ chạy, không đi vào vùng biển có cái chết chờ sẵn đó. Những năm tháng nguy nan nhất, đau đớn nhất cho ngư dân, truyền thông tay sai của Hà Nội đẩy mạnh việc lợi dụng con người bằng việc ca ngợi những gương sáng liều chết như anh Mai Phụng Lưu – con sói biển – đi vào Hoàng Sa. Yêu nước như một đơn thuốc liều chết, được phát một cách rộng rãi cho ngư dân, trong chính sách ngoại giao giữ gìn Hòa Bình của Hà Nội với Bắc Kinh. “Nếu để xảy ra đụng độ gì thì tình hình bây giờ bất ổn thế nào, chúng ta có ngồi đây mà bàn việc tổ chức đại hội Đảng được không?…”, ngày 8 tháng 12, năm 2015, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói như vậy, trong cuộc tiếp xúc cử tri quận Ba Đình, Hoàn Kiếm (Hà Nội), tổ bầu cử số 1, để báo cáo kết quả kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII. Năm 2015, cũng là một trong những năm cao điểm mà tàu của Trung Quốc hành hạ ngư dân Việt Nam trên Biển Đông. Hơn 20 tàu chính thức báo cáo là đã bị đâm, bắn, cướp… dã man hơn năm trước. Mộ gió của miền Trung Việt Nam cũng nhiều hơn. Máu của ngư dân nhuộm đỏ nỗi uất hận của người Việt, đỏ như phông màn của đại hội. Giờ thì đến anh Mai Phụng Lưu cũng đã quá mệt mỏi và sợ hãi, để có thể liên tục đi vào vùng biển đầy chết chóc đó, cho dù có được phát nhiều lá cờ, và các loại bằng cấp tán dương của bọn cầm quyền thích ngồi trên bờ. Ai rồi cũng nhận ra rằng mình đang bị lợi dụng, lòng yêu nước của mình đang bị lợi dụng. Cái bánh vẽ khổng lồ được chia đều cho khắp mọi nơi, nhưng nhồm nhoàm thật, chỉ có một ít người. Thạc sĩ Hoàng Việt, thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông có kể rằng, ông nghe nói mỗi khi có những hành động lấn lướt của Bắc Kinh thì Hà Nội hay triệu tập những thành phần cơ bản để hội ý về vấn đề đối phó. Năm 2014, thì Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam, những người được hội ý, bí thế, nên đã chọn giải pháp đưa thông tin đến người dân và bật đèn xanh cho những cuộc biểu tình lớn nhằm gây áp lực quốc tế với Trung Quốc. Nhưng cũng với tinh thần tương tự đối với quê hương, tổ quốc được khơi dậy như vậy, hàng ngàn người Việt đã bị Hà Nội cho đánh đập, kết án, bỏ tù, sách nhiễu… từ năm 2015 cho đến nay. Năm 2019, khi nhóm tàu thăm dò Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc tiến vào thềm lục địa Việt Nam,  Hà Nội cũng đã hội ý và dường như sớm nhận ra rằng, cần phải kìm giữ thông tin và không thể bật đèn xanh biểu tình mạnh mẽ như năm 2014. Bởi họ nhận ra rằng sự phản bội với thực tế, chà đạp lên lòng yêu nước qua việc níu kéo mối quan hệ của hai đảng, bất chấp dân tộc và tổ quốc, có thể khiến mọi thứ bùng nổ – không phải với chỉ Bắc Kinh – mà với cả Hà Nội. Tôi hỏi anh bạn Việt kiều gốc Hoa, là vì sao bây giờ đã là một công dân của quốc gia khác, thong dong hơn, sao anh không về ở Việt Nam sống. Anh không giải thích nhiều, mà chỉ cười,nói đơn giản rằng “về cũng chỉ để bị lợi dụng mà thôi”. Anh chỉ là một con người bình thường và yêu thương nơi mình đã được sinh ra, đã lớn lên. Nhưng phẩm giá tối thiểu có một con người bình thường, vẫn là không muốn bị lợi dụng. Chỉ là biết trước hoặc biết sau. Chỉ là biết khi đang còn sống hoặc đang nằm dưới những nấm mồ được gắn huy chương. Tất cả chúng ta rồi cũng nhận ra rằng trong một chế độ độc tài, nhân dân mãi mãi là phía bị lợi dụng với những ngôn ngữ mỹ miều. Chế độ độc tài có thể hy sinh xương máu con người, tài nguyên, đất đai…  Thậm chí có thể buộc cả dân tộc trở thành một loại con tin để duy trì sinh mệnh chính trị, mà họ tự sơn phết lên hai chữ nhân dân. Cũng có thể rồi ngày nào đó, sẽ có những cuộc biểu tình rầm rộ do nhà nước phát động để chống Trung Quốc. Báo chí và truyền hình sôi động đã không khác gì như một ngày hội theo nghị quyết. Vào lúc ấy bạn cũng đừng quên lắng nghe, để thấy trong sự ồn ào ấy, là cả không gian chết lặng âm thầm của phẩm giá một dân tộc bị lợi dụng đến tận cùng. Thật bối rối, nhưng rồi chúng ta, một dân tộc phải làm sao? Chúng ta vẫn sẽ không từ chối bổn phận làm người Việt Nam. Bởi đất nước này, quê hương này của người Việt chứ không phải của đảng Cộng sản. Nên chúng ta sẽ không tha thứ cho bất kỳ kẻ xâm lược nào. Và bên cạnh đó, chúng ta cũng không bao giờ ngủ quên trước sự lợi dụng của bọn độc tài đối với con người và đất nước này. Đó là phẩm giá của một người Việt tự do, không nô lệ cho bất kỳ ai, bất kỳ âm mưu chính trị nào. tuankhanh’s blog  
......

Nếu chính quyền tổ chức biểu tình rộng rãi phản đối Trung Quốc?

Những người này biểu tình chống Dự Luật Đặc Khu, và họ bị bỏ tù. VOA - Phạm Chí Dũng| Một cuộc biểu tình công khai, và hơn thế là một cuộc biểu tình rộng rãi nhằm phản đối Trung Quốc do chính quyền phát động vào thời điểm này liệu có thành công? Đó là một ẩn số rất lớn trong cái phương trình hỗn tạp vừa là ‘đồng chí bốn tốt’ vừa giành giật miếng ăn dầu khí trong quan hệ Việt - Trung. Mít tinh trong… hội trường? Trong nhiều cuộc họp khẩn cấp nhằm đối phó với vụ tàu thăm dò địa chất Hải Dương - 8 được hộ vệ bởi nhiều tàu hải cảnh Trung Quốc xâm nhập vùng biển Bãi Tư Chính từ đầu tháng 7 năm 2019 đến nay, đã có phương án dự định sẽ tổ chức biểu tình phản đối Tung Quốc. Phương án này nhận được ý kiến ủng hộ chủ yếu từ các cơ quan mặt trận, dân vận và đang được ‘trên’ cân nhắc. Tuy nhiên, tổ chức biểu tình như thế nào - hẹp hay rộng rãi, chỉ huy động các thành phần cốt cán như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ… hay huy động không giới hạn ‘quần chúng nhân dân’, tổ chức ở vài đô thị chính như Hà Nội và TP.HCM hay ở tất cả các tỉnh thành… vẫn đang là những vấn đề còn bàn cãi. Một số tờ báo nhà nước đã được cài số để sẵn sàng khua khoắng ‘các tầng lớp nhân dân’, chuẩn bị cho một cuộc tổng xuống đường ‘bảo vệ Tổ quốc’. Nhưng ngay trước mắt, kịch bản có vẻ chiếm ưu thế là tổ chức mít tinh trong… hội trường. Sau đó tùy tình hình mà có đưa cuộc mít tinh đó lên truyền hình hay không. Cũng như cái cách đã tổ chức mít tinh trong hội trường Nhà Văn hóa thanh niên ở Sài Gòn vào năm 2014 và một cuộc mít tinh khác trước Nhà hát TP.HCM, khi nổ ra sự biến giàn khoan Hải Dương 981. Nhưng tất cả chỉ có thể, tức ai đến mít tinh thì chỉ ngồi hoặc đứng chôn chân một chỗ, không có tuần hành hay biểu tình gì hết. Biểu tình ở trong phòng kín. Còn bây giờ trong cơn khốn quẫn của đảng trước ‘bạn vàng’, nguồn tài nguyên vô tận là ‘quần chúng nhân dân’ lại được ngó ngàng. Tuy thế, phương án tổ chức biểu tình rộng rãi, hoặc nói trắng ra là biểu tình ‘cuội’ với thành phần cốt cán là hội đoàn quốc doanh để lôi kéo số đông người dân đi theo nhằm gây áp lực buộc Trung Quốc phải rút tàu khỏi Biển Đông, chẳng có gì bảo đảm là sẽ không bị ‘thế lực thù địch lợi dụng’. Ý kiến lo ngại này thường thuộc về cánh công an và những quan chức mà nhìn đâu cũng thấy thù địch. Vậy là phương án chủ động tổ chức biểu tình gặp phải chốt chặn. Bàn tới bàn lui vẫn chẳng ra được phương án nào đỡ bế tắc hơn. Đảng muốn lo thì lo đi, rồi xem kẻ nào sẽ vỡ mặt! Câu chuyện tuần hành phản đối Trung Quốc đang trở về bầu không khí của thói lấp ló vừa nói vừa run vào năm 2011 - thời điểm đã nổ ra đợt biểu tình phản đối Trung Quốc đầu tiên sau vụ tàu Bình Minh 2 của Việt Nam bị ‘tàu lạ’ cắt cáp. Khi đó, thậm chí đã xuất hiện một văn bản không số, không dấu, không chữ ký và cực kỳ không chính danh từ phía Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội nhằm huấn thị cơ chế biểu tình tự phát của xã hội dân sự và dân chúng, nhưng văn bản này đã lập tức trở thành trò cười của thiên hạ. Tuy nhiên, điều có vẻ lạ lùng đối với chính quyền là vào năm 2019, sự thể đã trở nên khác hẳn. Bất chấp vụ Hải Dương - 8 đã kéo dài cả tháng trời, vẫn không có bất kỳ lời phát động từ bất kỳ tổ chức xã hội dân sự nào ở trong nước về tổ chức biểu tình chống Trung Quốc. Trong khi đó và còn hằn y nguyên não trạng ‘hèn với giặc, ác với dân’, các hàng rào kẽm gai lại được công an và các lực lượng dân phòng, dân quân dựng lên tua tủa trên các đừng phố chính ở Hà Nội và Sài Gòn, cùng hàng đàn bầy chó ngao hờm sẵn ở các góc phố sẵn sàng xồ ra cắn xé những người biểu tình tự phát. Thế nhưng công an đã hoài công mà chẳng phát hiện ra bóng dáng ‘âm mưu biểu tình’ hay người biểu tình nào. “Lòng yêu nước của nhân dân đã bị lợi dụng và bị phản bội” - đó là nguồn cơn chính yếu mà các tổ chức xã hội dân sự, giới đấu tranh dân chủ nhân quyền phẫn nộ nêu ra, để họ sẽ không tham gia vào bất kỳ cuộc biểu tình hay mít tinh nào phản đối Trung Quốc do chính quyền Việt Nam làm đầu trò. Từ nhiều năm qua, hầu hết các cuộc biểu tình tự phát chống Trung Quốc của người dân Việt đã bị chính quyền và công an đàn áp thẳng tay, đánh đập dã man và bắt bớ tràn lan với lý do ‘mọi việc đã có đảng và nhà nước lo’. “Đừng ngạc nhiên và nghĩ người dân thờ ơ. Chỉ ở cái xứ xở này thì chính quyền mới có cái kiểu hành xử quái gở như những năm qua. Dân xuống đường biểu tình chống tầu Trung Quốc cắt cáp quang: Đánh. Chống dàn khoan HD981 hạ đặt trái pháp: Đánh. Dân biểu tình phản đối Formosa, bảo vệ biển: Đánh. Lên gối, xuống chỏ, đánh vỡ mặt mũi dân, quẳng dân lên xe tàn nhẫn như đối xử với những con vật. Dùng cả báo chí chụp mũ họ là những thành phần phản động, gây rối trật tự công cộng” - Facebooker Đoàn Bảo Châu cay đắng tổng kết. Vậy thì vào lúc này, trong tình thế nguy ngập từ ‘bạn vàng’ Trung Quốc và không biết đến bao giờ tàu Hải Dương - 8 mới chịu rút khỏi Bãi Tư Chính, thậm chí còn có thể xảy ra kịch bản Trung Quốc kéo luôn một giàn khoan khổng lồ vào khoan dầu tại khu vực này, ‘đảng và nhà nước ta’ hãy ‘lo’ đi! Xã hội dân sự và những gương mặt trong đó lại chính là đại diện cho một bộ phận không nhỏ người dân, về tâm trạng bức bối với Trung Quốc và cả phản kháng với vô số bất công của chính quyền Việt Nam. Trong bối cảnh mạng xã hội với hơn 70% dân số Việt Nam tham gia và được thông tin và dẫn dắt chủ yếu bởi giới xã hội dân sự chứ không phải bởi các cơ quan chính quyền, việc hầu hết những người hoạt động dân sự tẩy chay hình thức biểu tình hoặc mít tinh phản đối Trung Quốc do chính quyền tổ chức cũng có nghĩa là sẽ lôi kéo một số đông người dân tẩy chay theo. Một cuộc biểu tình quá muộn màng, nếu có, do chính quyền tổ chức để lên dây cót cho các lực lượng quân sự và công an - bị xem là chết lặng trong nỗi sợ hãi trước kẻ thù - sẽ chỉ có ‘quần chúng nhân dân’ là người của những hội đoàn ‘cánh tay nối dài của đảng’, được đảng trả lương để đứng ra hô khẩu hiệu qua quýt với bộ mặt thản nhiên, xong ai về nhà nấy. Còn tàu Trung Quốc vẫn ung dung ngự trị ngay trước mũi Bộ Chính trị đảng Việt Nam như một thách thức không thèm che giấu. Trong lúc đó, cái khó càng bó… cái ngu. Bất chấp lối tuyên truyền ‘tự sướng’ về Việt Nam có chẵn một tá đối tác chiến lược, bao gồm cả ‘đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất’ Trung Quốc - theo cách tụng ca chưa biết đứng đã biết quỳ của giới chóp bu Việt Nam, duy nhất Hoa Kỳ là quốc gia tỏ thái độ ủng hộ Hà Nội trong vụ Hải Dương - 8, cũng như Quốc hội Mỹ đã là địa chỉ duy nhất tung ra bản nghị quyết lên án Bắc Kinh can thiệp thô bạo vào Biển Đông trong vụ Hải Dương 981 năm 2014. Chưa bao giờ chính thể độc tài Việt Nam cùng thói đu dây ngả ngớn đến mức ung thư di căn của nó bị cô độc như lúc này trên trường quốc tế. Vậy đó, đảng muốn lo thì lo đi, rồi xem kẻ nào sẽ vỡ mặt!  
......

Bãi Tư Chính sẽ có số phận như Gạc Ma?

Nhạc sĩ Tuấn Khanh - nhacsituankhanh| Lúc này, mọi thông tin về Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) đối với người Việt Nam hiện rất mơ hồ. Trên các thông tin bên ngoài dội về thì gọi là đối đầu, còn phía Hà Nội, thì gọi là đấu tranh. Nếu dựa trên những ngôn từ này, có thể tự lý giải rằng, Trung Quốc bằng nhiều cách như đang muốn vào trực tiếp Bãi Tư Chính chứ không chỉ là ngăn Việt Nam thăm dò và khai thác ở tại Lô 06.1 bể Nam Côn Sơn, phía tây bắc Bãi Tư Chính. Còn Việt Nam thì dùng tàu của mình cố ngăn đường đi của Trung Quốc, và mặt khác thì nỗ lực ngoại giao theo kiểu không muốn làm quá. Nhưng Bắc Kinh rõ ràng không dừng lại, và bộc lộ rõ việc muốn chiếm lấy Bãi Tư Chính. Ngày 26/7, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh tuyên bố rằng Việt Nam “vi phạm quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với Bãi Tư Chính kể từ tháng Năm”, cho thấy cuộc tranh chấp có nội dung lớn hơn: Bắc Kinh muốn hoàn thành đại nghiệp đường 9 đoạn trên biển Đông, mà Việt Nam là kẻ gây khó trước mắt. Trên bàn làm việc của các cơ quan tình báo quốc tế, kịch bản về một Bãi Tư Chính còn thuộc quyền Việt Nam, và một Bãi Tư Chính vào tay Trung Quốc ắt đã được lập ra, và cục diện thế giới cũng sẽ thay đổi, dựa vào đó. Từ tháng 5/2019, các thông tin tình báo và chuyển động trên biển Đông đã cung cấp cho ông Derek Grossman, nhà phân tích quốc phòng của Mỹ nhận định rằng sớm muộn gì trong năm nay, Trung Quốc sẽ mở một cuộc chiến trên biển với Việt Nam về pháp lý, và có thể cả đụng độ nhanh. Giờ thì điều ấy đã thành sự thật. Mỹ cũng nhận biết rõ tính toán này của Trung Quốc nên việc tăng cường các chuyến hải hành tự do, gọi là FONOP, hay lên giọng chỉ trích trực tiếp và mạnh mẽ Bắc Kinh là điều dễ hiểu. Tờ The National Interest, số ra ngày 31/7, của tác giả David Axe, với bài viết có nhan đề “Phi tiễn của Mỹ và Trung Quốc nằm chen cứng trên biển Đông, ai sẽ thắng?” (Here’s How China and America’s Missiles in the South China Sea Stack Up, who wins?) đã nhận định như vậy. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng không ngần ngại phô trương việc mang các phi tiễn chống hạm vào biển Đông, thử nghiệm hồi đầu tháng 7/2019 như một cách ngầm cảnh báo. Rõ ràng hơn, Bắc Kinh cũng phô trương trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo rằng hàng loạt các phi đạn tầm xa có tên DF-26 đã được kéo đến vùng Nội Mông (cách vùng biển Hoàng Sa khoảng 2000 dặm), hướng vào các lộ trình tự do hải hành của Mỹ. Hoàn Cầu Thời Báo cũng không ngần ngại tuyên bố DF-26 có tầm bắn đến 2.500 dặm, và sẽ đánh trúng bất kỳ chiến hạm nào của Mỹ trong vài giây. Kịch bản của việc Trung Quốc muốn cướp Bãi Tư Chính là gì? Các nhà phân tích phỏng đoán rằng sau khi tạo các bước gây căng thẳng lên cao, các tàu cá – mà thực tế là các tàu dân quân biển sẽ được đưa ra hàng đầu để tiến vào mục tiêu, sau đó, tạo ra một tình huống bị phía Việt Nam ngăn chận, đánh chìm… dẫn đến cuộc gia tốc và can thiệp của hàng chục tàu cảnh sát biển vũ trang Trung Quốc “bảo vệ tàu cá vô tội”. Bãi Tư Chính có thể có một cuộc đổ bộ thần tốc của Trung Quốc, không khác gì trường hợp đảo Gạc Ma. Sau khi cắm cờ, Bắc Kinh có thể ung dung đối phó với Việt Nam – một quốc gia mắc cạn với chiến sách “ba không” của mình, tức 1/ không tham gia các liên minh quân sự. 2/ không đi theo bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác. 3/ không có căn cứ quân sự của nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam, trong cách thức “đấu tranh” của mình, đang chuyển hướng bố cáo dần các sự việc với các quốc gia để tạo áp lực quốc tế. Gần đây nhất, là Hà Nội đã chuyển sự kiện cho New Delhi – cũng là một cách thăm dò phản ứng Bắc Kinh. Sau Ấn Độ, có thể sẽ có thông tin thêm, rộng hơn, phản đối tăng cấp độ. Nhưng đó cũng là một con dao hai lưỡi vì Bắc Kinh sẽ đẩy nhanh tốc độ lấn chiếm, trước khi mọi chuyện bùng phát ở tầm quốc tế hơn là giữa một vài nước. Có nhiều hy vọng từ đám đông bàn tán trên các trang mạng Việt Nam, là Mỹ sẽ can thiệp cho Việt Nam. Nhưng đó là một khả năng rất thấp. Bởi câu chuyện Bãi Tư Chính đang trở thành chuyện riêng của anh em nhà Cộng sản – đặc biệt khi Nga vẫn phớt lờ khi công ty khai thác dầu khí Rosneft của họ bị uy hiếp. Và quan trọng nhất, Mỹ sẽ không có tư cách gì can thiệp cho Việt Nam, khi các cơ hội về một liên minh hợp tác quốc phòng luôn bị Hà Nội né tránh. Hãy nhìn vào Hồng Kông, nếu có sốt ruột trước phong trào đòi dân chủ ở đó, Mỹ cũng không thể làm gì hơn là chỉ trích. Việt Nam cũng vậy, đặc biệt, mọi chuyện có vẻ như thuận buồm xuôi gió cho Trung Quốc, khi người đứng đầu tối cao của đảng- nhà nước Việt Nam là Nguyễn Phú Trọng chỉ nói chuyện tham nhũng, mà không cất một tiếng nào về an nguy quốc gia, dù gần 1 tháng bị uy hiếp và xâm lấn. Bãi Tư Chính có thể sẽ mất như Gạc Ma. Và sau đó, người dân Việt Nam sẽ rồi chỉ còn nghe lời tuyên bố dữ dội của một quan chức cấp cao rằng chuyện đòi lại Hoàng Sa, Gạc Ma, Tư Chính là điều của thế hệ con cháu phải làm.  
......

Hãy xin lỗi những người dân vì lên án Trung quốc mà bị tù

NGUYỄN KHẮC MAI - Fb Chú Tễu   Chủ tịch nhà nước,Thủ tướng, Chủ tịch Quốc Hội, Chánh án Tòa án tối cao: Hãy xin lỗi Những Thanh niên Sinh viên và người dân vì lên án Trung Hoa mà bị tù Nhiều năm qua đã có nhiều Thanh niên, Sinh viên và người Dân ý thức được hiểm họa Trung hoa đối với Nhân dân và Đất nước Việt nam. Họ đã lên tiếng cảnh báo, lên án và phê phán những hành động sai trái, ngang ngược, chà đạp lẽ phải và lương tri nhân loại của Trung Hoa bành trướng Đại Hán. Thanh niên, Sinh viên và người dân xuống đường biểu tình chống luật đặc khu, cho TQ thuê đất dài hạn. Việc làm của họ thật cao quý,có ích, chứng tỏ một tầm nhìn sáng suốt, một tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm đáng khâm phục. Nhưng thay cho việc thừa nhận lòng yêu nước của họ, tôn trọng họ, thì đảng và chính quyền đã vô lương tâm và tàn nhẫn, bắt bớ, hành hạ và kết án tù đối với họ. Tôi biết có trường hợp như em sinh viên Nguyễn Đặng Minh Mẫn cũng chỉ vì viết bài tố cáo cái sai, cái ác của Trung quốc mà bị kết án 7 năm tù giam và 5 năm quản chế!   Họ không có tội,mà chỉ vì dám nhận thức hiểm họa trung hoa sớm trước đảng và chính quyền, dũng cảm cảnh báo cho nhân dân và xã hội nên đã bị nhà cầm quyền đối xử bạc ác. Trong truyện Kiều Nguyễn Du từng lên án bọn “bạc ác tinh ma”. Nhưng nhà Phật dạy biết buông đao thì cũng có cơ thành Phật. Các Mác của các anh chị cũng bảo” biết sám hối thật tâm thì có cơ cứu rỗi (nghĩa là có thể đươc tha thứ, trở thành người thật sự). Nay khi Đảng và Nhà nước đã thấy được hiểm họa Trung Hoa bành trướng, Đại Hán, qua vụ Bãi Tư Chính hiện nay, thì phải biết đánh giá cao cái Trí cái Dũng của những thanh niên yêu nước. Hãy xin lỗi họ. Trả lại tư do ngay cho họ, xóa bỏ những bản án trái với Đạo lý và tinh thần công minh của Dân tộc. Đồng thời trả tự do cho tất cả các tù nhân lương tâm. Chỉ có như vậy, đảng mới lấy lại dược niềm tin của Dân. Hành động chống lại hiểm họa Trung Hoa của Nhà nước ta mới được xác tín, nhất quán. Hãy làm cho dân thấy đảng đang thành thưc bảo vệ Đất Nước. Liệu các anh chị có nghe theo lương tri, nói đoàn kết, đoàn kết, hay cứ làm theo cách chia rẻ chia rẻ mà có thể đối phó được với hiểm họa Trung Hoa. Mấy lời khuyên bảo tử tế xin hãy lắng nghe! Lập Quyền Dân.
......

“Những người muôn năm cũ…”

Việt Tân Lần đầu tiên tôi gặp mặt và trò chuyện với Giáo sư Nguyễn Thanh Giang là vào tháng 8 năm 1996. Vào thời đó những tiếng nói tranh đấu cho công lý và cho sự tự do của dân tộc Việt Nam rất hiếm quý. Giáo sư Nguyễn Thanh Giang đã là một trong những tiếng nói hiếm quý đó. Có thể nói trong thập niên 1990 ông thuộc lớp người tiên phong mở đường cho phong trào tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Có lẽ vì có cùng một hoài bão nên tôi và ông đã nói với nhau rất nhiều, bàn thảo sôi nổi về công cuộc đấu tranh cho dân chủ và những gì cần thực hiện cho đất nước. Đối với tôi, ông đã thể hiện tinh thần của một nhà trí thức yêu nước, một người chiến sĩ sẵn sàng đối mặt với cường quyền vì lẽ phải. Hơn thế nữa, với giáng vẻ từ tốn ông đã khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh lớp người “sĩ phu Hà Thành” của thời xưa. Trong những năm gần đây vì điều kiện khó khăn, cách trở nên tôi ít có dịp được trò chuyện với ông. Ngày hôm nay Giáo sư Nguyễn Thanh Giang đã ra người thiên cổ, nghĩ tới ông và những hy sinh của ông khiến tôi bùi ngùi nhớ đến hai câu thơ: “Những người muôn năm cũ. Hồn ở đâu bây giờ?” Xin thành kính chia buồn cùng bà quả phụ Nguyễn Thanh Giang và tang quyến. Xin anh linh của Giáo sư Nguyễn Thanh Giang hãy hỗ trợ cho những anh em còn đang tiếp tục đi trên con đường mà Giáo sư đã góp công khai mở. Đỗ Hoàng Điềm 30/07/2019 https://viettan.org/nhung-nguoi-muon-nam-cu/  
......

Trật Tự Pháp Luật & Trật Tự Nơi Công Cộng

Van Nga DO Pháp luật sinh ra mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng công dân và bảo vệ đạo đức xã hội vv.. Khi cả xã sống theo luật pháp, thì hầu như xã hội sẽ có trật tự. Nói tóm lại, thường người dân sống đúng trật tự pháp luật thì có trật tự công cộng. Nhưng một số trường hợp đúng trật tự pháp luật nhưng nó lại phá bỏ trật tự công cộng. Trường hợp cụ thể nào, chúng ta sẽ xét kỹ phần tiếp theo. Như ta biết, luật pháp bao giờ cũng có 2 mặt, mặt bảo vệ và mặt kìm hãm. Khi nào luật pháp kiềm hãm xã hội? Khi nhu cầu con người phát triển hơn thì một số quy định cũ không còn phủ hợp, chính vì thế cần phải đổi thay luật pháp. Sự đổi thay của luật pháp quốc gia có thể là bằng cách người ta sẽ xóa bỏ một đạo luật lỗi thời, hoặc thêm vào một đạo luật mới phù hợp hơn, hoặc sửa đổi những yếu tố chưa phù hợp trong đạo luật cũ. Lấy ví dụ như cuối thập niên 50 đầu thập niên 60 của thế kỷ trước ở Mỹ, người da đen họ thấy rằng mình cần phải được tôn trọng ngang bằng với người da trắng nơi công cộng , vì thế mà họ đấu tranh bằng cách bãi khóa, xuống đường để đòi hỏi luật pháp phải trao cho mình quyền bình đẳng. Và từ đó, Đạo Luật Dân Quyền ra đời ngày 02/07/164. Để thay đổi những đạo luật không phù hợp, thì trước hết người dân phải phản kháng đòi hỏi. Nói nôm na là thế này, pháp luật như cái lồng, cái lồng ấy có thể bảo vệ anh khỏi sự tấn công của thú dữ, nhưng khi anh muốn tự do hơn thì nó lại chính là thứ ngăn cản sự tự do của anh. Cái lồng đó ngăn cản như thế nào, chỉ có anh mới hiểu rõ, và chính anh phải la lên để để tôi biết mà nới rộng cái lồng ấy cho anh chứ? Nếu anh la mà tôi vẫn chần chừ chưa chịu nới, thì anh phải đập phá phần nào của cái lồng mà làm anh mất tự do, thì lúc đó anh đã buộc tôi phải xây lại phần mới rộng rãi hơn cho anh. Tương tự như vậy, khi luật pháp không còn là thứ bảo vệ mà nó lại trở thành thứ cản trở xã hội phát triển, thì nhân dân phải la lên để nhà nước thay đổi luật, nếu la lên mà họ không chịu đổi thì dân phải thể hiện sức mạnh của mình buộc nhà nước thay đổi luật. Thể hiện bằng cách nào? Biểu tình. Đó là nguyên nhân vì sao quyền biểu tình phải được tôn trọng trong mọi nhà nước tiến bộ. Vì đơn giản, biểu tình là công cụ xóa bỏ cái lỗi thời của luật pháp và thành lập quy định mới trong luật pháp để phục vụ cho một xã hội tiến bộ hơn. Mà một khi đã biểu tình, thì trật tự nơi công cộng như: giao thông, sinh hoạt xã hội vv.. bị ảnh hưởng. Như vậy rõ ràng là, khi đã có biểu tình xảy ra thì tất nhiên trật tự nơi công cộng không còn nữa. Tới đây chúng ta thấy, giữa trật tự pháp luật và trật tự công cộng không trùng khớp nhau, được cái này mất cái kia. Như vậy đứng giữa 2 sự mâu thuẫn đó, nhà nước chọn chấp nhận mất trật tự để tôn trọng quyền biểu tình, hay vì trật tự nơi công cộng mà loại bỏ quyền biểu tình của nhân dân? Câu trả lời là tùy theo nhà nước đó vì sự tiến bộ hay muốn kiềm hãm xã hội bằng mọi giá. Với các nước dân chủ, họ tôn trọng quyền biểu tình và chấp nhận trật tự công cộng bị xáo trộn tạm thời để xã hội thay đổi và phát triển. Còn nước độc tài, họ sẽ mượn chiêu bài “trật tự nơi công cộng” để ghìm chặt xã hội trong sự ì ạch không thể phát triển được nhằm bảo vệ sự ấu trĩ, sự kém cỏi và bảo về quyền cai trị của họ. Trở lại vụ án anh Hà Văn Nam bị kết án 36 tháng tù giam vì tội “gây rối trật tự nơi công cộng”. Ở đây chúng ta thấy chính quyền đang dùng một chiêu rất ma mãnh, đó là họ lấy một nửa sự thật để buộc tội người mà họ không ưa. Chính quyền CS đã dùng 1 nửa sự thật như thế nào? Đó là họ chỉ nói đến một vế là anh Hà Văn Nam “gây rối trật tự nơi công cộng” mà họ không nói đến vế thứ 2 - đó là cái trật tự mà chính quyền CS và doanh nghiệp sân sau đang lập ra đó nó đã sai luật và đã bị báo chí lên án nhiều lần nhưng họ không chịu thay đổi. Nghĩa là cái trật tự mà chính quyền đang bảo vệ là cái trật tự trong sự vô pháp. Hà Văn Nam và những bạn đồng hành chỉ muốn phá bỏ cái trật tự cũ sai luật ấy để lập lại cái trật tự mới đúng luật hơn thì lại bị đổ tội “gây rối trật tự nơi công cộng”. Nếu xét đến toàn cảnh cả nguyên nhân và kết quả sự việc này, thì tòa án cần phải kết tội những kẻ đầu xỏ trong chính quyền và đám doanh nghiệp sân sau ấy thì mới đúng với thinh thần thượng tôn pháp luật. Nhưng đáng buồn! Việt Nam mà! Chính quyền không thượng tôn pháp luật nhưng buộc tội những công dân biết thượng tôn pháp luật. Đó là những gì đã, đang, và sẽ xảy ra hằng ngày trên xứ này- xứ mà chính quyền tự xưng là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.    
......

Việt Nam phải mạnh mẽ đối với các nước thượng nguồn Mekong dù đó là nước nào!

Thanh Trúc -   RFA| Dòng Mekong dài hơn 4.300 km, xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Laos, Thailand, Kampuchia và Việt Nam. Mới đây, các tổ chức dân sự ở Thái Lan cảnh báo 8 đập thủy điện trên lãnh thổ Trung Quốc giữ nước lại là nguyên nhân khiến mực nước sông Mekong xuống thấp kỷ lục. Các nhà hoạt động bảo vệ môi trường còn gởi kiến  nghị lên Ủy Ban Nhân Quyển NHCR của Thái Lan yêu cầu rà soát lại những dự án  thủy điện sẽ được xây thêm trên dòng Mekong. Ban Việt Ngữ có cuộc phỏng vấn với ông Brian Eyler, tác giả cuốn The Last Days of Mighty Mekong, tạm dịch Những Ngày Cuối Của Dòng Mekong Vĩ Đại. Ông Brian Eyler là giám đốc chương trình Đông Nam Á thuộc Trung Tâm Stimson ở Washington DC. Tháng trước ông từng có mặt trong các cuộc họp của MRC Ủy Hội Sông Mekong ở Thái Lan, Lào và Việt Nam. *** Thanh Trúc: Thưa ông Brian Eyler, Mekong Freedom Network của Thái Lan mới đây cho biết 8 đập thủy điện của Trung Quốc giữ lại khoảng 40 tỷ mét khối nước khiến mực nước sông Mekong xuống đến mức kỷ lục trong vòng 100 năm qua. Thưa ông nghĩ sao về cảnh báo này? Ông Brian Eyler: Tôi đọc thấy thông báo 8 con đập trên phần lãnh thổ Trung Quốc ở thượng nguồn Mekong gây hạn hạn nên phải nhanh chóng kiểm chứng một số dữ liệu. Đúng là hiện đang xảy ra tình trạng hạn hán nặng nề tại khu vực Mekong. Đó là hậu quả của nhiều tác nhân gộp lại. Hoạt động đầu tiên của tôi với tư cách là người đang làm việc để cổ xúy cho những phương cách phát triển thông minh hơn cho khu vực Mekong có thể thay thế cách  xây dựng những đập thủy điện như hiện tại thì trước hết tôi nhắc lại là có đến 11 con đập trên phần sông Mekong chảy qua Trung Quốc đã hoàn tất. Mọi người cần được cập nhật bản đồ của tất cả những đập đó cũng như thông tin liên quan. Tổng cộng tất cả những đập đó có thể giữ lại hơn 40 tỷ mét khối nước; tuy nhiên do trong thời điểm hạn hán số lượng nước trữ lại đó có thể ít hơn. Dẫu thế, việc trữ nước ở các đập như vậy đều có thể góp phần làm ảnh hưởng đến hạ nguồn. Nhưng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hạn hán khốc liệt ở khu vực Mekong. Thanh Trúc: Trong đánh giá mới đây của ông thì  có rất nhiều khả năng mực nước sông vào ngày 19/7/2019 là thấp nhất từ trước đến nay, ít nhất là trong một thế kỷ qua. Các đập thủy điện ở Trung Quốc đã xây dựng và vận hành từ nhiều năm, tại sao đến năm nay mực nước mới xuống thấp đến mức kỷ lục như thế, liệu có nhân tố ảnh hưởng nào khác không? Ông Brian Eyler: Tôi xin có một phân tích nhanh; hãy xem những hình ảnh chụp từ vệ tinh đợt hạn hán được cho là tồi tệ nhất lịch sử hồi tháng Tư 2016 rồi so sánh với những dữ kiện trong tháng Bảy 2019 này tôi thấy mực nước sông Mekong tại khu Tam Giác Vàng xem ra còn thấp hơn cả mực nước thấp của vụ hạn hán lịch sử năm 2016. Những tác nhân cộng hưởng gây nên tình trạng hạn hán như hiện nay được trình bày theo thứ tự tác động. Thứ nhất hiện tượng khí hậu El Nino ảnh hưởng đến khu vực xét về lượng mưa trong mùa khô chuyển sang mùa mưa. Điều quan trọng cần lưu ý là vào tháng Năm, tháng Sáu mỗi năm thì khu vực Mekong chuyển từ mùa khô hay rất khô sang mùa mưa cực nhiều. Tác nhân El Nino làm mùa khô kéo dài ra. Biến đổi khí hậu cũng là tác nhân ảnh hưởng đến thời gian ngắn hay dài của mưa mùa. Đã có tiên đoán là tình trạng biến đổi khí hậu khiến mùa mưa ngày càng ngắn đi mỗi năm, sự ngắn đi này được thấy rõ trong năm nay và tác động của nó trong tương lai cần được nghiên cứu kỹ hơn. Về phần các đập thủy điện tích tụ nước trên thượng nguồn Mekong thì đập Xayabury ở mạn Bắc nước Lào đang vận hành thử nghiệm và đã giữ lại một lượng nước lớn cũng phần nào góp sức hạ thấp dòng nước. Tác nhân tiếp là những đập thủy điện lớn của Trung Quốc. Đập tác động nhiều đến hạ nguồn mà chúng ta xem xét đến là đập Cảnh Hồng. Việc xả nước của đập này tác động đến dòng chảy xuống hạ nguồn. Sau hết, với hơn 60 đập thủy điện đã hoàn tất ở Lào trên các chi lưu của dòng Mekong. Ngoài ra còn hơn 60 đập khác nữa đang được xây dựng. Tất cả những tác động như thế cùng gộp lại tạo đợt hạn hán gây hại nhiều nhất cho những cộng đồng dân cư sống dọc Sông Mekong ở Lào, Thái, Kampuchia và Việt Nam. Thanh Trúc: Thế nhưng người ta vẫn tiếp tục cho rằng các đập thủy điện khổng lồ ở Trung Quốc là thủ phạm chính làm cạn dòng Mekong trong mùa nắng nóng. Theo ông các đập thủy điện của Trung Quốc vận hành tra sao, và mức độ ảnh hưởng của chúng như thế nào đối với các nước hạ du? Ông Brian Eyler: Hãy nói về những đập thủy điện của Trung Quốc trước khi đề cập đến các đập nói chung. Hệ thống thủy điện của Trung Quốc là những đập lớn, thâu tóm lượng nước khổng lồ của dòng Mekong. Hệ thống thủy điện Xayabury của Lào ở phía dưới cũng lớn không kém. Còn những đập trên các chi lưu thì nhỏ hơn. Tất cả những đập thủy điện này gây tác động đáng kể nếu không được vận hành phù hợp. Như vào mấy tuần qua, đập Cảnh Hồng không xả nước hay xả nước ít hơn nó thường thực hiện vào mùa mưa. Điều này có thể do nhu cầu nước của đập này được ưu tiên hơn nhu cầu của dưới hạ lưu. Nhà máy có thể thu lợi từ việc phát điện phục vụ các cộng đồng và thành phố quanh khu vực nơi đông đúc dân cư mà ước tính lên đến chừng 600 ngàn đến 800 ngàn và tăng rất nhanh. Tuy nhiên tôi không chắc mấy về con số dân này. Do đó thật không may vì nhu cầu của vùng đập này gây tác hại đến cho nơi khác. Điều này cũng tương tự như những đập thủy điện dưới hạ nguồn. Trong thời điểm khô hạn thiếu nước này, các đập này phải duy trì chức năng phát điện, nếu không họ mất tiền. Do vậy mỗi đập thủy điện đều hành xử theo cách không xem xét đến nhu cầu của những đập ở dưới hạ nguồn dòng sông, có nghĩa là họ giữ nước lại. Tác động tích hợp của tất cả: đập Cảnh Hồng giữ nước, đập Xayaburi thử nghiệm vận hành cũng giữ nước, cộng với hơn 60 đập ở Lào, một đập ở Kampuchia, cũng như những con đập ở thượng nguồn trung phần Việt Nam, Thái Lan; tất cả gộp lại gây tác động lớn đến dòng chảy hạ nguồn nước và thực sự làm trầm trọng thêm các vấn đề trong thời kỳ hạn hán.. Thanh Trúc: Thưa ông Brian Eyler, năm 2016 Việt Nam đã phải đối diện một trận hạn hán nghiêm trọng và lịch sử. Theo ông tình hình hạn hán Việt Nam năm 2019 này và những năm tới nữa sẽ như thế nào khi các đập lớn ở Trung Quốc và Lào vận hành ráo riết  và còn nhiều chục con đập khác đã lên kế hoạch xây dựng? Ông Brian Eyler: Tôi nghĩ cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để có thể đoan chắc về những tác động tạo nên hiệu ứng đáng nói hiện nay là El Nino cộng với việc Xayaburi của Lào chạy thử nghiệm cộng thêm sự giữ nước lại của đập Cảnh Hồng phía Trung Quốc. Đối với tác động mưa mùa, chúng ta biết tiểu vùng Mekong đang chuyển từ khí hậu mùa khô sang khí hậu mùa mưa lẽ ra phải bắt đầu từ cuối tháng Năm đầu tháng Sáu. Đáng tiếc và đáng quan ngại là mùa mưa tính đến lúc này vẫn chưa xảy ra. Còn nhớ cùng  thời kỳ này năm ngoái  Mekong không thiếu nước vì những cơn bảo nhiệt đới liên tục khiến Lào bị vỡ đập vì  lượng nước tích tụ quá nhiều trong các hồ chứa. Ngoài ra còn những nguyên nhân khác dẫn đến vỡ đập, tuy nhiên vào năm ngoài lượng nước quá nhiều. Số liệu cho thấy như thế. Và phổ dữ liệu rất lớn từ năm này sang năm khác khiến khó có thể quyết định về tác động. Ủy Hội Sông Mekong thì vẫn phải liên tục theo dõi và tiếp tục nghiên cứu về những tác động của các đập trên dòng chính Mekong và cả trên các chi lưu. Đáng nói là theo dự kiến khoảng 500  đập sẽ được xây lên trong tương lai. 500 con đập là điều khó có thể tưởng tượng trên dòng sông Mekong này. Không ai rõ tác động nào sẽ đến; nhưng thật là đáng sợ. Thanh Trúc: Ông nghĩ Việt Nam phải làm gì hầu giảm bớt tác động tai hại từ những đập thủy điện thượng nguồn? Ông Brian Eyler: Phải chăng cơ hội để Việt Nam tự mình có thể làm gì xem ra không có mấy. Đồng Bằng Sông Cửu Long là khu vực sản xuất nông nghiệp trọng yếu của Việt Nam. Cách để giảm thiểu tác động từ thượng nguồn là trữ nước trong mùa mưa cho mùa khô. Cứ nhìn những con đập đồ sộ của Trung Quốc, nhìn khoảng 300 con đập đã và đang sắp xây ở Lào trong tương lai. Việt Nam cần làm việc với cả Lào, Kampuchia, Trung Quốc trong hợp tác xúc tiến phương cách thay thế có thể chuyển đổi tương lai sản xuất thủy điện sang các nguồn điện khác; cũng như bàn bạc với các quốc gia thượng nguồn về những vấn đề như đòi hỏi các quốc gia thượng nguồn đừng tích nước mà phải xả nước xuống hạ nguồn trong thời gian khô hạn để lưu lượng dòng chảy được tự nhiên như bình thường. Đó là thông điệp duy nhất mà Việt Nam và những quốc gia hạ nguồn cần nói với nước thượng nguồn dù đó là nước nào. Thanh Trúc: Xin cảm ơn ông Brian Eyler về cuộc phòng vấn này.    
......

Tài xế chống “BOT bẩn” Hà Văn Nam bị tuyên 30 tháng tù giam

Tài xế Hà Văn Nam RFA Ông Hà Văn Nam, một người hoạt động từng nhiều lần phản đối các trạm BOT đặt không đúng vị trí trên khắp cả nước vừa bị Tòa án nhân dân huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh tuyên 30 tháng tù giam với cáo buộc “Gây rối trật tự công cộng” vào sáng 30/7/2019. 6 người khác gồm các ông Nguyễn Quỳnh Phong, Lê Văn Khiển, Nguyễn Tuấn Quân, Vũ Văn Hà, Ngô Quang Hùng và Trần Quang Hải phải lãnh nhận các mức án từ 18 tháng đến 36 tháng tù giam với cùng một tội danh sau khi cùng nhau phản đối trạm thu phí BOT Phả Lại. Luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho ông Hà Văn Nam cho chúng tôi biết qua điện thoại như sau: “Tại tòa tôi có nói Hà Văn Nam là không có tội, tại vì mục đích là đi khiếu nại để đòi hỏi quyền lợi thôi, chứ không phải là gây ách tắc giao. Việc ách tắc giao thông thì lỗi một phần do BOT và tài xế khác chứ không phải do động cơ và mục đích của Hà Văn Nam. Người ta buộc tội anh ấy xúi dục các tài xế để chặn các làn xe đi qua trạm gây ách tắc giao thông. Anh ấy có nói là không có động cơ như vậy, anh ấy chỉ có sơ suất là không nói rõ cho các lái xe phương pháp đấu tranh,”. Trạm thu phí BOT Phả Lại được đặt trên Quốc lộ 18 thuộc huyện Quế Võ được phép thu phí từ ngày 24/12 năm ngoái, tuy nhiên ngay sau đó nhiều người dân quanh trạm cho rằng việc thu phí với tài xế ở địa phương là sai nên tập trung phản đối. Theo kết luận điều tra của công an tỉnh Bắc Ninh, ngày 29/12/2018, ông Hà Văn Nam gọi điện cho Nguyễn Quỳnh Phong nói đã xem clip về việc người dân phản đối thu phí; hẹn khi rảnh sẽ về giúp. Hai ngày sau, nhóm 7 người nói trên tập trung tại BOT Phả Lại cùng khoảng 100 người khác đồng thời dừng ở làn thu phí gây kẹt xe, khiến lãnh đạo trạm là ông Mạc Tuấn Long phải gặp mặt, đối thoại. Sự việc được cho là khiến BOT phải xả trạm, không thu phí nên chịu thất thoát hơn 23 triệu đồng. Vì vậy, ngoài hình phạt tù, tòa án cũng buộc các bị cáo bồi thường khoản tiền này và ghi nhận họ đã nộp tiền khắc phục hậu quả. Ông Nguyễn Trường Sơn, người thực hiện chiến dịch cho Ân xá Quốc tế ngay sau phiên tòa đã phát biểu như sau: “Ngay từ khi Hà Văn Nam bị bắt thì chúng tôi đã xác định rằng đây là một việx làm sai lầm, bởi vì Hà Văn Nam đáng nhẽ ra phải được bảo vệ của luật pháp thì bây giờ lại trở thành một phạm nhân. Đối với Ân xá Quốc tế thì Hà Văn Nam là một tù nhân lương tâm như chúng tôi vẫn nói ngay từ đầu bởi anh chỉ cầm tù khi thực hiện quyền công dân và các quyền con người căn bản được hiến pháp và luật pháp bảo vệ. Việc kết án anh ngày hôm nay chỉ cho thấy Việt Nam là một nhà nước độc đoán vì họ không tôn trọng chính luật pháp mà họ làm ra,”. Một số bạn bè và những người ủng hộ ông Hà Văn Nam sáng 30/7 cũng đến để tham dự phiên tòa nhưng không được phép cho vào sân UBND xã Đào Viên, huyện Quế Võ - nơi tổ chức phiên tòa lưu động xử các bị cáo. Bà Đặng Thị Huệ, người từng tham gia với ông Nam phản đối các BOT đặt không đúng vị trí tường thuật lại vụ việc: “Tất cả đều bị đứng ở ngoài anh ạ, họ dùng tất cả lực lượng như cơ động, trật tự để ngăn cản quyền giám sát của người dân. Tôi có hỏi nhưng họ chỉ im lặng hoặc trả lời là làm theo sự chỉ đạo. Tất cả những người ở đấy chỉ làm theo sự chỉ đạo chứ họ không có quyền quyết định. UBND xã Đào Viên, huyện Quế Võ, nằm cách BOT Phả Lại 10km. Chỉ có 1 người cầm được giấy triệu tập của tòa án còn ngoài ra không có ai được vào,”. Cũng theo nhận xét của bà Huệ, bản án mà TAND huyện Quế Võ tuyên đối với ông Nam là một bản án dành cho những người đang đòi quyền lợi hợp pháp, hợp hiến. “Quan điểm của tôi là người ta vô tội, khi mà tòa tuyên án là họ có tội thì họ phải chấp nhận một bản án mà không đúng theo trình tự của pháp luật và họ đang làm án oan”, bà Huệ khẳng định. Hồi tháng 5 năm nay, Ân Xá Quốc tế công bố một bản danh sách gồm 128 Tù nhân lương tâm hiện vẫn còn bị chính quyền Việt Nam cầm giữ vì các hoạt động ôn hòa của mình.  
......

Đã tới lúc cần nhìn xuyên bộ đồng phục

Thach Vu| Khi có dịp đi ra nước ngoài, nhiều người Việt chúng ta hay có cảm giác “thiêu thiếu” gì đó. Và thường thì phải mất cả ngày ta mới nhận ra cái thiếu đó là gì. Thật vậy, nếu để ý bạn sẽ thấy các nước càng tân tiến, càng dân chủ, càng trật tự, lại càng ít thấy đồng phục ngoài đường phố hay ngay cả trong các công sở, ngoại trừ ở các thành phố nhỏ gần các căn cứ quân đội. Có lẽ phát xuất từ ý niệm rất rõ rằng chính phủ chỉ là những người được dân thuê làm các công việc phục vụ công cộng, nên bộ đồng phục chính yếu chỉ để cho dân dễ dàng nhận dạng khi cần được giúp đỡ mà thôi. Ngược lại, đến những nước càng độc tài khắt khe, số đồng phục của các ban ngành chính phủ càng nhiều và được phô trương khắp nơi, từ đường phố đến công sở đến báo đài. Nước ta thuộc vào loại này và chẳng thua kém ai. Chỉ riêng công an đã có đồng phục riêng cho CA điều tra, CA trật tự, CSCĐ 113, CSGT, CS Biển, dài xuống CA xã. (Hình 1). Rồi qua đến các bộ và ban ngành: Ngành Thanh tra Chính phủ có đồng phục riêng; Ngành Hải quan có đồng phục riêng; Ngành Kiểm sát có đồng phục riêng. Ngay cả ngành Quản lý Trị trường, ngành Trật tự Đô thị, đội quản lý lăng HCM, v.v. đều có đồng phục riêng (Hình 2). Bộ đồng phục nào cũng đầy đủ “quân hàm” trên cổ áo, trên bờ vai; huy hiệu đơn vị trên tay áo và cả mũ lưỡi trai cho thêm phần oai vệ và bổ sung chút đỉnh cho chiều cao. Nhiều bộ đồng phục được sao lại gần lại gần như 100% từ ngành tương đương bên Trung Quốc. Đó là chưa kể hàng loạt đồng phục dưới dù Mặt trận Tổ quốc như đồng phục Thanh niên Xung phong, Thanh niên Cộng sản HCM, công đoàn, v.v. Tại sao các chế độ độc tài, đặc biệt độc tài cộng sản, lại sính đồng phục đến thế? Câu trả lời có lẽ bắt đầu tận những thập niên đầu của thế kỷ trước tại Âu Châu rồi được chế độ Đức Quốc Xã nâng lên đến hàng nghệ thuật để khuynh loát tâm lý quần chúng. Và sau Thế Chiến II, Liên Xô đem về áp dụng và rồi lan xuống tất cả các nước cộng sản đàn em. Một cách ngắn gọn, để khuất phục và duy trì tâm lý chịu khuất phục của quần chúng, Joseph Goebbels, Bộ Trưởng Tuyên Truyền và cha đẻ nghệ thuật kiểm soát tâm lý đám đông của Đức Quốc Xã đặc biệt nhắm đến 2 thủ thuật: công trình xây dựng đồ sộ và đồng phục hùng tráng: – Khi người dân bước vào một tòa nhà công quyền cao chót vót, lạnh lùng, hùng vĩ, họ bị choáng ngợp ngay với cảm giác mình cực kỳ bé nhỏ và tâm lý đó tự động dẫn đến cách hành xử khẩn cầu chứ chẳng dám đòi hỏi hay ngay cả trách móc; – Khi một người dân bước vào một quảng trường bát ngát với vài trăm ngàn người cầm cờ quạt rợp trời, chỉnh tề hàng ngũ, im phăng phắc nghe lời dạy của lãnh tụ vang dội qua loa phóng thanh, họ bị choáng ngợp ngay với cảm giác đang lắng nghe một bậc thần thánh phán xuống từ các tầng mây, chứ không còn là con người nữa; – Và trong đời sống hàng ngày, khi người dân đối diện với những bộ đồng phục, họ không còn cảm giác đang tiếp xúc với 1 cá nhân nữa mà bị choáng ngợp ngay bởi cảm giác sẵn có trong đầu về mức độ tàn bạo của cả đội ngũ, cơ chế đằng sau bộ đồng phục đó. Cao điểm của nghệ thuật khủng bố tâm lý này là bộ đồng phục đen của đội quân Gestapo (hay SS) với chức năng vừa là đoàn quân đặc biệt vừa là công an cực ác cho Hitler. Bộ đồng phục này đã trở thành biểu tượng kinh hoàng tột độ khắp Âu Châu mà các chế độ độc tài thèm thuồng bắt chước đến tận ngày nay (Hình 3). Nhưng một khi đã biết chủ đích tạo ẤN TƯỢNG đó của giới cai trị cho mục tiêu đè bẹp quần chúng ngay trong đầu họ, ta thấy ngay nhu cầu phải tự nhắc mình và nhắc lẫn nhau để vượt thoát ra khỏi cái ảo giác KHÔNG CÓ THẬT đó. Đặc biệt nhắc về các bộ đồng phục mà bà con chúng ta phải đối diện hàng ngày. Ngoại trừ đồng phục quân đội mà người dân đến tuổi nghĩa vụ quân sự phải mặc, các loại đồng phục khác có cùng đặc tính. Đó là, ngược với bề ngoài của bộ đồng phục đính đầy vẻ tự tin và uy quyền, ta sẽ thấy bên trong mỗi bộ đồng phục đó chỉ đầy những lo sợ và tự khinh: – Đằng sau bộ đồng phục là những người rất tồi:  Bên cạnh những trường hợp cực kỳ tồi tệ như Nguyễn Hữu Linh. Tuyệt đại đa số những kẻ mặc đồng phục còn lại đều biết ngay lúc bước vào ngành đã phải làm hành động tồi tệ đầu tiên là đút lót rồi. Và từ ngày đó trở đi, càng leo cao càng tồi tệ hơn. Đây không còn là những trường hợp đơn lẻ mà từ lâu đã mang tính hệ thống và qui luật: KHÔNG CÓ GHẾ NÀO MIỄN PHÍ. Và khi có ghế rồi thì tích cực thu lại vốn và kiếm thêm lời từ cấp dưới và từ mọi chú cừu, chú vịt trong phạm vi trách nhiệm. Chính vì thế mà từ cô Phó trưởng phòng Phòng chống tham nhũng Bộ xây dựng Nguyễn Thị Kim Anh (Hình 5) đến Phó Tổng thanh tra Chính phủ Ngô Văn Khánh (Hình 6) đều rất giàu và biết mình tồi cỡ nào. – Đằng sau bộ đồng phục là những người rất hèn: Hèn vì bản chất họ đã không có tư cách, leo cao không nhờ tài năng mà nhờ họ sẵn sàng dùng các thủ đoạn luồn lách, đội đạp, đút lót hoặc dựa vào vai vế cha mẹ. Và sau đó, ngày càng hèn thêm vì có quá nhiều của cải để mất. Chính vì vậy mà ta thấy hiện tượng hàng loạt cấp tướng như những Bùi Văn Thành, Trần Việt Tân (Hình 7), Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa (Hình 8), … đều mếu máo, khóc lóc xin giảm án trước tòa. – Đằng sau bộ đồng phục là rất nhiều nỗi lo và nỗi sợ: Trước hết lo không đủ tiền chung chi để giữ ghế hiện tại, chưa kể lo không đủ tiền trả món nợ cũ đã dùng để mua ghế. Sợ cấp trên lôi ra làm dê tế thần thay cho cả nhóm, dù đã chung chi đầy đủ. Một khi bị bắt rồi thì miệng bị bịt kín luôn và lãnh trọn gói tội lỗi. Sợ bà con biết mặt và trả thù. Việc họ giấu bảng tên, lấy điện thoại che mặt, và đánh người dân quay phim chụp hình là những biểu hiện của nỗi lo đó, đặc biệt trong thời đại Internet truy tìm tông tích ngày càng nhanh và chính xác. Sợ chính gia đình họ biết những việc xấu xa và ác độc mà họ đang làm để kiếm tiền hàng ngày, kể cả trò tra khảo tiền đến chết người trong các đồn CA. Và nay sợ cả thần linh đang ghi sổ và sắp tính sổ những việc ác độc họ đã tích lũy suốt đời. Không chỉ CA cấp thấp cúng chùa, tổ chức cúng vong hồn ngay tại đồn, mà đến cả đại tướng công an Trần Đại Quang cũng áp mặt vào vách chùa khấn vái (Hình 9). Không cần phải là thần thánh mới biết bàn tay đẫm máu của ông ta tại Tây Nguyên. Và một điểm sau cùng đáng lưu ý nữa là khi các kẻ mặc đồng phục càng sừng sộ thì càng có xác suất cao họ đang cố che dấu hành vi mà họ biết là phi pháp, hay xấu xa. Một thí dụ cụ thể thường gặp là CA đi kiếm ăn lẻ ban đêm có mức sừng sộ gấp đôi, gấp ba các chốt CSGT nặn bánh mì ban ngày. Nếu rút gọn lại để dễ tự nhắc mình và nhắc nhau mỗi khi đối diện với các bộ đồng phục của chế độ và vượt qua phản ứng sợ hãi bình thường, ta chỉ cần nhớ vài điểm: 1. Chính tiền thuế của chúng ta mua các bộ đồng phục đó. Bản chất nó chỉ là miếng vải! 2. Phía sau mỗi bộ đồng phục chỉ là 1 cái quần xà lỏn và 1 cái áo thun lá, tức chỉ là 1 con người bình thường hoặc còn dưới bình thường nữa vì quá nhiều những hành vi tệ hại và nỗi lo sợ. 3. Trừ quân đội ra, các bộ đồng phục hiện nay của chế độ đều là biểu tượng của lòng dạ xấu xa, bản chất côn đồ, và cốt lõi ruỗng nát. Do đó, càng sính đồng phục chỉ càng đáng khinh chứ không đáng sợ. Vũ Thạch    
......

Các tù nhân lương tâm ở trại 6 ngưng tuyệt thực

RFA| Các tù nhân lương tâm ở trại 6, Thanh Chương, Nghệ An, vừa ngưng tuyệt thực sau khi những đòi hỏi của họ về quạt điện được trại giam đáp ứng, nhưng cho biết sẽ tiếp tục tuyệt thực nếu trại giam không cho họ gọi điện về cho người thân. Gia đình của những tù nhân lương tâm này xác nhận thông tin sau khi đi thăm họ tại trại 6 hôm 29/7. Từ ngày 10/6, có ít nhất 3 tù nhân lương tâm ở trại 6 là Trương Minh Đức, Đào Quang Thực, và Nguyễn Văn Túc đã bắt đầu tuyệt thực để đòi hỏi cán bộ trại giam lắp các quạt điện cho phòng giam của họ vào khi mùa hè ở Nghệ An nóng kỷ lục với nhiệt độ có lúc lên đến 40 độ C. Vào chiều tối ngày 29/7, bà Bùi Thị Rề, vợ tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc viết trên Facebook cá nhân sau chuyến thăm của gia đình bà đến trại giam vào cùng ngày, cho biết ông Túc thông báo là quạt và điện đã được nối lại từ ngày 21/7 và các anh em đã ngưng tuyệt thực. Tuy nhiên ông Túc cho gia đình biết các tù nhân lương tâm sẽ tuyệt thực vào tháng tới nếu trại giam không cho phép họ gọi điện về gia đình mỗi tháng 1 lần theo quy định. Theo bà Bùi Thị Rề, trại giam nói với các tù nhân lương tâm rằng các cuộc gọi điện về gia đình trong tháng này không được thực hiện vì điện thoại hỏng. Trước đó, gia đình ông Đào Quang Thực cũng đi thăm ông tại trại giam hôm 17/7 và được ông Thực cho biết quạt trần đã được mắc lại nhưng vì mái trại giam là mái tôn nên rất nóng. Con trai ông Thực là anh Đào Quang Tùng cho Đài Á Châu Tự Do biết: “Theo thông tin bố em nói thì đã có quạt trần rồi…. Gia đình hỏi xem có cần mua quạt nan vào không thì bố nói không cần mua vì dạo này có quạt trần nhưng nó phả từ mái tôn nên nóng lắm. Em cũng nghĩ có khả năng có quạt rồi. Gia đình không kịp hỏi còn tuyệt thực không nhưng nhìn thần xác bố em không còn mệt mỏi nữa nên khả năng là đã ngưng rồi. Cái đó là do gia đình đoán”. Vào chiều ngày 29/7, Đài Á Châu Tự Do cũng liên hệ với bà Nguyễn Thị Kim Thanh, vợ tù nhân lương tâm Trương Minh Đức và được bà cho biết bà không nhận được tin tức gì từ chồng. Tuy nhiên trong tháng này bà chưa nhận được cuộc điện thoại nào từ chồng và bà chỉ có thể biết tin chồng vào tháng tới theo tiêu chuẩn mỗi tháng thăm một lần. “Thường anh dặn cứ từ 20 đến 25 thì trại giam cho gọi điện về, trừ ngày thứ 7 hay chủ nhật thì họ để gọi ngày khác. Đến hôm nay vẫn chưa thấy có cuộc gọi nào hết”. Cuộc tuyệt thực nhiều tuần lễ của các tù nhân lương tâm ở trại 6 đã gây chú ý từ các đại sứ quán Hoa Kỳ, Úc và Liên minh Châu Âu. Bà Nguyễn Thị Kim Thanh cho biết bà đã gặp đại diện các đại sứ quán vào ngày 9/7 để trình bày về tình hình của các tù nhân lương tâm ở trại 6. Đại diện các đại sứ quán cho biết họ đã chất vấn chính phủ Việt Nam về vấn đề này./.  
......

Đảng và chủ quyền chỉ có một!

Ngô Trường An| Nghe báo đảng hô hào, vận động toàn dân bảo vệ chủ quyền đất nước, phẩm giá dân tộc. Chợt nhớ lại cách đây 40 năm, đảng cũng vận động toàn dân đứng lên chống giặc bành trướng bá quyền Bắc Kinh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Cũng trong năm đó, ông chủ tịch nước Tôn Đức Thắng phát lệnh tổng động viên, tất cả lên đường ra trận chống giặc cứu nước. Hàng trăm ngàn học sinh, sinh viên xếp bút nghiên lên đường xông pha giết giặc. Hàng chục ngàn chiến sĩ phải hy sinh máu xương của mình để giành giật lại từng tấc đất của Tổ Quốc. Nhưng, khi quân xâm lược đã bị đánh bật ra khỏi biên giới, giành lại được toàn vẹn chủ quyền, thì không lâu sau đó, lãnh đạo đảng csVn chủ động mò sang TQ cầu hòa?! Họ (đcs VN) tôn TQ là bạn vàng, là láng giềng tốt, là đồng chí tốt…. Họ quên mất cách đó không lâu, chính thằng láng giềng tốt mất dạy này, thằng đồng chí tốt lưu manh này xua nửa triệu quân qua tàn sát hàng vạn đồng bào của mình. Họ quên luôn cái tên của kẻ xâm lược, đến nỗi, những chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến này, họ không biết các liệt sĩ ấy chiến đấu với ai nên chỉ ghi đơn giản: liệt sĩ thời kỳ biên giới?! Ngày nay, TQ lại đem tàu chiến xâm lược lãnh hải thì họ lại vận động toàn dân bảo vệ chủ quyền? Đặt giả sử, nếu, toàn dân bảo vệ được chủ quyền lần này rồi sau đó thì sao? Khỏi cần nói thì ai cũng biết. Với Phương châm 16 chữ vàng giữa 2 đảng cộng sản, trong đó có điểm: “lý tưởng tương thông; vận mệnh tương quan”. Như vậy thì giữa 2 đảng cũng là một, 2 nước cũng là một (như nhau). Thì chủ quyền ở đâu nữa mà bảo vệ? Tóm lại, còn đảng csVn cai trị thì chủ quyền đất nước coi như đã mất về tay giặc Tàu. Dân không còn cơ hội để bảo vệ chủ quyền đất nước nữa! Trừ khi, đảng csVn thoái vị và trao quyền lại cho nhân dân. Chỉ có như thế tổ quốc VN mới độc lập, dân tộc VN mới trường tồn./.  
......

Trung Quốc sợ gì ở Việt Nam

NB Trần Quang Vũ 1. Khi dùng "một vành đai, một con đường" để lừa bịp: đi với TQ thì các quốc gia cùng phát triển, TQ sợ nhất VN công bố "sách trắng" về bộ mặt thật của quốc gia này: cướp đất liền; cướp biển đảo; giết ngư dân chiếm ngư trường; bộ mặt giảo hoạt nói ngọt sớt mà làm đểu giả; chính sách nhất quán trong mọi lĩnh vực biến các quốc gia thành lệ thuộc và chư hầu; xây dựng hệ thống cướp bóc thông qua doanh nghiệp phía sau là nhà nước thao túng; các thủ đoạn thâm hiểm khống chế yếu nhân để xây dựng chính quyền theo ý muốn; không đủ văn hóa sống cùng loài người để xây dựng chính sách các bên cùng phát triển... 2.TQ sợ giới trí thức VN chỉ rõ XHCN TQ chỉ là chiêu bài lừa đảo VN chứ không phải bản chất tương đồng : "vừa là đồng chí, vừa là anh em". 3. TQ sợ sức mạnh tiềm ẩn về chống ngoại xâm (cả cứng là chiến tranh xâm lược: chiếm đất, chiếm đảo; cả mềm là kinh tế, văn hóa). Đặc biệt, họ sợ giới Sỹ phu VN đủ thông thái, nhậy cảm nhận ra mọi thủ đoạn xấu của TQ từ trứng nước. 4. TQ sợ, VN khi cần thiết thì từng người dân đều trở thành chiến sỹ chống TQ. Chống xâm lược TQ giống như một bản năng tiềm ẩn trong con người VN. Mọi cơ sở kt,vh và lưu trú của người TQ xây dựng ở VN với động cơ xấu sẽ bị san bằng trong chốc lát. 5. TQ sợ người VN biết nín nhịn đồng thời nhạy cảm và trí nhớ siêu phàm nên phân biệt rất rõ người chống TQ và người thờ TQ. Người VN sẽ đồng lòng xử lý khi thích đáng. Những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc... bị điểm mặt ngay từ khi còn sống và ghi vào lịch sử. Sự im lặng bất tuân và bất hưởng ứng là sự bình lặng trước bão. 6. TQ sợ người VN ở các quốc gia dân chủ biểu tình trước ĐSQ TQ để vạch rõ dã tâm của quốc gia đang có lũ lãnh đạo man rợ và lừa bịp.  
......

Bộ GTVT đang phòng thủ cho Trung Quốc

Không ai có quyền bắt Việt Nam phải mở thầu. Cũng không ai có quyền bắt Việt Nam phải nhất định chọn cho được người thắng thầu sau khi đã mở thầu. Nguyen Ngoc Chu|   Ông Nguyễn Danh Huy, Vụ trưởng Đối tác công - tư (PPP- Bộ Giao thông Vận tải), và các quan chức quản lý dự án đường cao tốc của Bộ GTVT đang ra sức bảo vệ Trung Quốc tham gia dự án cao tốc Bắc – Nam với các luận điểm sau. 1. “ Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và theo quy định của tổ chức này, tất cả các nước thành viên không được phân biệt đối xử với bất kể một quốc gia nào. "8 dự án cao tốc đầu tư theo hình thức PPP sẽ tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn các nhà thầu đảm bảo tuân thủ pháp luật Việt Nam và phù hợp thông lệ quốc tế. Do đó, việc nhiều nhà đầu tư đến từ Trung Quốc quan tâm đến dự án cao tốc Bắc Nam là điều hoàn toàn bình thường" . 2. “Đa số các nhà đầu tư Trung Quốc đều rất mạnh về yếu tố vốn tự có cũng như khả năng huy động vốn với lãi suất thấp (0 - 2 %)”. 3. "Dự án đường sắt đô thị đầu tiên ở Hà Nội do tổng thầu Trung Quốc thực hiện, giữa nhà thầu và nhà đầu tư là khác nhau". “Cao tốc Bắc Nam đang lựa chọn nhà đầu tư rồi mới lựa chọn nhà thầu; theo điều 5, Luật đấu thầu thì nhà thầu nước ngoài phải liên danh với nhà thầu trong nước để thực hiện dự án” ( Vnexpress 27/7/2019). Từ 3 điểm trên thì thấy Trung Quốc sẽ thắng thầu. Bởi vì: 1. Trung Quốc mạnh về tài chính và huy động lãi suất thấp; 2. Chọn nhà đầu tư chứ không phải nhà thầu; 3 Không được phân biệt đối xử với bất cứ nước nào. Thưa với ông Huy và các quan chức quản lý dự án cao tốc của Bộ GTVT: 1. Mạnh về tài chính và huy động lãi suất thấp 0-2% chỉ là lá bài lừa đảo. Điều này Việt Nam đã chịu cay đắng ở hàng ngàn dự án của Trung Quốc chào thầu thấp mà kết thúc rất đắt. Trung Quốc không lừa gạt được ai, ngoài các ông cố tình chịu mắc lừa vì nguyên do khác. 2. Cao tốc Bắc – Nam là làm đường để thu phí chứ không phải miễn phí. Người dân mới thực sự là người trả tiền. Tài năng và trách nhiệm của các ông nằm ở chỗ quy định đúng thời gian thu phí và mức thu phí trước khi mở thầu cho từng cung đoạn, mà không phụ thuộc vào đề xuất tài chính và mức huy động đường mật viết trên giấy của các nhà đầu tư. Nếu các ông phụ thuộc vào mức đầu tư của chủ đầu tư đề xuất rồi mới quyết định được thời gian thu phí và mức thu phí thì thất bại luôn nằm về phía người dân. Nếu các ông không đủ trình độ để làm điều này thì xin các ông hãy lui ra cho người khác làm. 3. Việt Nam không phân biệt đối xử về quốc tịch với các nhà thầu, nhưng Việt Nam có quyền dừng thầu vì Việt Nam thấy chưa phù hợp. Không ai có quyền bắt Việt Nam phải mở thầu. Cũng không ai có quyền bắt Việt Nam phải nhất định chọn cho được người thắng thầu sau khi đã mở thầu. KIẾN NGHỊ Từ những điều trên, kiến nghị với Lãnh đạo Bộ GVTV: 1. Không chọn người thắng thầu ở tất cả những gói thầu cao tốc Bắc – Nam chưa phù hợp với lợi ích của nhân dân Việt Nam. Sẽ mở thầu lại vào thời điểm thích hợp khi điều kiện cho phép. 2. Chủ đầu tư đường cao tốc Bắc – Nam nên là người Việt Nam. Để tránh nghĩ rằng vì thành kiến với Trung Quốc - xin đặt vài câu hỏi đơn giản sau đây. - Đầu tư cao tốc Bắc Nam rồi thu phí là làm kinh tế kiếm lời, nếu có lợi thì sao các nước khác không lăn vào đầu tư mà chỉ có Trung Quốc? - Có phải Trung Quốc chịu lỗ không? - Nếu phải chịu lỗ thì Trung Quốc chịu lỗ vì mục đích gì? - Nếu Trung Quốc không chịu lỗ mà có lời thì sao người Việt Nam không tự làm mà kiếm lời? Không ai bắt Việt Nam phải làm ngay đường cao tốc Bắc – Nam. Chậm làm cao tốc Bắc – Nam thêm vài năm cũng chưa chết ai. Nhưng dâng đường cao tốc Bắc - Nam vào tay kẻ cướp và bóc lột thì sẽ là đại họa. P/S: Trung Quốc có 30 hồ sơ tham gia tất cả 8 dự án cao tốc Bắc – Nam đang được chào thầu. Trong khi Việt Nam chỉ có 15 hồ sơ và 15 hồ sơ của các nhà đầu tư Hàn Quốc, Pháp, Philippines.  
......

Dã tâm lâu dài của Trung Cộng

Ảnh: đảng cho bà Chủ Tịch Quốc Hội Kim Ngân và Trưởng Ban Tuyên Gíao Trung Ương Võ Văn Thưởng qua Trung Quốc xun xoe cùng Bắc Kinh khiến dân Việt Nam nổi giận. “Dã tâm lâu dài của Trung Quốc” là tựa một bài viết trên báo mạng Thanh Niên Online (TNO) vào ngày 27 tháng Bảy, 2019. Dù TNO trích ý của Tiến Sĩ James R. Holmes, tác giả bài phân tích mà TNO lấy làm nền cho bản tin, “dã tâm” là một từ mạnh hiếm hoi để tố cáo sự xâm lấn lãnh hải Việt Nam của Trung Cộng. Bài báo sau đó nhắc lại một số dữ kiện được lặp đi lặp lại mấy ngày qua như tham vọng chủ quyền trên toàn Biển Đông, đường lưỡi bò phi pháp, Trung Cộng xem Biển Đông như ao nhà, sử dụng lực lượng “quân dân biển” để răn đe hải quân các quốc gia trong vùng. Đồng thời, bài báo cũng nêu ra chiến thuật “tầm ăn dâu” của Trung Cộng mà mục đích sau cùng là biến hơn 90% Biển Đông thành ao nhà của họ. Trong bối cảnh đó, lãnh đạo Đảng CSVN đã làm gì để đối phó với tình hình lãnh hải đang bị Trung Cộng uy hiếp nghiêm trọng? Trong lúc tàu thăm dò HD 8 của Trung Cộng vẫn còn hiện diện ở Bãi Tư Chính cùng một số tàu vũ trang hộ tống, chỉ có bà phát ngôn nhân Lê Thị Thu Hằng và vài tờ báo lề đảng được phép đưa ra lời tố cáo, chỉ trích hành vi hung hăng, ngang ngược của Trung Cộng; toàn thể Bộ Chính Trị, Trung Ương Đảng CSVN đều giữ thái độ im lặng là vàng. Lạ hơn nữa, đảng cho bà Chủ Tịch Quốc Hội Kim Ngân và Trưởng Ban Tuyên Gíao Trung Ương Võ Văn Thưởng qua Trung Quốc xun xoe cùng Bắc Kinh khiến dân Việt Nam nổi giận. Tóm lại, dù báo chí nhà nước dùng từ có mạnh mẽ đến đâu mà lãnh đạo Đảng CSVN vẫn im thin thít hoặc còn tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết kẻ đang đe dọa, xâm lấn đất nước mình thì cũng bằng thừa, hoặc chỉ có tác dụng trấn an dư luận. Đảng CSVN cần cho dân Việt Nam biết rõ ý chí chống xâm lăng của họ thế nào. Nếu không, trong con mắt người dân Việt Nam, Đảng CSVN không làm tròn trách nhiệm bảo vệ bờ cõi mà bất cứ chính quyền nào cũng phải làm. [P] – FB Việt Tân Từ vụ Scarborough, Việt Nam cần khởi kiện ngay Trung Quốc  
......

Nền Kinh Tế Nô Dịch?

Trần Đình Thu| ĐỂ HÀNG HÓA TRUNG QUỐC TRÀN NGẬP VIỆT NAM BẰNG MƯU MA CHƯỚC QUỶ, VIỆT NAM TỰ BIẾN THÀNH MỘT NỀN KINH TẾ NÔ DỊCH, THUỘC ĐỊA CỦA TRUNG QUỐC Tôi không lên án các doanh nhân nhập hàng Trung quốc về dán nhãn mác Việt Nam nếu họ chỉ làm như vậy mà không có gian lận thương mại nào khác. Nhưng tôi tố cáo một nền kinh tế như vậy. Đó là một nền kinh tế nô dịch, thuộc địa của Trung quốc. Tác hại của việc này trước hết là hàng hóa sản xuất từ Trung quốc có thể tràn ngập thị trường Việt Nam dưới vỏ bọc là hàng hóa Việt Nam để từ đó đến với người tiêu dùng trong tư cách là hàng Việt Nam có uy tín, đôi khi là “hàng Việt Nam chất lượng cao”, làm lao đao các nhà sản xuất nội địa. Để gọi là hàng hóa “Made in Việt Nam” thì doanh nghiệp tại Việt Nam phải là trung tâm của quá trình sản xuất ra hàng hóa đó. Anh có thể đặt hàng các linh kiện từ nước ngoài nhưng thiết kế là của anh, mẫu mã theo yêu cầu của anh, phù hợp với quy chuẩn tổng thể của anh, nước ngoài sản xuất theo yêu cầu của anh để có một đặc trưng của riêng anh, như thế mới gọi là “Made in Việt Nam”. Còn anh qua Trung quốc mua chỗ này mấy thứ chỗ kia mấy thứ về ráp lại rồi gắn mác Việt Nam vào, cái đó dứt khoát không phải là “Made in Việt Nam”. Có lẽ ai cũng biết điều này, nhưng vì sao nhà nước trong hàng chục năm qua không ra quy định về vấn đề này, để cho doanh nghiệp vô tư làm chuyện này? Tôi cho rằng có thể một là vì tiền vận động hành lang của các doanh nghiệp xuất khẩu nhập khẩu gì đó mà các nhà lập pháp làm ngơ không quy định, hai là có thể Trung quốc đã gây sức ép lên lãnh đạo Việt Nam để ngỏ quy định này cho hàng hóa Trung quốc tràn vào Việt Nam. Dù là nguyên nhân nào thì thị trường Việt Nam cũng tự biến thành một thị trường thuộc địa nô dịch của Trung quốc. Với một nền kinh tế quái thai “thị trường định hướng XHCN”, với một bộ máy lãnh đạo đất nước hầu hết là tham nhũng và bất tài, với một thể chế tận diệt các cơ chế phản biện, thì Trung quốc không cần xâm chiếm biển đảo hay xúi giục tạo ra các đặc khu 99 năm làm gì, mà chỉ cần xâm lăng mềm như thế này thì Việt Nam cũng nằm gọn trong lòng bàn tay Trung quốc rồi. Hoặc là bây giờ chính quyền Việt Nam phải quyết liệt ngăn chăn quá trình xâm lăng mềm của Trung quốc, hoặc là Việt Nam dần trở thành một tỉnh của Trung quốc. Trần Đình Thu ***** MƯU SÂU KẾ HIỂM !!! TRUNG QUỐC DÙNG CHÍNH NGƯỜI VIỆT ĐỂ RA TAY GIẾT NGƯỜI VIỆT. THỦ ĐOẠN NHƯ SAU: Bước 1. Thương lái Trung Quốc sang thu mua thịt heo Bước 2. Chê thịt heo ít nạc, hướng dẫn sử dụng thêm thuốc để tăng nạc, sau đó thì bán luôn chất tạo nạc, bản thân người nuôi heo bán cũng được nhiều tiền, dân đổ xô đi nuôi heo. Bước 3. Sau khi hóa chất đã tràn lan thì không mua heo nữa Bước 4. Dân Việt Nam sẽ tự thịt heo mà ăn cho hết Bước 5. Ung thư, bệnh tật, thoái hóa, suy kiệt giống nòi sẽ đè chết Việt Nam. Trung Quốc không cần tốn đến 1 viên đạn nào. Không chỉ THỊT LỢN chứa chất tăng trọng + chất tạo nạc clenbuterol, sabutamol mà còn : TRỨNG giả. TRỨNG gà công nghiệp dùng axit sunfuric để tẩy trắng biến thành trứng gà ta lừa người tiêu dùng GẠO làm từ hạt nhựa TRÁI CÂY ngậm hóa chất, thuốc làm chín, thuốc tăng trưởng MỰC KHÔ làm từ cao su ĐỒ CHƠI trẻ em nhiễm chì ÁO NGỰC phụ nữ tồn dư hóa chất độc hại CÁ VŨNG ÁNG ăn hóa chất chết hàng loạt CÁ ướp phân đạm, ure để tươi lâu hơn ĐẬU PHỤ trộn bột thạch cao CÀ PHÊ làm từ bột đậu nành và 15 loại hóa chất mua từ chợ Kim Biên MỰC THỐI thành mực tươi trắng nõn vì ngâm Oxy già THỊT THỐI biến thành thịt tươi nhờ sunpate GÀ nhuộm hóa chất vàng ươm gây ung thư THỊT LỢN nhờ hóa chất biến thành thịt bò. Bọn Tàu đang giết hại chúng ta bằng loại vũ khí rẻ tiền nhất mà hiệu quả cao nhất đây, còn độc hơn cả chất độc màu da cam, mọi người tình nguyện dùng nó và cũng tự nguyện đến bệnh viện.. Hãy chia sẻ để mọi người tránh xa hàng Trung Quốc. Hãy nói không với hàng Trung Quốc. ĐỪNG ĐỂ CHÚNG TA VÀ CON CHÁU CHÚNG TA PHẢI CHẾT VÌ TRUNG QUỐC Nguồn Fb Bích Ninh  
......

Putin làm chư hầu Tập Cận Bình

Ngô Nhân Dụng - Người Việt| Tạp chí Economist tuần này kể chuyện Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga Sergei Shoigu qua thăm Tajikistan, xứ nghèo nhất trong các nước Trung Á đã tách khỏi Liên Bang Xô Viết sau năm 1991. Ông Shoigu đi thanh tra Sư Đoàn 201, với 7.000 quân, đạo quân Nga đông nhất đóng ở nước ngoài. Khi ông Shoigu tới ăn tại “Lâu Đài Sĩ Quan,” một khách sạn lớn của quân đội ở Dushanbe, thủ đô Tajikistan, thì thấy trên tường phòng ăn treo một bức chân dung lớn của Tập Cận Bình. Khách sạn này do Trung Quốc viện trợ, tiệm ăn trong đó là quán cơm Tàu. Không phải chỉ có khách sạn. Trung Cộng cũng viện trợ xây cất dinh tổng thống và trụ sở quốc hội nước Tajikistan. Hệ thống điện thoại của Bộ Ngoại Giao được người Tàu đem biếu, bộ phận “trả lời tự động” lúc đầu chỉ nói tiếng Trung Hoa. Trung Cộng cũng làm đường, xây trường học, và cho chính phủ Tajikistan vay $1,3 tỷ, bằng một nửa toàn thể số nợ của nước này. Trung Cộng khai thác mỏ vàng, bạc trong xứ, cung cấp nhà máy điện và các máy chụp hình kiểm soát giao thông ở ngã tư. Quân Trung Cộng đóng trong vùng biên giới giữa Afghanistan, Tajikistan và Pakistan. Sĩ quan Tajikistan được huấn luyện ở Thượng Hải. Chính phủ Nga vẫn coi vùng Trung Á, trước đây thuộc Liên Xô, là “sân sau” của mình, về kinh tế cũng như quốc phòng. Nhưng Vladimir Putin không còn kiểm soát được các nước chư hầu nữa. Quân Trung Cộng thao dượt ở Tajikistan, không cần báo cho chính phủ Nga biết. Ngược lại, Putin đang biến nước Nga thành một chư hầu của Trung Cộng. Quan hệ Nga-Trung đã thay đổi. Stalin coi Cộng Sản Trung Hoa là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế. Gorbachev coi Giang Trạch Dân là ngang hàng. Nhưng bây giờ ngôi vị đảo ngược. Nga chiếm Crimea năm 2014, rồi xâm lăng Ukraine, bị các nước Tây phương phong tỏa kinh tế. Vì thế Putin đã quay về phía Đông. Tập Cận Bình mở vòng tay Panda ôm con gấu Nga, ký một thỏa ước 30 năm, mua 400 tỷ $ dầu khí của Nga. Nga xóa bỏ các hạn chế đầu tư ngoại quốc riêng cho các xí nghiệp Tàu. Sẵn sàng bán các loại vũ khí không phải hạt nhân. Nga lệ thuộc Tàu về kinh tế. Năm 1989 Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) của Nga lớn gấp đôi của Trung Quốc, dù dân số ít hơn. Năm nay, GDP của nước Tàu bằng sáu lần nước Nga. Trung Quốc đứng hàng thứ nhì mua hàng hóa của Nga, sau Liên Hiệp Âu Châu; và mua nhiều dầu, khí của Nga nhất. Trong số dự trữ ngoại tệ của Ngân Hàng Trung Ương Nga, có 14% là đồng Nguyên, tiền Trung Quốc. Khác với đô la Mỹ hay đồng Euro, đồng Nguyên không thể đem bán nhanh chóng trong thị trường thế giới khi cần. Trung Cộng càng phát triển thì càng cần nhập cảng năng lượng; đã được Putin mở cửa bán rẻ. Một nửa số dụng cụ khai mỏ dầu ở Nga do Trung Cộng cung cấp. Trung Cộng cho Rosneft, doanh nghiệp nhà nước của Nga vay tiền mua các công ty nhỏ, đổi lại sẽ bảo đảm được bán dầu. Một công ty quốc doanh của Bắc Kinh làm chủ 20% dự án khai thác dầu vùng bắc cực của Novatek, công ty dầu khí của Timchenko, một trong các tỷ phú thân cận với Putin. Hệ thống ống dẫn dầu từ Nga sang Trung cộng Trước đây Nga nắm độc quyền đặt ống dẫn dầu trong vùng Trung Á, nay đang bị Trung Cộng lấn đất. Trước đây, một công ty Nga kiểm soát hết các ống dẫn dầu ở Kazakhstan, một nước trước đây thuộc Liên Xô. Nay, dầu lửa từ Kazakhstan chảy thẳng qua Trung Quốc bằng một hệ thống dẫn dầu mới. Nhiều người Nga lo sợ nhất, là nước Nga dựa vào Trung Cộng khi thiết lập hệ thống viễn thông mới, gọi là 5-G. Trong tương lai, một nửa mạng Internet ở Nga sẽ do Trung Cộng đặt nền móng. Trung Cộng có kinh nghiệm nhất trong việc kiểm soát và đàn áp dân. Họ cung cấp cả hệ thống lẫn các dụng cụ giúp Putin kiểm soát dân Nga. Putin nhờ công ty Huawei thiết lập các điện thoại 5-G, bất chấp những báo động của giới tình báo. Tổng Thống Donald Trump đã cấm các xí nghiệp Mỹ không được mua đồ của Huawei vì mối lo này. Hệ thống viễn thông 5-G có một nhược điểm là rất dễ bị “xâm nhập phá hoại” (hacking). Hệ thống 5-G chạy nhanh gấp 20 lần các máy móc cũ. Không chỉ dùng để thông tin như máy móc bây giờ, nay mai các “điện thoại” có thể điều khiển nhà máy, sai bảo các “robot” làm việc trong nhà, mở cửa đóng cửa, mở tủ lạnh, nấu ăn, trông coi trẻ em, điều khiển xe chạy điện hay máy bay nhỏ… Hệ thống viễn thông mới có thể trở thành vũ khí. Cựu Trung Tướng Robert Spalding đã viết một bài báo động các nước mua hàng của Huawei hoặc ZTE vì họ bán giá rẻ về nguy cơ nếu Trung Cộng bán và đặt các dụng cụ viễn thông. Spalding mô tả các thành phố có thể biến thành bãi chiến trường: Thử tưởng tượng có lúc những chiếc xe điện bỗng dưng chạy bừa bãi, đâm nhau và cán người đi bộ. Những máy bay nhỏ không người lái (drone) lao vào động cơ các phi cơ chở khách! Ông lên tiếng: Phải gạt Huawei và ZTE ra khỏi các nước tự do dân chủ. Hệ thống 5-G sẽ được áp dụng trong kỹ thuật chiến tranh. Thử tưởng tượng một toán đang hành quân trong rừng, mỗi người lính đi cách đồng đội hàng trăm mét. Họ biết ai đang ở chỗ nào, nhờ cái máy “đồng hồ điện thoại” đeo trên tay. Hệ thống này không cần đến vệ tinh nhân tạo như GPS, mà trực tiếp truyền từ máy này tới máy khác. Một binh sĩ bị trúng mìn hay đạn của quân địch, ngã bất tỉnh. Cái “đồng hồ” có “sensor” thấy ngay tình trạng khẩn cấp, báo động cho các bạn. Cái đai anh lính đeo ở chân hay tay tự động thắt lại để cầm máu; mũi kim tự động chích thuốc và toán cấp cứu ở xa được báo động ngay. Lập tức, cái “đồng hồ” cũng đưa ra ngay một đội hình tác chiến dựa trên tin tức mới biết về vị trí quân địch. Chiến xa không người lái chạy đến tăng cường. Cùng lúc dó, trực thăng cấp cứu bay ngay tới chỗ anh lính bị thương vì biết anh ta đang ở đâu. Thử tưởng tượng, nếu bên địch có thể làm nhiễu loạn cả hệ thống thông tin của đạo quân này, liệu còn đánh nhau được nữa hay không? Ông Alexei Navalny, một thủ lãnh đối lập còn sống sót ở Nga, cảnh cáo Tổng Thống Putin đang làm cho nước Nga lệ thuộc vào Trung Quốc, trong chính trị và cả trong các kỹ thuật tân tiến; khi Putin để cho Trung Cộng chiếm gần như độc quyền cung cấp các khí cụ từ bên ngoài nước Nga. Bất cứ nhà lãnh đạo nào, sau Putin, cũng không thể gỡ nước Nga thoát khỏi vòng lệ thuộc đó. Navalny nói: “Ông Putin đang biến người lãnh đạo Nga sắp tới trở thành ‘con tin’ của Trung Quốc. Họ sẽ khó mà buộc được chính quyền Trung Quốc phải thiết lập một quan hệ bình đẳng, được dân Nga chấp nhận. Leonid Kovachich, một nhà báo Nga chuyên về công nghiệp tân tiến, tiết lộ rằng các khoa học gia Nga đều biết mối nguy nếu để cho Trung Cộng xâm nhập vào lãnh vực kỹ thuật mới, và họ đang cố gắng kiến tạo các chương trình, các ký mã trong nhu liệu, phần mềm, hoàn toàn độc lập với các dụng cụ của Trung Quốc. Nhưng các máy móc, thuộc phần cứng thì vẫn mua của nước Tàu. Tại sao Vladimir Putin để nước Nga lâm vào tình trạng lệ thuộc này? Vì Putin không có cách nào khác, sau khi bị các nước Âu, Mỹ cấm vận. Hai cái đầu con diều hâu trong huy hiệu nước Nga bây giờ quay cùng một phía, phía Đông. Nhưng còn một lý do thực tế hơn, là các tay đầu nậu (oligarch) chung quanh ông Putin đang hưởng lợi nhờ khai thác quan hệ kinh tế với Trung Quốc để hốt bạc. Họ tích cực vận động cho chính sách “ngả sang Tàu” của Vladimir Putin. Gennady Timchenko, trước đây bán dầu cho Châu Âu kiếm hàng tỷ Mỹ kim, nay làm ăn với người Tàu; đang làm chủ tịch Hội Đồng Thương Mại Nga-Trung. Nhưng các xí nghiệp Trung Quốc không thích đầu tư vào nước Nga, ngoài lãnh vực dầu khí. Họ đem tiền kinh doanh ở Mỹ hoặc Âu châu vì những xứ đó có hệ thống pháp luật đáng tin cậy! Khi làm ăn, ai cũng muốn được luật pháp bảo vệ, mà tinh thần trọng pháp thì ông Putin đã xóa ở nước Nga mất rồi! Không phải chỉ có nước Nga đang bị dẫn đi sai đường. Tất cả những nước quá tin tưởng vào Trung Cộng cũng vậy. Liệu Việt Nam có thể thoát khỏi cái bẫy này không?
......

Tân Chủ tịch Ủy ban Châu Âu bà Ursula Von der Leyen sẽ khiến cho TQ phải phiền não !?

Chính sách bành trướng của TQ đang vấp phải sự phản đối mãnh liệt từ ông Trump. Nhưng sắp tới sẽ còn có thêm 1 nhân vật nữa khiến cho TQ phải đau đầu hơn nữa. Dưới đây là những thông tin cụ thể.Tháng 10 năm ngoái, khi bà Ursula Von der Leyen đến thăm Trung Quốc với vai trò là Bộ trưởng Quốc phòng Đức, bà đã có những phát biểu phê phán nhưng vẫn theo phong cách ngoại giao. Thay vì phê phán trực tiếp đường lối ngoại giao cứng rắn của Chính quyền Bắc Kinh, bà dẫn lại lịch sử nước Đức: "Đức trong quá khứ đã từng nhiều lần quá hùng mạnh và quá lấn át. Tham vọng sức mạnh đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn, xung đột." Phản ứng của các quan khách có mặt tại Bắc Kinh hôm đó khá lạnh nhạt, họ chỉ vỗ tay một cách dè dặt. Lạnh nhạt cũng là phản ứng của Chính quyền Trung Quốc đối với việc bầu bà Von der Leyen giữ chức Chủ tịch Ủy ban Châu Âu. Bắt đầu từ tháng 11 năm nay, bà sẽ trở thành nhà lãnh đạo của hơn 30.000 nhân viên của Ủy ban này và là gương mặt đại diện cho Liên minh Châu Âu. Bên cạnh các lãnh đạo, nguyên thủ của 28 quốc gia trong Liên minh, bà Ursula Von der Leyen sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn xung đột trong tương lai.Và trong quá trình đó, Liên minh Châu Âu sẽ thường xuyên phải đàm phán trao đổi với 3 cường quốc mạnh nhất thế giới là Mỹ, Nga và Trung Quốc. Thế lực ngày càng trỗi dậy của Trung Quốc trên thế giới đã được bà Ursula Von der Leyen đặc biệt nhắc đến một cách trực diện hơn nhiều trong một cuộc phỏng vấn với tờ Thời báo Đức "Zeit" tháng 1 năm nay, tức là chỉ vài tháng sau chuyến thăm Bắc Kinh: "Chúng ta đã quá thiếu sót khi không để tâm đến vấn đề Trung Quốc". Trung Quốc không thể hiện sức mạnh quân sự nhiều như Nga, nhưng: "Trung Quốc thể hiện quan hệ với chúng ta một cách hữu nghị, và chính vì vậy chúng ta thường không nhìn thấy họ đã theo đuổi các mục tiêu đằng sau đó của họ như thế nào. Họ thật là khôn ngoan." Bà Von der Leyen phê phán chính sách bành trướng Những lời phát biểu rõ ràng của bà Von der Leyen chắc hẳn sẽ không được lòng chính quyền Trung Quốc. "Đối với Trung Quốc, rõ ràng là bà Von der Leyen không phải là ứng viên mong muốn cho chức vụ Chủ tịch Ủy ban Châu Âu" - đó là phát biểu của ông Bernhart Bartsch, chuyên gia về Trung Quốc của Viện Bertelsmann. Bà Von der Leyen trong những năm gần đây đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, bà nhìn nhận mối quan hệ với Trung Quốc sẽ là thách thức trọng tâm trong việc ổn định trật tự toàn cầu. Bà Ursula Von der Leyen đến thăm Trung Quốc với vai trò là Bộ trưởng Quốc phòng Đức. Theo ông Bartsch: "Cùng với một số ít chính trị gia Châu Âu khác, bà Von der Leyen đã công khai kêu gọi nhìn nhận một cách nghiêm túc thế lực đang trỗi dậy của Trung Quốc, trao đổi thẳng thắn về các vấn đề phát sinh và đối diện với Trung Quốc với tinh thần thống nhất của Châu Âu". Bà Von der Leyen giờ đã có thể hướng sự quan tâm của Ủy ban Châu Âu tới vấn đề tỷ giá đáng quan ngại của đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Người tiền nhiệm của bà, ông Jean-Claude Juncker trước kia đã quá quan tâm cân nhắc đến việc giữ cho quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Liên minh Châu Âu không bị ảnh hưởng. Nhưng chính quyền Trung Quốc đặt Liên minh Châu Âu trước ngày càng nhiều vấn đề: yêu cầu về việc mở cửa thị trường một cách công bằng đã không được phía Bắc Kinh thực hiện, sự kiểm soát của Nhà nước đối với các tập đoàn lớn ngày càng tăng lên cũng như việc trấn áp những nhóm đối lập và những tộc người thiểu số như người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương. Việc phê phán những vấn đề đó của Trung Quốc không phải là sự kiện mới. Bà Von der Leyen đang đi theo xu hướng ở Châu Âu, đó là nhận xét của ông Thomas Eder, một nhà nghiên cứu trong Chương trình quan hệ quốc tế của Viện Mercator chuyên nghiên cứu về Trung quốc (Merics). Ông Eder nói: "Nhìn nhận vấn đề Trung Quốc một cách nghiêm túc hơn không phải là do bà Von der Leyen mới khởi xướng mà là một xu hướng ở Châu Âu được bà tiếp nối". Chỉ có điều bà Von der Leyen sẽ làm điều đó theo cách riêng của mình: bà nổi tiếng là người diễn đạt một cách rất ngoại giao - nhưng đồng thời được đánh giá là người rất có khả năng thực hiện những điều mình đã nói.Trong bài phát biểu tranh cử của mình trước Nghị viện Châu Âu, bà Von der Leyen cũng đã thể hiện rõ ràng việc bà đánh giá đường lối chính sách của Bắc Kinh đang đi ngược lại với con đường của Châu Âu. Tuy bà Von der Leyen không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng bà muốn nhắm đến nước nào thì đã rõ. Theo như ông Bartsch thì: "Nhà nữ chính khách của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo CDU (tức bà Von der Leyen) đã đề cập đến các nước đang trở nên độc tài hơn, dùng tiền để mua ảnh hưởng trên toàn cầu, tạo ra sự phụ thuộc thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng và theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch". Ngay trong bài phỏng vấn với tờ Thời báo Đức "Zeit", bà Von der Leyen đã phê phán chính sách bành trướng của Trung Quốc: "Người Trung Quốc đang bành trướng một cách âm thầm và từng bước một". Sau Thế Chiến thứ 2, nước Mỹ chú trọng đến việc xây dựng các liên minh và lòng tin, trái lại Trung Quốc quan tâm tới việc tạo ra những sự phụ thuộc về kinh tế. Rõ ràng thông qua Dự án cơ sở hạ tầng "Con đường tơ lụa mới" mà trong đó Bắc Kinh cung cấp các khoản tín dụng với quy mô lớn, các nước như Srilanka đã bị đẩy vào thế phụ thuộc về kinh tế. "Cái giá phải trả là nguồn nguyên liệu thô, mở cửa thị trường và ủng hộ Trung Quốc trên các diễn đàn quốc tế", bà Von der Leyen nói. Tổng thống Pháp Macron mong muốn chấm dứt "thời kỳ ngây thơ" Trước hết, bà Von der Leyen có đồng quan điểm với Tổng thống Pháp Emmanuel Macron. Ông Macron mong muốn chống lại "sự ngây thơ" trong mối quan hệ với Trung Quốc. Mới cách đây vài tuần, bên lề Hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Osaka (Nhật Bản ), Tổng thổng Pháp đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe nhằm xây dựng một liên minh đối trọng với Trung Quốc.Đối với phía Châu Âu, việc đắc cử của bà Von der Leyen là một tin tốt lành. Trong mấy tháng gần đây, Ủy ban Châu Âu đã đưa ra bàn thảo một Kế hoạch gồm 10 điểm nhằm xây dựng một Chính sách tự chủ hơn của Châu Âu đối với Trung Quốc. "Bà Von der Leyen chắc chắn sẽ ủng hộ Kế hoạch" - ông Bartsch, chuyên gia về Trung Quốc, nói. Ngay cả với Nghị viện Châu Âu, bà cũng có thể hợp tác tốt về vấn đề Trung Quốc: "Tại Nghị viện, chính sách đối với Trung Quốc cũng do một chính khách Đức của Đảng Xanh, ông Reinhard Buetikofer, phụ trách. Ông này là một trong những người có năng lực nhất về xây dựng Chính sách của Châu Âu đối với Trung Quốc, và ông cũng có cùng quan điểm với bà Von der Leyen trong vấn đề này". Điều này không nhất thiết phải dẫn tới việc đe dọa ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa hai bên, theo như ông Eder, nhà nghiên cứu của Viện Mercator, chừng nào những "lằn ranh đỏ" mang tính biểu tượng không bị vượt qua, ví dụ như việc gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng. Những tháng hè này sẽ được bà Von der Leyen tận dụng để soạn thảo chiến lược riêng của mình./. Theo vietbf.com
......

Pages