Formosa, bướu ung thư ác tính trên cơ thể Việt Nam

Mặc Lâm – VOA| Ngày 6 tháng 4 năm 2019 Giám đốc Công an Hà Tĩnh gửi UBND Hà Tĩnh công văn số 495/CAT-CSMT được nhiều tờ báo trong nước đăng lại với cái tựa: “Công an Hà Tĩnh bó tay với Formosa” có nội dung Formosa Hà Tĩnh đang thải ra 14 nhóm chất thải với 64 danh mục của hàng nghìn chất thải khác nhau tất cả đều rất độc hại cho sức khỏe con người. Tuy nhiên Formosa Hà Tĩnh không hợp tác với cơ quan chức năng để theo dõi xử lý mặc dù cảnh sát điều tra môi trường đã gửi văn bản yêu cầu Formosa nhiều lần phải báo cáo các chất thải gây nguy hại. Sau ba ngày bài báo này đã bị gỡ tuy nhiên trên nhiều cơ quan truyền thông hải ngoại lẫn mạng xã hội đều lan truyền thông tin này như một bằng chứng cụ thể do công an xác định về hành vi xả chất thải công nghiệp gây tác hại trực tiếp cho môi trường mà người dân sống gần là những nạn nhân đầu tiên. Hầu hết người Việt tuy vẫn bị mang tiếng là bàng quan trước mọi diễn biến chính trị nhưng khi nghe nói đến chữ “Formosa” thì phản ứng của mọi người đa số là giống nhau: Giận dữ và đau lòng. Giận dữ vì từng có một thời gian dài sau khi Formosa bị phát hiện là nguyên nhân gây cho cá chết hàng loạt tại nhiều tỉnh duyên hải miền Trung thì bàn ăn của đồng bào cả nước vắng bóng các loại cá như thường nhật. Họ đau lòng vì biết cả triệu người miền Trung bị ảnh hưởng tới công ăn việc làm và cái đói nghèo vốn đã đè nặng lên gia đình họ nay viễn ảnh rách rưới lại càng rõ rệt hơn sau khi nhà máy Formosa chính thức hoạt động. Người dân cà nước còn nhớ vụ hàng ngàn người dân Thị xã Kỳ Anh tập trung đông chưa từng có trước cổng chính của tập đoàn Formosa vào sáng ngày 2 tháng10 năm 2016 yêu cầu trả lại biển sạch cho họ sau khi phát hiện Formosa đã thải hàng tấn hóa chất độc công nghiệp gây ra cái chết hàng loạt cho cá ven biển trải dài hơn ba cây số. Tiếp theo sau đó là hàng loạt vụ biểu tình đòi bồi thường thiệt hai cho dân chúng cũng như đòi chính quyền phải đóng cửa nhà máy này vì hóa chất cũng như khí thải của nó gây bệnh tật cho người dân địa phương và vùng phụ cận. Trước sức ép của dư luận và các cuộc biểu tình không ngưng nghỉ, Công ty Formosa Hà Tĩnh thừa nhận gây ra vụ cá chết hàng loạt ở bốn tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam và đồng ý bồi thường 500 triệu đôla cho chính phủ Việt Nam. Mức bồi thường 500 triệu đô la dành cho 3 vấn đề: thiệt hại của người dân, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và bồi thường phục hồi môi trường biển cho 4 tỉnh bị ảnh hưởng chính là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên−Huế là gần 4 triệu người. Số tiền nhỏ nhoi ấy cũng không được tới tay nạn nhân mà hầu như có khiếu kiện mới được lãnh tiền. Cách giải quyết quan liêu này một lần nữa gây bức xúc cho dân chúng khiến hàng chục cuộc biểu tình đòi công bằng lại nổ ra giữa lúc biển tiếp tục chết, bầu trời Kỳ Anh Hà Tĩnh tiếp tục nhận luồng khói của nhà máy thép Formosa gây không biết bao nhiêu di hại cho sức khỏe người dân. Formosa có Tổng diện tích thực hiện dự án hơn 3.300ha, bao gồm diện tích đất liền hơn 2.025ha và diện tích mặt nước hơn 1.293ha (cảng Sơn Dương). Thời gian thuê đất là 70 năm, tiền thuê đất 96 tỷ đồng cho toàn bộ thời gian thuê. Không cần phải là một kỹ sư hay tiến sĩ, người dân cũng thấy rõ, mức giá này quá rẻ, gần như cho không. Không phải chính phủ Việt Nam không biết thành tích của Formosa đối với gây nguy hại môi trường biển. Gần nhất là bài học của Campuchia, năm 1998, Formosa đã thải 3.000 tấn chất thải hóa học ra vịnh Thái Lan, gần cửa biển Sihaoukville và bị buộc phải bồi thường 13 triệu đô la. Năm 2009, tập đoàn này đã “vinh hạnh” nhận giải “Hành tinh đen” do Ethecon, tổ chức bảo vệ môi trường của Đức dành cho những cá nhân/tổ chức “đóng góp” vào việc phá hủy môi trường “trao tặng. Tại Đài Loan nơi mà Formosa được sinh ra không ít lần nó bị đồng hương biểu tình đòi giải thể vì cách làm ăn thiếu lương thiện của nó. Tại Mỹ, nơi môi trường được giữ kín kẽ nhất thế giới đã cho Formosa rất nhiều bài học khi tập đoàn này có hành vi khuất tất trong việc gây nguy hiểm môi sinh. Một năm sau khi sự cố Formosa xảy ra, ngày 25 tháng 07 năm 2017, Báo Tiền Phong có đăng bài viết: “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc với Formosa: Nếu lại vi phạm, nhất quyết đóng cửa.” Cụ thể, Thủ tướng đã nhấn mạnh rằng: “Tinh thần lớn là nếu không an toàn thì không sản xuất” và “Nếu vi phạm trở lại thì phải đóng cửa nhà máy này”. Và hai năm sau, lời của Thủ tướng đương nhiệm có vẻ bị Formosa thách thức thông qua công văn của Công an tỉnh Hà Tĩnh “kêu cứu” chính phủ vì cung cách bất tuân pháp luật mà tập đoàn này đang hành xử. Nếu công an Hà Tĩnh bức xúc một thì dân chúng tại khu vực bị ảnh hưởng có lẽ bức xúc đến mười. Sức khỏe gia đình họ bị đe dọa nghiêm trọng, công ăn việc làm của họ kể như trở về con số không và tương lai cuộc sống của gần hai triệu con người trực tiếp bị ảnh hưởng sẽ ra sao nếu hàng ngàn tấn hóa chất len lỏi vào nguồn nước biển? Ai là người trách nhiệm khi vận động chính phủ cung cấp giấy phép cho tập đoàn Formosa vào Việt Nam để lại di chứng khó xóa sạch trên bản đồ môi sinh của thế giới? Chính là ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, khóa 14 người chính thức đặt bút ký đầu tiên khi đề nghị chính phủ Nguyễn Tấn Dũng duyệt xét. Người trách nhiệm thứ hai là Bộ trưởng Tài nguyên – Môi trường Trần Hồng Hà, đáng ra phải cho khảo sát dự án lại nhanh chóng cho phép Formosa được sinh ra. Đứa con thiếu tháng ấy bây giờ đã trở thành một bứu độc ung thư gây lo sợ cho hàng triệu người Việt Nam không những chung quanh nó mà có lẽ sẽ di căn trên khắp nước. Ông Võ Kim Cự thì bặt vô âm tín, nhưng ông Trần Hồng Hà vẫn còn đó trên chiếc ghế Bộ trường Bộ Tài nguyên Môi trường và sáng ngày 5 tháng 6 năm 2018, trong phiên trả lời chất vấn tại Quốc hội, ông Trần Hồng Hà khẳng định về việc xả thải của nhà máy Formosa “đảm bảo an toàn về môi trường”. Là một Bộ trưởng phụ trách môi trường, tức là lá phổi của toàn dân Việt Nam nhưng cung cách mà ông Hà nói trước Quốc hội khiến người ta khó thể tin nổi vào lúc ấy cho đến gần một năm sau thì Công an tỉnh Hà Tĩnh xác nhận những khẳng định của ông Bộ trường là hoàn toàn dối trá. Trên lá phổi của Việt Nam đã đóng dấu ấn có hình dạng Formosa và di chứng của nó liệu kéo dài tới bao lâu sau khi ông Trần Hồng Hà lại hạ cánh an toàn như Võ Kim Cự?
......

Chỉnh đốn giống như… loạn đả!

Tề Trí Dũng (trái) và Bùi Quang Huy. (Ảnh Thanh Niên và Bộ Công An) Trân Văn – VOA| Hệ  truyền thông chính thức ở Việt Nam đang thi nhau dốc ngược cuộc đời của ông Tề Trí Dũng, 38 tuổi, cựu Tổng Giám đốc Công ty Phát triển công nghiệp Tân Thuận TP.HCM (IPC), vừa bị tống giam với hai cáo buộc: “Tham ô tài sản” và “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí”, như một cách để chứng minh… “dĩ dzãng dơ dáy dễ dầu gì giấu giếm”! Cứ như cách trình bày của hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam thì chuyện ông Dũng, mới 22 tuổi, vừa tốt nghiệp Đại học Kinh tế TP.HCM đã được tuyển dụng – bổ nhiệm làm lãnh đạo Bộ phận thị trường của Phòng Kinh doanh, kiêm Phó Bí thư Thường trực của Đoàn TNCS HCM tại Công ty Dầu khí TP.HCM là khác thường. Theo hướng đó, khác thường không chỉ là một chuyện mà là một… chuỗi (1). Rời Công ty Dầu khí TP.HCM, ông Dũng về Tổng Công ty Bến Thành (Benthanh Group) làm Phó phòng rồi làm Trưởng phòng Tài chính – Kế toán và tham gia Đảng ủy của tổng công ty này. Sau khi được chọn tham gia “chương trình đào tạo 300 thạc sĩ, tiến sĩ”, ông Dũng được gửi qua Úc du học. Cầm tấm bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh về nước, ông Dũng được bổ nhiệm làm Phó Tổng Giám đốc, rồi Tổng Giám đốc Benthanh Group. Tháng sau, ông Dũng được điều sang làm Tổng Giám đốc IPC. IPC là hậu thân của Ban Quản lý Khu Chế xuất Tân Thuận – khu chế xuất đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991. Lĩnh vực hoạt động chính của IPC là “nghiên cứu, đầu tư, phát triển và mời gọi hợp tác đầu tư vào kinh doanh cơ sở hạ tầng đặc biệt trong các khu chế xuất, khu công nghiệp, đô thị”. Cần lưu ý, IPC là doanh nghiệp của UBND TP.HCM, hàng hóa mà IPC sử dụng để kinh doanh là công thổ, công thự, công sản với tất cả các ưu thế mà chính quyền TP.HCM dành cho nó. Vậy mà IPC thua lỗ. Đến giờ, IPC đang nợ nhiều nơi 69 tỉ. Tuy nhiên đó không phải là lý do chính khiến ông Dũng xộ khám. Ông Dũng bị tống giam vì muốn làm Tề Thiên, sử dụng pháp thuật để chuyển hóa nguồn gốc tài sản… IPC thành lập một công ty con theo hình thức cổ phần, đặt tên là Công ty Phát triển Nam Sài Gòn (Sadeco). Lúc đầu, IPC nắm giữ 78,4% cổ phần của Sadeco. Sau đó IPC bán 5,2 triệu cổ phiếu của mình tại Sadeco cho một công ty bất động sản tên là Exim. Mua xong, Exim bán hết số cổ phiếu đó cho Công ty Nguyễn Kim. Trong thương vụ này, Exim chỉ mua đi bán lại cổ phiếu của Sadeco đã kiếm được khoản lời khoảng 160 tỉ. Giai đoạn hai, dù không thiếu vốn, lãnh đạo Sadeco – cũng là lãnh đạo IPC – vẫn ra một “nghị quyết” về việc tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu và chọn Công ty Nguyễn Kim làm “đối tác chiến lược”. Công ty Nguyễn Kim mua sạch số cổ phiếu do Sadeco phát hành thêm và lời 153 tỉ vì lần này, giá cổ phiếu mua trực tiếp từ Sadeco, rẻ hơn giá cổ phiếu từng mua của Exim khoảng 17.000 đồng/cổ phiếu. Sau thương vụ này, Sadeco đổi chủ, Công ty Nguyễn Kim thay IPC điều hành Sadeco vì nắm 54% cổ phiếu. Nắm trong tay nhiều công thự, công thổ, kinh doanh có lãi, về nguyên tắc, IPC phải nộp tiền lãi vào công quỹ. Tuy nhiên ông Dũng ra lệnh giữ lại tiền lãi và trong hai năm từ 2016 đến 2017, ông Dũng chỉ đạo thuộc cấp vay ngân hàng 400 tỉ để nộp cho công quỹ. Ông Dũng giải thích chuyện có tiền, vẫn đi vay để phải trả tới tám tỉ tiền lãi là vì… muốn tạo quan hệ tài chính với ngân hàng! Từ tháng 10 năm ngoái, trong Kết luận Thanh tra IPC, Thanh tra TP.HCM đã chỉ ra hàng loạt sai phạm khác của ông Dũng: Chỉ định thầu, vi phạm các qui định về đấu thầu, tùy tiện trả thêm chi phí trong quá trình xây dựng trụ sở. Tùy tiện trong việc cho thuê công thự. Vi phạm nhiều qui định khi thực hiện Khu Dân cư Long Hậu (2). Chỉ trong hai năm, ông Dũng dùng công quỹ đi nước ngoài 106 ngày (3),… nhưng đến nay, vụ “Tham ô tài sản” và “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí” xảy ra tại IPC mới được khởi tố. *** Xét cho đến cùng, các sai phạm ở IPC nói chung và của cá nhân ông Dũng nói riêng không mới. Chắc chắn không phải tự nhiên mà ông Dũng thăng tiến thần tốc. Quá trình tuyển dụng – nâng đỡ ông Dũng từ vị trí này lên vị trí khác – điều động ông Dũng từ nơi này sang nơi khác đều diễn ra trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước do UBND và Thành ủy TP.HCM quản lý. Công ty Dầu khí TP.HCM, Benthanh Group, IPC cùng của một chủ. Thiên hạ vẫn bảo “chủ nào, tớ ấy”. UBND và Thành ủy TP.HCM đâu chỉ có một thuộc cấp như ông Dũng và một doanh nghiệp như IPC. Năm ngoái, Kiểm toán Nhà nước phát giác Tổng Công ty Nông nghiệp Sài Gòn (SAGRI) – một doanh nghiệp khác thuộc UBND TP.HCM, vi phạm hàng loạt qui định về quản lý đất đai, công sản khi đem 24 khu đất có tổng diện tích 1.900 héc ta ra làm vốn để thành lập các doanh nghiệp mới. Tuy nắm trong tay 45 khu nhà và đất, tổng diện tích lên tới 6.300 héc ta và chỉ đem nhà, đất làm vốn, góp với các doanh nghiệp khác hoặc cho thuê nhưng lợi nhuận của SAGRI liên tục giảm so với mức biểu kiến mà SAGRI hứa hẹn. Năm 2017, lợi nhuận của SAGRI chỉ đạt 30% mức biểu kiến (4). Cũng năm ngoái, Thanh tra TP.HCM kết luận, năm 2016, ông Lê Tấn Hùng, Tổng Giám đốc SAGRI và bà Nguyễn Thị Thúy, Kế toán trưởng của SAGRI, phối hợp với hai công ty du lịch, làm giả 10 hợp đồng đưa cán bộ, nhân viên đi “tham quan – học tập kinh nghiệm” ở nước ngoài để chi khống hơn 13 tỉ đồng (5). Giống như Kiểm toán Nhà nước, sau khi thanh tra SAGRI, Thanh tra TP.HCM nhận định, tại SAGRI đã xảy ra hàng loạt sai phạm trong sử dụng công sản, công thổ, điều hành SAGRI. Hiệu quả của hoạt động đầu tư thấp, thua lỗ triền miên, nhiều liên doanh phải ngưng hoạt động, vốn nhà nước giao cho SAGRI bị tổn thất. Cả Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra TP.HCM cùng đề nghị các viên chức hữu trách ở TP.HCM xem xét, xử lý lãnh đạo SAGRI. Giữa lúc nhiều người tin rằng, ông Lê Tấn Hùng, Tổng Giám đốc SAGRI, em ruột ông Lê Thanh Hải, cựu Bí thư Thành ủy TP.HCM, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì chỉ riêng chuyện tổ chức chi khống – chiếm đoạt hơn 13 tỉ đồng – đã đủ để ông Hùng có thể bị phạt tử hình hay chung thân do “tham ô tài sản”… thì tháng 3 năm ngoái, Chủ tịch TP.HCM, chỉ quyết định “khiển trách” ông Lê Tấn Hùng và bà Nguyễn Thị Thúy. Quyết định “khiển trách” vừa kể bị công chúng chỉ trích kịch liệt nhưng không ăn thua. Mãi tới tháng 10 năm ngoái, bảy tháng sau khi “khiển trách”, UBND TP.HCM mới quyết định nâng hình thức kỷ luật ông Hùng và bà Thúy từ “khiển trách” lên… “cảnh cáo” (6). So sai phạm của ông Hùng với ông Dũng, rõ ràng ông Dũng… xui hơn và không chỉ xui hơn… ông Hùng. Năm ngoái, sau khi scandal Công ty Đầu tư Xây dựng Tân Thuận (một doanh nghiệp của Thành ủy TP.HCM) bán rẻ cho Công ty Quốc Cường Gia Lai 34,2 héc đất ở Nhà Bè, chấp nhận chịu thiệt khoảng 2.000 tỉ đồng, bùng lên, Thành ủy TP.HCM đã chỉ đạo Công ty Đầu tư Xây dựng Tân Thuận hủy hợp đồng này. Cho dù chỉ đạo của Thành ủy TP.HCM bị chỉ trích là vi phạm pháp luật, xâm hại quyền tự do kết ước, tự do kinh doanh nhưng không có cơ quan bảo vệ pháp luật nào lên tiếng. Cũng năm ngoái, khi Thanh tra TP.HCM phát giác Sadeco bán rẻ cổ phiếu cho Công ty Nguyễn Kim, khi ông Dũng chỉ đạo Sadeco tổ chức đại hội đồng cổ đông bất thường để thông qua quyết định thu hồi lại số cổ phiếu này từ Công ty Nguyễn Kim, chỉ đạo đó của ông Dũng bị cáo buộc là “xem thường kỷ luật, kỷ cương, có dấu hiệu đối phó, gây trở ngại cho hoạt động thanh tra…” Ông Dũng bị đình chỉ công tác ngay lập tức (7). *** Ở một quốc gia luôn ra rả “sống và làm việc theo pháp luật”, tại sao lại có tình trạng “hên – xui”, rạch ròi… “bên trọng – bên khinh” kiểu đó? Nếu “số phận chính trị”, “sự nghiệp chính trị” của các viên chức không phụ thuộc vào chuyện có thượng tôn pháp luật, có hội đủ cả tư cách lẫn năng lực hay không (?), mà sáng hoặc tối, trở thành hữu công hay có tội, hoàn toàn phụ thuộc vào tương quan giữa thế và lực của các anh từ Hai tới Út, cũng như các thỏa thuận thế thân thì chỉnh đốn có khác gì loạn đả giữa các băng du đãng giành quyền bảo kê? Chú thích (1) https://laodong.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/ong-te-tri-dung-len-nhu-dieu-gap-gio-o-tuoi-22-va-nga-ngua-o-tuoi-38-733434.ldo (2) https://tuoitre.vn/tai-sao-ong-te-tri-dung-bi-bat-2019051422465966.htm (3) https://tuoitre.vn/hai-nam-ong-te-tri-dung-di-nuoc-ngoai-106-ngay-de-lam-gi-20190515100250503.htm (4) https://www.tienphong.vn/dia-oc/kiem-toan-phanh-phui-24-khu-dat-cua-tong-cong-ty-sagri-1329114.tpo (5) https://tuoitre.vn/sai-pham-tai-sagri-ky-luat-canh-cao-ong-le-tan-hung-20181103085740605.htm (6) https://thanhnien.vn/thoi-su/ong-le-tan-hung-bi-canh-cao-ve-mat-dang-1042654.html (7) https://tuoitre.vn/ong-te-tri-dung-ngang-chan-thanh-tra-vu-ban-9-trieu-co-phieu-ra-sao-20190515113839527.htm  
......

Ai Mới Là Người Bắt Ông Ba Dũng?

Phạm Thành “Anh Hùng Đoán Giữa Trần Ai Mới Tài”. Bài này có trên Youtube Hội anh em dân chủ khoảng 3 tuần và đã có 100 ngàn lượt nghe. Nay tôi đưa lại dưới dạng văn bản. I. Ông Nguyễn Phú Trọng? Từ tướng mạo của ông Trọng, tôi có thể khẳng định (như nhiều bạn bè của ông Trọng khẳng định), ông Trọng là một người không thông minh, có tính nhút nhát, rất sợ bạo lực. (Ông Trọng giả điếc trốn bộ đội là một chi tiết để chứng minh). Nếu so các bạn học cùng trang lứa, tôi tin, ông Trọng chưa/ không bao giờ là học sinh xuất sắc. Ông bao giờ cũng chỉ trong tốp học trung bình khá là cùng, cả môn tự nhiên và môn xã hội. Nguyễn Phú Trọng cũng không phải người ác, tham tiền tài, danh vọng đến mức như chức của ông ta đang giữ như hiện nay, khi đã ở vào tuổi 75. Không những không có tham vọng lớn, ông Trọng còn là một người thích yên thân, không có chí làm chuyện lớn. Giá như ông Trọng học xong, ra trường, về vùng Đông Anh dạy học, thì chắc chắn ông Trọng về hưu với chức hiệu trưởng một trường trung học, tương đương cấp III ngày xưa, là ông Trọng đã hài lòng rồi. Cái tham danh vọng mọi thứ, trong đó có quyền lực, chỉ được thắp lên trong tâm tính của ông Trọng khi ông Trọng có quyền và có người đẩy đít ông Trọng lên. Nói trắng ra, cái chức ông Trọng có, trước đây, là do bản tính hiền lành, trung dung trong các mối quan hệ mà có. Tính cách đó, đã đưa ông Trọng lên tới chức tổng biên tập Tạp chí cộng sản. Rồi rừ đó, do tố chức đảng cộng sản chỉ cần đến cái đức tính trung thành, nên ông được đấy lên đến chức chủ tịch Quốc Hội. Từ chức chủ tịch quốc hội, nhờ đức trung thành, nhờ nhát gan, và nhờ cả sự lú lẫn, mà ông đã được Tàu Cộng đưa lên làm tổng bí thư và kéo dài chức TBT cho đến ngày 14.04.2019, tức trong 6 năm, khi ông gặp tai nạn ở Kiên Giang. Mặc dù những việc ông làm hiện nay là do Tàu Cộng lên kế họach. Nhưng với những đức tính như nêu trên, mặc dù có tính thù dai, nhưng ông Trọng vẫn không bắt ông Ba Dũng. Và có thể nói, đến thời điểm này, ông Trọng vĩnh viễn không còn khả năng bắt ông Ba Dũng nữa. II. Ông Nguyễn Xuân Phúc? Vậy, ông Phúc có thể là người bắt ông Ba Dũng chăng? Ông Phúc cũng không bắt ông Ba Dũng. Vì ông Phúc không phải là người xảo trá. Bản tính của ông Phúc giống bản tính của anh hề bồi. Khi làm thuộc hạ, cấp trên bảo gì cũng dạ, vâng. Nếu được phân công chăm lo cái phần “lương thực, thực phẩm” thì rất hợp với sở trường của ông Phúc. Vì bản tính như anh hề bồi, nên gặp vận may “cờ đến tay” thì anh phất và đương nhiên là anh phải phất lia lịa, không kể ở trong nước hay nước ngoài. Anh cũng không phải là con người có tâm ác độc. Đánh ai, hay giết ai, anh cũng chỉ biểu diễn như phương hề chèo đâm chém nhau, giết nhau trên sân khấu. Còn về sự thông minh của anh cũng rất hề bồi. Anh luôn thích phô diễn cái đầu của anh, phải như cái đầu tàu, kéo phăng phăng đất nước Việt Nam: khi thì tiến lên phía Bắc, khi thì tiến ngang về phía Nam, khi thì tiến ngược lên phía Tây, khi thì vượt biển, tiến về phía Đông, với quyết tâm lúc nào nước Việt Nam cũng phải ở ví trí thứ nhất. Tất nhiên, khi anh kéo một thôi, một hồi, đến vả cả mồ hôi ra, anh mới ngoái đầu nhìn lại, thấy cái con tầu Việt Nam đang đứng ở thứ nhất thật, tính từ dưới lên, anh cũng thích chí, vỗ đít mà sung sướng lên rằng: “con cẹc, cũng là thứ nhất, chứ bộ”. Tóm lại, ông Phúc cũng không bắt Ba Dũng. Ông Trọng, ông Phúc không bắt ông Ba Dũng, vậy ông Dũng thoát nạn sao? III.Ông Trần Quốc Vượng. Không. Ông Ba Dũng vẫn bị bắt. Người bắt ông Ba Dũng nhất định là ông Trần Quốc Vượng. Hãy nhìn kỹ bộ mặt của ông Vượng. Đó là khuôn mặt có nét chữ Điền với các thớ mặt, đường vân như thớ mặt, đường gân của một thớt gỗ nghiến già; có nét dũng bạo liệt thay cho trí tuệ và nhân ái; có nét lấy áp đặt thay cho thuyết phục; có nét thích làm nhiều hơn nói. Đặc biệt, trên khuôn mặt ông Vượng, có sở hữu một đôi mắt của cú và mèo đang rình mồi. Hai con ngươi đen, nhưng nhỏ, luôn phát ra tia lửa sang xanh lét lạnh lùng, cùng hai cái tai lộn ngược về phía sau, hòa tấu cho ánh mắt sắc như một đường gươm, chỉ cần có mục tiêu là hành sự, cấm có lộn đi đâu cho đươc. Ác hơn nữa, hai cặp môi dày, đặc biệt là môi dưới, to dầy như con đỉa trâu hút máu đã no nê, cũng lộ rành rành ra, cơn khát tham vọng, lúc nào cũng bùng cháy. Ngoài ra, trên gương mặt của ông Vượng không còn gì khác lộ ra để có thể hạn chế những đặc điểm trên. Rõ rành rành, ông Vượng mang một khuôn mặt của một con người có đầy tham vọng về mọi thứ, từ quyền lực, tiền tài, nổi tiếng, với một tâm thế và ý chí: bất cần nhân ái, bất cần tai tiếng, bất cần lo lắng đến di họa về sau. Trong một thế cờ đã được Tàu Cộng tính toán, xếp đặt từ lâu, Trần Quốc Vượng đương nhiên sẽ giữ chức TBT kiêm chủ tịch nước vào một ngày tới đây; và Ba Dũng sẽ là vật hiến tế, đủ cân, đủ lạng cho tham vọng quyền lực và khẳng định quyền lực của Trần Quốc Vượng trong thời kỳ mạt sản này. Thời gian ông Vượng bắt ông Ba Dũng có thể diễn ra trước và ngay sau khi ông ta nắm giữ chức Tổng Bí Thư kiêm chủ tích nước. Chỉ cần, trong một lúc xỉa răng nào đó, trên miệng ông Trần Quốc Vượng bỗng nhiêm lẩm nhẩm: “Ba Dũng ư?”. “Không ai dám bắt ư?”. “Bắt”. Thế là Ba Dũng sẽ vào rọ. Thật khó mà thoát cửa tử phen này, Ba Dũng ơi, khi Trần Quốc Vượng chấp chính quyền lực cộng sản. Theo Ba Dũng, khả năng sẽ có rất nhiều người bị bắt trong giai đoạn này, trong đó có Bà Đầm Xòe Phạm Thành./.
......

Ông Nguyễn Xuân Phúc phải giữ lời “đóng cửa Formosa”

Quỳnh Hương - Web Việt Tân Ngày 6 tháng Năm, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin Công an môi trường Hà Tĩnh “bó tay” với hàng triệu tấn chất thải của công ty gang thép Formosa. Sự kiện này được cộng đồng mạng nhanh chóng chia sẻ và gây nhiều phẫn nộ nơi người dân khiến nhà cầm quyền CSVN hoảng hốt, buộc các tờ báo điện tử phải gỡ xuống ngay tức khắc. Điều này cho thấy là nhà cầm quyền CSVN rất lo ngại làn sóng chống đối Formosa bùng nổ trở lại. Theo báo cáo của Công an Hà Tĩnh thì Formosa đang thải ra 14 nhóm chất thải với danh mục của hàng nghìn tên chất thải khác nhau… vượt ngưỡng, và Formosa không cung cấp cho cơ quan chức năng theo dõi, quản lý. Theo văn thư của công an, mỗi năm Formosa thải ra một khối lượng chất thải rắn là gần 4 triệu tấn. Để độc giả dễ hình dung, 4 triệu tấn tương đương với một khối có chiều ngang, dọc là 200 mét (2 lần chiều dài của một sân banh) và cao 100 mét (chiều cao của một tòa nhà 33 tầng). Trong 3 năm qua, Formosa đã thải ra ít nhất (vì đó chỉ là báo cáo chính thức, mà sự thật phải nhiều hơn mà người dân không được biết) là gấp 3 lần khối chất thải khổng lồ như tả ở trên đã đi vào lòng đất và biển ở Hà Tĩnh. Và nạn xả thải vẫn đang tiếp diễn. Formosa Hà Tĩnh là một dự án có mức đầu tư cam kết lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay. Nó có tổng vốn đầu tư dự kiến lên tới 28 tỷ USD, có nhà máy sản xuất gang thép có công suất 22,5 triệu tấn/năm. Formosa được ký hợp đồng thuê đất đến 70 năm, với mức tiền thuê đất chỉ vỏn vẹn 96 tỷ VND. Dự án có tổng diện tích đất và mặt nước tới 3.300 ha. Thuế thu nhập chỉ là 10%. Ngoài ra Formosa còn được miễn thuế thu nhập trong bốn năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo, được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, thuế tài nguyên. Báo cáo môi trường quốc gia 2016 của Bộ Tài Nguyên – Môi Trường đánh giá sự cố môi trường biển miền Trung do nước thải công nghiệp của Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh được xếp đứng đầu danh sách các công ty gây ô nhiễm. Ngày 4 tháng Tư, 2016, một ngư dân ở Vũng Áng chuyên hành nghề lặn biển phát hiện thấy đường ống xả thải khổng lồ chôn ngầm dưới vịnh của Formosa, sau đó là cá bắt đầu chết trên diện rộng, khởi đầu từ Hà Tĩnh và lan dần ra Quảng Bình, Quảng Trị và đến Thừa Thiên− Huế. Điều này đã kéo theo những cuộc biểu tình cháy đỏ khắp cả nước, đặc biệt ở 2 thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Những người dám xuống đường lúc đó phải đối mặt với cơn thịnh nộ từ phía chính quyền, cụ thể hơn là chịu sự bạo lực, sự đàn áp không nương tay của lực lượng công an – dân phòng/dân quân tự vệ và đương nhiên, máu người dân đã đổ. Cũng không thể không nhắc tới những số phận vì việc này phải đi tù – anh Hoàng Bình, Nguyễn Văn Hóa,  ông Lê Đình Lượng, v.v. Số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn, trên 17.600 tàu cá và gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực tiếp. Trên 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng theo. Do không thể đánh bắt trong phạm vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90% tàu lắp máy công suất thấp và gần 4.000 tàu không lắp máy đã phải nằm bờ. Sản lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng. Với hoạt động nuôi trồng thủy sản, có 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại. Về lâu dài, do các rạn san hô, phù du sinh vật cũng chết nên có nguy cơ làm gián đoạn chuỗi thức ăn biển, khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản khu vực, ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài của dân. Theo ông Nguyễn Xuân Phúc, sự cố này gây ra đã gây thiệt hại 0,3% GDP của Việt Nam. Từ đầu năm 2016, Formosa đã nhập 297 tấn hoá chất độc hại để phục vụ thi công và súc rửa đường ống để chuẩn bị cho giai đoạn vận hành. Có hàng trăm tấn hóa chất cực độc phục vụ súc xả đường ống đã được Formosa nhập khẩu và sử dụng mà không hề thông báo cho cơ quan quản lý tại địa phương theo luật định. Chiều ngày 29 tháng Sáu năm 2016, tại trụ sở Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, gần 50 đại diện các bộ, ngành cùng các nhà khoa học đã chứng kiến Formosa nhận lỗi, cam kết các trách nhiệm liên quan đến xử lý ô nhiễm, bồi thường kinh tế cho người dân vùng cá chết. Mức bồi thường 500 triệu USD cho cả 3 vấn đề: 1) thiệt hại của người dân; 2) hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp; và 3) phục hồi môi trường biển. Số tiền bồi thường thật là nhỏ nhoi, ngay cả nếu chỉ so với dân số của 4 tỉnh bị ảnh hưởng chính là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên−Huế là gần 4 triệu người. Trong đó, số ngư dân đánh bắt cá biển và người nuôi trồng thuỷ sản ven biển xấp xỉ 1 triệu người; số người làm dịch vụ du lịch, chế biến thuỷ hải sản, xuất khẩu cũng cỡ vài chục ngàn người. Tính ra bồi thường sinh kế bình quân cho mỗi đầu người chỉ khoảng 125- 130 USD cho gần 4 tháng xảy ra thảm hoạ. Nghĩa là mỗi tháng mỗi người dân được đền bù khoảng 1 triệu đồng. Chưa đến một tháng sau, ngày 23 tháng Bảy 2016, báo chí trong nước loan tải thông tin các cơ quan chức trách đã phát hiện 8 điểm chôn lấp và xử lý chất thải của Formosa Hà Tĩnh tại nhiều khu vực thuộc tỉnh Hà tĩnh. Theo báo cáo của Sở Tài Nguyên – Môi Trường tỉnh Hà Tĩnh lúc đó  thì khi kiểm tra chứng từ xuất kho cho thấy số lượng chất thải của Formosa Hà Tĩnh đã đưa ra khỏi nhà máy lên đến 267 tấn. Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm và làm việc tại Cty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh hôm 24/7/2017. Ảnh: TPO/TTXVN. Hôm 24 tháng Bảy 2017, tại buổi thị sát khu liên hợp gang thép của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS) và làm việc với FHS, lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh và các bộ, ngành liên quan, ông Nguyễn Xuân Phúc nói rằng “Không an toàn thì không được sản xuất; nếu vi phạm trở lại thì phải đóng cửa nhà máy. Việc nâng công suất nhà máy phải đi liền với bảo vệ môi trường.” Ngày 6 tháng Năm, 2019 Formosa lại tái phạm với hàng triệu tấn chất thải rắn, một bằng chứng cho thấy những kẻ bảo kê cho Formosa đã nhúng tay vào tội ác với nhân dân Việt Nam, tàn phá môi trường sống của người Việt Nam. Điều đặc biệt ở đây là cảnh sát môi trường phải ‘bó tay’ với hàng triệu tấn chất thải ấy ngay trên lãnh thổ của mình. Vậy thì đứng trước sự việc hơn 3,5 triệu tấn bùn thài này, ông Phúc phải thực hiện điều đã hứa là “đóng cửa Formosa ngay tức khắc nếu tái phạm.” Sự kiện cảnh sát môi trường Hà Tĩnh bó tay ngay trên vùng đất quản lý của mình đối với một công ty có bóng dáng rất lớn của Trung Cộng ở phía sau thì việc Hà Tĩnh rơi vào vùng chi phối của Tàu ngày càng quá rõ ràng. Nói cách khác, Trung Cộng rất gian manh trong những thủ đoạn bành trướng và nếu Hà Tĩnh đã bị Trung Cộng chi phối thì đất nước Việt Nam không bao giờ “thoát trung” nổi. Công an Hà Tĩnh thì bó tay, lãnh đạo trung ương, nhất là Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thì bị mua chuộc, vậy chúng ta còn trông chờ điều gì ở chính phủ Nguyễn Xuân Phúc? Chẳng lẽ cả dân tộc ta đành bó tay đứng nhìn tập đoàn Formosa hủy hoại đất nước mình hay sao? Chúng ta phải tiếp tục xuống đường cho đến khi Formosa đóng cửa. Quỳnh Hương Phải đóng cửa vĩnh viễn Formosa Hà Tĩnh Formosa: Thủ phạm đã rành rành, đừng lòng vòng nữa! Ai bao che cho Formosa?
......

THỦ TỤC ÔNG CỐ NỘI LUẬT PHÁP

Trước các thông tin tù nhân được phóng thích như trường hợp ông Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), ông Cù Huy Hà Vũ, luật sư Nguyễn Văn Đài, cô Lê Thu Hà, cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) … chúng ta có bao giờ đặt dấu hỏi họ đã được trả tự do, thoát tình cảnh câu thúc thân thể theo thủ tục pháp luật nào ? Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày Câu giải thích thường nghe từ chính quyền cho các trường hợp phóng thích là vì lý do nhân đạo ! Rõ ràng, câu giải thích này chỉ đề cặp về tính chất sự việc chứ không nêu được cơ sở pháp lý nào cho những hành vi phóng thích tù nhân ! Với các tù nhân thông thường, sau khi mãn hạn tù, họ được trả tự do và mặc nhiên không còn bị xem là tội phạm nữa. Nhưng với các trường hợp vừa kể trên, từ tình cảnh đang thụ án với tư cách là phạm nhân tại trại giam, họ được phóng thích đưa đi xuất cảnh như là một cách miễn chấp hành hình phạt. Điều đáng nói là họ không được xóa bỏ tư cách tội phạm tại VN, nơi kết án họ. Bởi lẽ đơn giản, bản án kết tội họ vẫn còn hiệu lực pháp luật ! Nếu họ cần lập lý lịch tư pháp, chắc chắn rằng trong mục nhân thân vẫn phải ghi nhận họ là người đã có tiền án, tiền sự và đang thụ án. Cù Huy Hà Vũ Đối với những người được phóng thích, họ chỉ có thể phục hồi đầy đủ tư cách công dân và được coi là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự khi mà đi đôi với việc phóng thích, thì bản án kết tội họ phải được hủy bằng thủ tục giám đốc thẩm, hoặc tái thẩm từ một phán quyết của toà án cấp có thẩm quyền. Trở lại câu hỏi về cơ sở pháp lý của việc phóng thích tù nhân, ta có thể có câu trả lời khá bất ngờ : Không có cơ sở pháp lý nào cả. Vì lẽ, không có một quy định nào cho phép việc chính quyền phóng thích, tha bổng một người đang thụ án cả. Phóng thích, tha bổng hay miễn chấp hành hình phạt không phải là một thủ tục tố tụng mà là một hành vi phi tố tụng, không chỉ thế, phi luật pháp. Thuần túy, nó là một hành vi phát sinh từ các động cơ chính trị mà có. Nếu được phép đặt tên, ta sẽ gọi thủ tục đó bằng hỗn danh “Ông cố nội luật pháp”. Theo quy định tố tụng, duy nhất chỉ có một trường hợp cơ quan hành pháp được quyền thay đổi phán quyết của tòa án là ân xá một phạm nhân bị tuyên án từ hình phạt tử hình chuyển thành hình phạt chung thân mà thôi. Thế nhưng, qua việc phóng thích tù nhân hoặc tha bổng, miễn chấp hành hình phạt cho thấy một thực tế phi pháp lý hiện nay, rằng với những tác động chính trị thì cơ quan hành pháp có thể vượt thẩm quyền luật định để thay đổi, thậm chí, đình chỉ vĩnh viễn hiệu lực phán quyết tài phán. ông Trịnh Vĩnh Bình Trong trường hợp khác nổi tiếng đối với ông Trịnh Vĩnh Bình. Công chúng có dịp chứng kiến sự phân tranh công lý giữa hai bản án. Một bản án trong nước vẫn còn nguyên hiệu lực có nội dung phán quyết rằng ông Trịnh Vĩnh Bình là một tội phạm hình sự và một bản án khác của cơ quan tài phán quốc tế có nội dung phủ nhận hoàn toàn bản án trong nước. Trong đó, còn quy định cả khoản bồi thường mà chính phủ Việt Nam phải gánh chịu. Với sự phân tranh công lý của hai bản án, thì bản án của cơ quan tài phán quốc tế đã chiếm thế thượng phong với khả năng bủa vây tài sản của chính phủ VN để bảo đảm thi hành án. Mọi toan tính "xù" thi hành án trong phạm vi đối với quốc tế là bất khả thi. Trong khi đó, bản án trong nước đành chịu phận lép vế vì hầu như không có khả năng buộc ông Trịnh Vĩnh Bình phải thụ án tù giam. Giả thiết thú vị về vấn đề pháp lý được đặt ra. Khi các vị đã từng được phóng thích như : Ông Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), ông Cù Huy Hà Vũ, luật sư Nguyễn Văn Đài, cô Lê Thu Hà, cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) hay cả ông Trịnh Vĩnh Bình … trở về VN thăm quê hương, sinh sống, thì chính quyền sẽ hành xử như thế nào với họ ? Có thể buộc họ tiếp tục chấp hành hình phạt ? Có thể cấp lại Căn cước công dân cho họ ? Có thể để họ thực hiện quyền bầu cử, ứng cử các cơ quan dân cử ... trong hoàn cảnh khi mà họ vẫn bị coi là tội phạm hình sự vì bản án tuyên họ phạm tội vẫn còn tồn tại nguyên vẹn về phương diện hiệu lực pháp lý. Tuy vậy, đã có một “án lệ” điển hình mang tính cách tham khảo là trường hợp của cô Lê Thu Hà (nhóm Hội Anh Em Dân Chủ). Cô bị tuyên án và được phóng thích xuất cảnh đi Đức vào thượng tuần tháng 06/2018, đến tháng 11/2018 thì cô trở về VN và không được chính quyền VN cho phép nhập cảnh, mặc dù, về phương diện pháp lý thì cô Hà vẫn là công dân VN. Buộc lòng, cô phải trở lại Đức và sinh sống tại đó cho đến nay !? Việc từ chối cho chính công dân VN nhập cảnh vào VN là đi ngược lại với quyền hiến định của công dân. Nói khác, đó cũng lại là một thủ tục thuộc loại “Ông cố nội luật pháp” trong vô số các “Ông cố nội luật pháp” đang tồn tại song hành cùng với luật pháp thành văn do quốc hội ban hành. Trước thực tế đó, việc cần bổ cứu, luật hóa vấn đề để bảo đảm nguyên tắc nhà nước pháp quyền, rằng mọi hành xử của chính quyền đều dựa trên cơ sở pháp lý cũng là một giải pháp khá nan giải. Bởi lẽ, sự luật hóa vấn đề có tính chất ưu quyền cũng vô hình chung phủ nhận nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Thế nên, trong hoàn cảnh đó, bộ mặt hoàn chỉnh của luật pháp xứ này chỉ có thể đầy đủ khi mà sự liệt kê phải nhất thiết bảo đảm bao gồm các “Ông cố nội luật pháp” : Hiến pháp, bộ luật, luật, nghị định, thông tư, quyết định và ông cố nội luật pháp. Trong đó, ông cố nội luật pháp có vị trí ngang bằng, hoặc thậm chí, cao hơn hiến pháp. Manh Dang
......

Viết Cho Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình

Phạm Minh Hoàng| Thế là sau nhiều ngày thấp thỏm chở đợi, việc gì đến đã phải đến với Văn phòng Công Lý và Hòa Bình (gọi tắt là Văn Phòng). Mọi người chắc sẽ mãi không quên hình ảnh của sáng ngày 15/5/2019, khi linh mục Lê Xuân Lôc đóng cửa VP lần cuối. Cha vẫn giữ trên môi một nụ cười, nhưng ai cũng biết đấy là nụ cười tiễn biệt. Lùi về quá khứ trước đó 6 năm, vào ngày 24/3/2013, trong một buổi tiệc đơn giàn các cha Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) Sàigòn tại số 38 Kỳ Đồng đã cho khánh thành VP trong khuôn viên nhà thờ. Cha Đinh Hữu Thoại đã trình bày lý do ra đời của VP :"Nhìn thấy cảnh dân oan đi khiếu kiện lâu năm và họ là những người dân nghèo khổ khắp nơi trên đất nước VN này khiến chúng tôi chạnh lòng, không yên. Vì thế, chúng tôi, các linh mục, tu sĩ DCCT quyết định thành lập “Phòng Công Lý và Hòa Bình” hướng dẫn người dân biết bảo vệ những quyền của mình, mà chúng ta gọi là quyền con người". Kể từ ngày ấy VP là địa điểm nhiều dân oan ở khắp nơi − đặc biệt là các tỉnh miền Tây − đổ về xin giúp đỡ. Họ ngồi la liệt đầy ngoài sân, phần lớn là phụ nữ lớn tuổi. Ngoài việc hướng dẫn pháp luật cho dân oan, thỉnh thoảng chúng tôi còn thấy các tổ chức xã hội dân sự đến phát quà cho họ, mua cơm trưa, chỉ đường ra bến xe… Thú thật, lắm khi tôi có cảm tưởng khó khăn sẽ vượt ra ngoài khả năng của VP. Không phải là vì các Cha không đủ nhân lực, nhưng kẻ ra gây ra những oan khiên này chính là nhà cầm quyền, họ cũng không để yên cho VP ra tay trợ giúp những dân oan này. Tôi còn nhớ, trong những ngày tiếp dân oan, an nình chìm nổi len lỏi vào trong khuôn viên nhà thờ để dò la, theo dõi, nhận diện dân oan cũng như tình nguyện viên. Đó là chưa kể những "ánh mắt mang hình viên đạn" của một số người trong nhà thờ không đồng ý với sự hiện diện của những kẻ khố rách áo ôm trong khuôn viên vốn yên tĩnh và trang nghiêm của giáo xứ. Sau hơn một năm hoạt động, dân oan từ từ thưa vắng. Thưa vắng không phải vì oan khiên đã hết, nhưng bởi vì nhà cầm quyền ra sức ngăn cản họ đến đây xin trợ giúp. Có dạo chính phủ đã ra quyết định địa phương nào có dân oan lên Sàigòn hoặc Hà Nội kiện tụng, phải có trách nhiệm mang xe lên "rước" về. Rước về để làm gì thì có trời mới biết. Cha Thoại kể "sự đánh phá chính yếu của an ninh, công an CSVN là nhắm vào dân oan. Rất nhiều dân oan bị đe dọa, sách nhiễu khi đến nhờ chúng tôi hướng dẫn và lên tiếng cho họ. Có những trường hợp vì sợ nên không dám đến". Song song với việc giúp đỡ dân oan về pháp lý, đến khoảng đầu năm 2014, VP bắt đầu một chương trình còn quy mô hơn rất nhiều lần, đó là trợ giúp cho các ông thương phế binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (TPB). Linh mục Giám tỉnh DCCT Phạm Trung Thành cho biết :“Đối với cá nhân tôi, tôi lớn lên trong cùng thế hệ với anh em thương phế binh. Tuổi trẻ của chúng tôi đã đi qua chiến tranh, đi qua mất mát đau khổ và tôi biết anh em là những người chịu thiệt thòi rất nhiều trong những năm qua vì hoàn cảnh. Chúng tôi tổ chức cuộc họp mặt này như gửi đến anh em một sứ điệp là tuy đau khổ còn đó nhưng Chúa phục sinh sẽ mang lại niềm vui bởi tình yêu thương và sự chia sẻ với nhau. Thứ hai nữa là anh em chúng mình những người có điều kiện tốt hơn phải công bằng với những anh em đã bị mất mát quá nhiều. Phải càng ngày càng gần nhau hơn trong tình thương, gần nhau hơn trong sự đoàn kết để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.”. Cụ thể, các ông TPB được mời đến để kiểm tra sức khỏe (chụp hình phổi, xét nghiệm máu, siêu âm…). Sau khi có kết quả, các bác sĩ khám bệnh và cho thuốc. Các Cha DCCT đã huy động hàng chục phòng xét nghiệm trong khu vực, hàng chục bác sĩ, y tá và hàng trăm tình nguyện viên phục vụ cho công tác này. Có những lần gần 500 ông TPB tới trong một buổi, các Cha phải dùng nguyên một tầng của giáo xứ để phục vụ khám bệnh và ăn uống cho các ông. Con số TPB ghi danh từ 500 ban đầu đã lên đến hơn 7000 vào đầu năm 2019. Ngoài việc khám bệnh VP còn đến tận nơi xây nhà cho các ông và lo hậu sự khi các ông nhắm mắt lìa đời. Công việc gian khó nhưng nhờ vào lòng quyết tâm của mọi người, mọi chuyện dần đi vào nề nếp. Ở đây ta cũng không quên đồng bào khắp nơi, trong lẫn ngoài nước đã đồng tâm hiệp lực với VP để tiếp tục nuôi dưỡng việc làm nhân bản này. Linh mục Nguyễn Ngọc Bích, người đã có quyết định khai tử Phòng Công Lý Hòa bình. Năm 2015, DCCT bầu ra một vị Giám tỉnh mới − Cha Nguyễn Ngọc Bích − và kể từ giờ phút này mọi việc đi vào một "nề nếp mới". Những sinh hoạt thường xuyên của nhà thờ hướng về đất nước như các buổi thánh lễ cho Công Lý và Hòa Bình vốn được tổ chức vào mỗi chúa nhật cuối tháng thưa dần, các chương trình phát thanh dần bị xóa sổ, các cha phụ trách VP "được" điều đi các địa phương khác, thường là những nơi xa xôi, hẻo lánh. Có làm việc trong những "điều kiện mới" này, tôi mới cảm nhận được sự bền chí, nhẫn nại và chịu đựng của cả VP, từ các cha đến các tình nguyện viên. Chương trình TPB cũng bắt buộc phải điều chỉnh cho phù hợp và vì thế trong suốt 4 năm sau đó, với chủ trương "liệu cơm gắp mắm", công việc vẫn được tiếp tục trong những điều kiện hạn hẹp hơn. Cuối năm 2018, Cha Bích tái đắc cử, và những "nề nếp mới" được điều chỉnh cho ngày "một mới hơn". Những "ánh mắt mang hình viên đạn" ngày một sắc nét hơn. Và sau nhiều chi tiết không tiện nêu lên đây − chuyện phải đến đã đến. Cha Trương Hoàng Vũ nhận lệnh rời Sàigòn, vài ngày sau VP được lệnh giải tán. Ngày 14/5, các tình nguyện viên thu dọn đồ đạc, sáng 15/5 linh mục độc nhất còn lại, Cha Lộc khép lại cánh cửa sắt của VP lần cuối. Tác giả Phạm Minh Hoàng đang cầm đàn, là một trong những thiện nguyện viên trong những buổi giúp Thương Phế Binh Tôi viết đến đây mà ngỡ như mình đang viết về những ngày cuối cùng của tháng 4/75. Cánh cửa sắt vẫn còn đấy mà tôi có cảm giác như xe tăng quân "giải phóng" đang ủi sập. Nghe nó chua chát làm sao ! Chuyện gì đã đưa đến việc Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình phải đóng cửa trong sự ngỡ ngàng của mọi người ? Tôi xin đưa mọi người đi xa, đi thật xa hàng ngàn cây số để tìm hiểu. Chúng ta đến Vatican. Đối với giáo dân Công giáo, Vatican là một thánh địa, nơi người đứng đầu Giáo hội là Đức Giáo hoàng làm việc. Tuy nhiên dưới khía cạnh pháp lý, Vatican là một quốc gia, và cũng như mọi quốc gia khác, bang giao của Vatican với Việt Nam là bang giao giữa hai quốc gia, cũng có đại sứ, cũng có hợp tác bình thường, Tuy nhiên, cộng sản nói chung vẫn coi tôn giáo như một mối nguy tiềm tàng và họ dùng đủ mọi phương cách để triệt tiêu hay nói đúng hơn là phải quy phục họ. Ủy Ban Đoàn kết Công giáo được nhào nặn lên trong mục đích này, và đối với những phần tử "ngoan cố" không chấp nhận sự quy phục này, nhà nước cộng sản sẽ sử dụng đến "ngón bài ngoại giao". Kể từ năm 1975, bất kỳ một thay đổi nhân sự nào trong Giáo hội Công giáo VN đều phải có sự chấp thuận của nhà nước. Tôi muốn nói đến việc tấn phong các linh mục (các cha). Lên đến hàng giám mục thì lại càng khắt khe hơn. Ở nhiều địa phương, vì nhu cầu truyền giáo, Giáo hội đã phảì "lén" tấn phong nhiều linh mục vì trước đó nhà nước đã không đồng ý. Những linh mục này dĩ nhiên không được phép làm việc một cách công khai. Và điều oái oăm là một trong những vị "tấn phong chui" lại chính là Cha Nguyễn Ngọc Bích, người đang đứng đầu DCCT ! Sự can thiệp vào việc tấn phong chức danh này dĩ nhiên tạo khó khăn cho công việc truyền giáo, và đến lúc này thì "ngón bài ngoại giao" sẽ tác dụng. Nhà nước sẽ cử người xuống các giáo xứ, thuyết phục các linh mục chấp nhận những đòi hỏi của họ, chẳng hạn như không tổ chức xuống đường phản đối Formosa, không trả lời phỏng vấn báo đài, ngược lại nên tham gia và các hoạt động do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, hoặc tích cực hơn, là trở thành thành viên của Mặt trận này. Thậm chí nếu có một cuộc tuyển cử trong nội bộ Giáo hội, nhà nước còn có thể "khuyến cáo" các linh mục dồn phiều cho một ứng viên "dễ bảo" nào đó. Để đổi lại, nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện dễ dàng trong việc truyền đạo cũng như mọi sinh hoạt khác trong đó dĩ nhiên sẽ có việc tấn phong linh mục. Đến đây mọi người có lẽ đã hiểu cụm từ "ngón bài ngoại giao" mà tôi đang dùng. Bởi vì nếu việc tấn phong các chức danh trong giáo hội được dễ dàng thì đó là bang giao giữa VN và Vatican đang tốt đẹp. VN hưởng lợi thì dễ hiểu, nhưng Vatican cũng có lợi vì việc truyền giáo không còn bị khó khăn. "Ngón bài", nói trắng ra là thủ đoạn này đã được sử dụng rộng rãi trong các nước độc tài, đặc biệt là tại Trung quốc, nơi mà Công giáo chiếm con số rất nhỏ. Phóng viên của báo Figaro của Pháp đã lặn lội vào huyện Mân Đông nằm trong tình Phúc Kiến, nơi này có 80.000 giáo dân sinh sống. Đại đa số họ vẫn tuân phục Vatican cũng như các linh mục mà họ yêu mến, đồng thời tẩy chay Giáo hội do nhà nước nặn lên từ năm 1957 (kiểu Ủy Ban Đoàn kết Công giáo ở VN). Nhưng cách đây vài năm, Bắc Kinh đã đồng ý cho Vatican tấn phong một vài giám mục, để đổi lại Vatican phải công nhận 7 giám mục khác do Bắc Kinh…phong lén ! Tệ hơn, các giám mục "phong lậu" này sẽ chiếm chỗ của các giám mục do Vatican tấn phong trước đó. Giáo dân Mân Đông ban đầu cảm thấy bất mãn, nhưng "để lâu cứt trâu hóa bùn", và bây giờ họ tự an ủi rằng "Giáo xứ thuộc cha nào cũng được, miễn là họ được đi lễ". Kể từ đó, mọi chuyện vào "nề nếp mới" ! Nhà nước Trung quốc muốn tung hoành cái gì cũng đưọc, vì những lãnh đạo tinh thần bây giờ đều nằm trong tay họ cả. Thủ đoạn thâm nhập đánh phá Công giáo vốn là ngón sở trường của cộng sản và nó còn xảy ra ngay trong một nước trong đó Công giáo là quốc giáo như Ba Lan với vụ ở Czestochowa hồi thập niên 50. Nếu ai có khả năng ngoại ngữ, có thể tìm đọc lời tự thú của Bella Dodd nguyên là lãnh đạo đảng cộng sản Mỹ hoặc những phóng sự của nhà báo Đan Mạch Iben Thranholm, của các linh mục Mỹ là Michael và Peter Dimond, hay của các nhà báo Pháp là Thierry Wolton và Stéphane Courtois. Trở lại với DCCT, những tin tức sau cùng cho hay VP Công Lý và Hòa Bình sẽ được đồi tên thành Phòng Phát triển Con người Toàn diện, chương trình TPB sẽ được tiếp tục với "phưong cách và nhân sự mới". Tôi ước mong rằng đây sẽ là sự thật. Tuy nhiên, tôi lại nghĩ rằng, với sự hỗ trợ của nhà nước, "phương cách và nhân sự" của ban lãnh đạo DCCT sẽ dồi dào gấp trăm lần trước đây, nhưng sự khả thi thì không mấy bảo đảm vì để làm được việc này, điều cần thiết hơn cả là tấm lòng yêu thương đối với những người gần 50 năm sống trong cô đơn, nghèo đói, bệnh tật và sự khinh miệt của nhà cầm quyền cộng sản. Và đó lại chính là cái thiếu của những "Con người Toàn diện" ngày hôm nay./. Phạm Minh Hoàng
......

Thông Cáo: V/v thay đổi hoạt động của Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn

Paul Loc| Kính gởi Quý Ông bà và anh chị em lưu tâm đến sinh hoạt của Phòng Công Lý và Hòa Bình thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn cách riêng “chương trình Tri Ân TPB - VNCH” Kính gởi đến Quý Ông Thương Phế Binh – Việt Nam Cộng Hòa, Bà con dân oan cả nước có liên lạc với Phòng Công Lý và Hòa Bình, Quý vị ân nhân trong và ngoài nước. Quý Y bác sĩ, quý luật sư và các cộng tác viên của chương trình. Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn (DCCT SG) vừa bắt đầu một nhiệm kỳ mới, do đó có những thay đổi nhân sự trong cộng đoàn. Cha Phê rô Đinh Ngọc Lâm được bổ nhiệm về làm bề trên Cộng đoàn DCCT SG. Trong cương vị Bề trên mới, ngài có những dự phóng cho những hoạt động trong Cộng Đoàn và giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, trong đó sẽ có sự thay đổi liên quan đến văn phòng Công Lý và Hòa Bình. Để công việc được thuận lợi theo kế hoạch của ngài, và theo đề nghị của ngài, chúng tôi đã thực hiện việc bàn giao lại văn phòng Công lý và Hòa Bình ngày 15/05/2019 để ngài tiện việc sắp xếp lại công việc cũng như những hoạt động trong tương lai của văn phòng. Do đó, từ hôm nay tôi, Linh mục Phaolô Lê Xuân Lộc không còn làm việc trong phòng Công Lý và Hòa Bình thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Về hoạt động tri ân các Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa (TPB-VNCH), chúng tôi được cha Bề Trên mới cho biết là sẽ tiếp tục theo cách sắp xếp của ngài. Do đó, từ nay mọi đóng góp giúp cho TPB-VNCH qua DCCT SG xin liên hệ cha bề trên mới DCCT Sài Gòn. Quý TPB-VNCH nào muốn được trợ giúp có thể đến liên hệ DCCT SG, số 38 Kỳ Đồng, P 9, Q. 3, Sài Gòn. Các trường hợp chúng tôi đã cam kết thực hiện việc trợ giúp như khảo sát sửa/xây nhà mới… và đã có kế hoạch trợ giúp, chúng tôi sẽ tiếp tục giúp các ông hoàn thành ước nguyện. Chúng tôi cam kết tiếp tục lo thu xếp và giúp đỡ cho quý ông TPB thuộc trường hợp đơn thân bị trục xuất khỏi căn nhà tạm trú ở vườn rau Lộc Hưng vào tháng 1 năm 2019, chúng tôi chỉ cam kết sự trợ giúp này trong thời hạn và khả năng cho phép. Về thông tin cá nhân của quý TPB-VNCH và các dân oan, tù nhân lương tâm… chúng tôi cam kết sẽ bảo mật cho quý vị. Chúng tôi không còn tiếp tục chương trình Tri Ân TPB – VNCH, do đó chúng tôi cũng không thể đón nhận sự trợ giúp nữa. Chúng tôi chân thành cám ơn cộng đồng người Việt trong và ngoài nước đã ủng hộ và đồng hành với chúng tôi trong nhiều năm qua. Cám ơn các ông TPB và các bà con dân oan khắp nơi trong cả nước đã yêu thương và tín nhiệm chúng tôi. Cám ơn các Y Bác sĩ, các luật sư và các Tình Nguyện Viên đã nhiệt tình cộng tác với chúng tôi bất chấp bao khó khăn, nguy hiểm. Cám ơn các nhà hảo tâm trong và ngoài nước đã hết lòng trợ giúp chúng tôi để thực hiện chương trình. Chúng tôi chân thành xin lỗi về những thiếu sót, những vụng về, những giới hạn trong suốt quá trình sinh hoạt làm phiền lòng quý vị. Xin miễn thứ và thông cảm cho chúng tôi. Xin quý vị tiếp tục cộng tác với DCCT SG trong việc thi hành sứ vụ của Nhà Dòng đó là mang Tin Mừng đến cho người nghèo, người bị bỏ rơi hơn cả. Chân thành cám ơn Quý vị. Linh mục Phaolô Lê Xuân Lộc, CSsR.
......

Ông Trọng khoẻ hay yếu có khác gì?

Đỗ Đăng Liêu| Giữa lúc dư luận và người dân vừa nóng lòng muốn biết tình trạng sức khoẻ hay yếu của ông Nguyễn Phú Trọng ra sao, vừa bực mình về việc nhà nước cứ lại mửng cũ làm lại là chọn thái độ mặc kệ dân, thì bất thần ông Trọng xuất hiện qua một clip video ghi lại cảnh ông Trọng họp với 4 thành viên khác của Bộ Chính Trị. Hiển nhiên, mục tiêu của những hình ảnh nói trên là để một đàng trấn an dư luận, cho thấy là không những ông Trọng vẫn còn sống mà còn có vẻ khoẻ mạnh dù sự thực thế nào thì không ai biết. Việc tay trái của ông Trọng cố gắng để trên bàn lúc đầu và có đeo đồng hồ Smart Sport Watch, là điều người ta muốn “diễn” để cố chứng tỏ cho thấy rằng ông Tổng Bí thư vẫn bình thường. Song chắc chắn 100% là ông Trọng đến phòng họp bằng một chiếc xe lăn – chính là chiếc ghế ông Trọng ngồi họp. Bằng chứng là chiếc dây an toàn thắt ngang bụng ông Trọng vẫn lồ lộ ra mà ai cũng thấy. Vậy là sao? Nếu đã là “diễn” thì tại sao lại diễn tồi thế? Hầu hết những nhận định được nêu lên trong suốt một tháng qua, khi chờ đợi tin tức chính thức từ nhà nước, đều cho rằng ông Trọng đã gặp vấn đề trầm trọng về sức khoẻ với dự đoán không thể nào có thể hồi phục để làm việc như trước. Từ đó, hầu hết đều cho rằng tương lai chính trị của ông Trọng coi như đã chấm dứt, và vấn đề đáng nói là việc thay đổi quyền lực trong nội bộ Đảng sẽ diễn ra như thế nào mà thôi, không loại trừ viễn cảnh của một cuộc xung đột dữ dội để tranh giành quyền lực. Trong bối cảnh của một quốc gia tự do dân chủ thì vấn đề sức khoẻ của lãnh tụ một đảng phái chỉ là “tin thời sự” nghe qua rồi bỏ đối với người dân. Nhưng ở Việt Nam hiện nay thì khác. Bởi vì những người lãnh đạo Đảng CSVN, ngoài việc tự cho đảng của họ độc quyền cai trị đất nước, lại còn tự gán cho mình những vai trò đại diện quốc gia như vai trò Chủ Tịch Nước của ông Trọng. Nếu tạm bỏ qua sự không chính đáng của việc “tự cho mình quyền”, thì ngay cả khi đã nhận quyền thì phải có trách nhiệm tương xứng với trách vụ của mình. Đã là Chủ Tịch Nước, là một chức vụ ăn lương, thậm chí nói theo ngôn ngữ của chính người cộng sản thì là “đầy tớ nhân dân”, thì phải có trách nhiệm báo cáo công việc mình làm, kể cả chuyện đau yếu không thể làm việc thì bình thường cũng phái báo cáo. Thế nhưng nhà nước CSVN xem dân như “củ khoai”, tự đặt ra cái lệ hết sức vô lý là coi sức khoẻ của lãnh đạo là bí mật quốc gia, và giấu như mèo giấu cứt. Thực sự, việc ông Trọng khoẻ hay yếu, sống hay chết, nếu chỉ có vậy, thì không phải là điều người dân Việt Nam quan tâm. Điều người dân Việt Nam quan tâm là cả cái Đảng của ông Trọng sống hay chết. Bởi vì điều mà người dân mong ước là một cuộc sống ấm no trong một xã hội tự do dân chủ. Nhưng đó lại là điều mà cái Đảng của ông Trọng không những không bao giờ có thể tạo ra cho người dân, mà ngược lại họ đang làm cho xã hội ngày một tệ hại hơn. Cho nên có ông Trọng hay không còn ông Trọng thì ngày mai cũng sẽ không tốt hơn ngày hôm nay nếu cái Đảng của ông Trọng vẫn còn đó. Đơn giản vậy thôi! https://chantroimoimedia.com/2019/05/15/ong-trong-khoe-hay-yeu-co-khac-gi/  
......

Tăng giá điện, xăng chỉ phục vụ nhóm lợi ích!

Việc tăng giá điện chắc chắn sẽ tác động lớn đến mọi mặt đời sống xã hội và nhất là tới hoạt động sản xuất, tiêu dùng của doanh nghiệp và người dân. Đối với các doanh nghiệp, nhu cầu tiêu thụ điện rất lớn, cho nên việc tăng giá điện sẽ khiến giá thành sản phẩm tăng theo, ít nhiều gây khó khăn cho doanh nghiệp, chi phí sản xuất tăng lên, lợi nhuận hoặc khả năng cạnh tranh giảm xuống. Vì thế việc tăng giá điện sẽ làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế và ảnh hưởng đến lạm phát. Tăng giá điện không chỉ làm cho túi tiền của người dân nhỏ lại mà khiến cho thị trường tiêu thụ nội địa bị chững lại. Giả sử người dân chi tiêu 10% cho tiền điện, nay phải chi thêm 15% của 10% đó, tức là họ phải chi tổng cộng 11,5%. Người dân làm ra 100 đồng, trước đây sau khi trả tiền điện thì còn 90 đồng để tiêu dùng và tiết kiệm, nay trả tiền điện chỉ còn 88,5 đồng. Đã vậy họ phải mua hàng hóa, sản phẩm với giá cao hơn, vì doanh nghiệp phải tăng chi phí sản xuất. Chưa kể, nhiều mặt hàng, ăn theo giá điện này sẽ khiến việc tăng giá điện và tăng giá cao hơn. Giá điện tăng cao, giá xăng tăng nhiều lần trong vòng một tháng khiến người dân khổ sở vì ‘bão giá’. Để cân đối tiền đi chợ, người dân phải cắt giảm nhiều thứ, lên kế hoạch tiết kiệm trên mọi ‘mặt trận’! Chỉ trong vòng 30 ngày, người dân liên tiếp than trời vì chưa kịp hết “sốc” khi giá điện tăng vọt, đã tiếp tục nghe tin giá xăng tăng gần 1.000 đồng/lít từ chiều ngày mồng 2 tháng Năm (dù tính từ đầu tháng Tư, giá xăng đã tăng 2 lần rồi). Kéo theo đó, giá nhà trọ, thực phẩm, hàng loạt những mặt hàng như thịt, cá, rau củ quả… cũng tăng theo khiến người dân khốn đốn . Nhiều người dân cho biết, nhìn giá xăng, dầu, điện, nước đã chóng mặt, đi chợ mua đồ còn khổ sở hơn vì cái gì cũng đắt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch chi tiêu hàng ngày. Trong khi đó, mức lương của người công nhân bình quân 5 triệu/tháng, khi điện chưa tăng thì chi tiêu khoảng 200 nghìn/ngày, bây giờ thì lên tận 250 nghìn. Trước mua 10 nghìn đồng rau là đủ, giờ phải mua 15 nghìn đồng. Trái cây cũng vậy, dưa hấu 10 nghìn đồng thì nay lên 14 – 15 nghìn đồng, vì chở xe tiền xăng cao quá! Xăng, điện tăng nên chi phí sinh hoạt đều tăng. Quân bình trước kia tổng chi khoản 5 triệu đồng/tháng, bây giờ lên gần 7 triệu đồng. Giá điện, giá xăng tăng khiến người lao động nghèo phải… chi tiêu dè xẻn từng đồng và nhất là các bạn sinh viên phải tìm đủ mọi cách mới mong ‘sống sót’, thậm chí bỏ bữa sáng, ăn chay để đỡ tiền. Một sinh viên quân bình nhận “lương cứng” từ ba mẹ là 2 triệu đồng/tháng và phải đi làm thêm ở quán cà phê buổi tối với mức 700.000 đồng/tháng . Phòng trọ giá thuê là 3,7 triệu đồng cho 5 người ở, vị chi mỗi người khoảng gần 750 ngàn tiền phòng trọ, chưa kể phải thêm tiền điện, nước, gửi xe,… mỗi tháng cũng tốn cả triệu đồngi. Số tiền còn lại chi cho tiền ăn uống, đi lại, sách vở… mà một phần cơm không rẻ, tô hủ tiếu có vài miếng thịt với cọng hành đã 20 ngàn đồng rồi. Tiền tiêu đã eo hẹp, sinh viên còn nghẹt thở hơn khi đâu đâu cái gì cũng thấy tăng giá. Tháng trước tiền điện đã tăng từ 266 ngàn lên 378 ngàn đồng. Quán bún bò cũng tăng thêm 3 ngàn/tô. Giờ xăng tăng mỗi lần đi học đi xe buýt, mà xe buýt cũng lại vừa tăng 1 ngàn/vé, có hôm không đủ tiền phải nhịn ăn sáng hoặc ăn cơm chay để giảm chi phí. Với tình hình độc quyền của ngành điện muốn tăng giá là tăng như hiện nay, nó đưa đến một sự nguy hại khôn lường cho nền kinh tế. Chính những quan chức nhà nước nắm những công ty này họ muốn làm giàu, muốn bù lỗ những khoản đầu tư hoang phí thì rất đơn giản, họ tăng giá là xong. Phá là quyền của họ tự đặt cho mình, thiệt hại là toàn dân chịu. Có người nghĩ tăng giá như thế là không ảnh hưởng gì nhiều, nhưng thực chất là cực kỳ tai hại. Toàn xã hội đang nỗ lực để hồi phục kinh tế thì giá điện tăng, đè nền kinh tế đất nước xuống một nấc nữa. Giá điện tăng thì giá xăng cũng tăng, thế là giá xăng lại đè nền kinh tế xuống một lần nữa. Mỗi năm xăng tăng giá khoảng chục lần, điện tăng giá khoảng 5 lần thì chính họ đã tước mất cơ hội phát triển của đất nước rất nhiều. Ở các nước, ngành điện có nhiều khâu, trong đó chỉ có duy nhất khâu hệ thống truyền tải điện cần phải được giữ độc quyền vì hai lý do: 1) an ninh quốc gia, 2) hệ thống đòi hỏi đầu tư rất lớn, nên phải độc quyền. Ngoài ra, tất cả nhưng khâu khác: sản xuất, phân phối, mua điện, bán điện đều không độc quyền. Nhà cầm quyền CSVN cần phải chấm dứt sự độc quyền của EVN thì dân mới đỡ khổ về giá điện và nhất là kinh tế mới có thể phát triển mạnh mẽ, không bị kìm hãm vì thiếu điện. Quỳnh Hương https://viettan.org/tang-gia-dien-xang-chi-phuc-vu-nhom-loi-ich/  
......

Sự vô trách nhiệm đối với các cấp chính quyền tại VN

Hình ảnh được ghi lại tại địa phận Thôn Đại Thắng - Xã Hoàng Lương -Huyện Hiệp Hoà - Tỉnh Bắc Giang. Ảnh internet Xem: https://www.facebook.com/viettan/videos/324670098199226/?t=18 Hoa Mai Nguyen| Tại các nước dân chủ trên thế giời luôn quan tâm đến cuộc sống và môi trường cho những người dân, đó là công việc và trách nhiệm đối với những người lãnh đạo, khi mà họ những đồng lương do chính người dân đóng thuế trả cho họ. Các phương tiện truyền thông cũng luôn tuyền truyền để cho người dân có ý thức chung tay bảo vệ môi trường trong sạch. Đời sống con người liên quan trực tiếp với mọi sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, hít thở. V.v. Nếu chính quyền và người dân không ý thức được điều đó, thì những hệ quả lại do chính chúng ta phải gánh chịu. Tôi xin lấy một ví dụ, một chiếc túi ly lon, hoặc những đồ sa thải độc hại của các nhà máy khi trôi nổi trên các bờ biền, sông hồ, những con cá ăn vào sẽ sinh bệnh, sau đó chúng ta vô tình ăn phải con cá đó thì chắc chắn rằng chúng ta cũng bị lây bệnh tật. Trong khi đí mấy ngày vừa qua, chúng ta chứng kiến qua những tấm ảnh, đoạn video kinh hoàng trên những dòng sông tại địa phận Thôn Đại Thắng - Xã Hoàng Lương -Huyện Hiệp Hoà - Tỉnh Bắc Giang, với những rác thải như là xác lợn, bao và túi ni lông và rác sinh hoạt. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. điều đáng nói ở đây chính quyền làm ngơ, các cấp lãnh đạo tại địa phương quá vô trách nhiệm, và không quan tâm đến xã hội, và đời sống sinh hoạt của bà con trong vùng. Chỉ một con lợn bị bệnh trôi trên những dòng sông đã có hàng nghìn con cá đến ăn, nhưng trên dòng sông có những hàng trăm con lợn bệnh bị chết phình trương bụng, thì xin hỏi rằng sẽ có hàng bao nhiêu con cá sẽ bị mắc bệnh, và người mắc bệnh sau đó, chính là chúng ta chứ chẳng còn ai vào đây cả. Khi người dân sử dụng nước ao hồ nhiễm độc để tưới rau ăn, sau đó ai sẽ là người bị mắc bệnh? Đất nước VN hiện nay nhìn đâu cũng thấy có độc hại, từ môi trường, khí hậu, thức ăn, và các tệ nạn giao thông, người dân đang sống ở VN luôn đau đáu mang nỗi niềm lo sợ. Họ lo sợ trong từng bữa cơm hàng ngày, cho đến sự di chuyển trên đường phố, bệnh tật và chết chóc luôn kề cận bên mình. Trong khi đó các cấp chính quyền vô trách nhiệm, đối với họ chỉ tìm cách tham nhũng làm giàu cho bản thân. Đối với bọn chúng chỉ là những kẻ cơ hội, là con sâu mọt đang đục khoét trên mảnh đất , vì tham tiền và quyền lực, thì chúng dám làm tất cả, từ việc tranh giành, đấu đá, giết hại lẫn nhau, khi chúng chiếm đoạt được những tài sản lớn, sẽ tẩu tán ra nước ngoài bằng đủ mọi cách, đó là nơi hạ cánh an toàn cho bọn chúng và hưởng một cuộc sống yên bình với một bầu trời và không khí trong sạch, nhưng để lại đằng sau chúng nó là một đất nước VN đổ nát như một bãi rác ô nhiễm trầm trọng về khí hậu, và môi trường, dưới sự cai trị của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Người dân VN còn chịu đựng được đến khi nào nữa?, càng nhẫn nhịn thì càng bị bọn chúng đè nén với trăm khoản thuế cao, giá xăng điện, và các trạm BOT đang là những bàn tay đẫm máu cướp tiền của nhân dân. Ở đâu có bất công, ở đó có tranh đấu, vì vậy chúng ta chỉ có tranh đấu để chống bọn độc tài, tham nhũng, thay đổi lại thể chế. Khi đất nước VN có tự do dân chủ, thì những tệ nạn trên sẽ giảm dần và tan biến, nhân dân VN hãy nhìn sang các nước dân chủ phương tây thì khắc nhận ra điều đó. Tự do và dân chủ không bỗng dưng từ trên trời rơi xuống, nó phải trải qua những cuộc tranh đấu, đôi khi phải trả giá bằng máu và nước mắt cho đến mạng sống của chúng ta mới tranh giành được, vì vậy chúng ta hãy đoàn kết và quyết tâm đánh đuổi chế độ CS độc tài, đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên mới, với một đất nước thực sự có tự do, dân chủ, dân giàu, nước mạnh, ấm no và hạnh phúc Hoa Mai Nguyen.    
......

Băng đảng truyền thông - Cha con nhà Anh Khuê, Tường Minh.

Nguyễn Tường Minh Blog Người Buôn Gió   ”...Nguyễn Thiện Nhân, Hoa Lâm, cha con nhà Nguyễn Tường Minh chỉ cần mấy cái tên đó thôi, đã cho thấy đất nước Việt Nam giờ đây là của những kẻ khốn nạn chứ không phải của người dân làm chủ...” Khoảng mười năm trở lại đây, báo chí là nghề kiếm ra tiền nhiều nhất. Các nhóm nhà báo hoạt đông không khác gì các băng nhóm xã hội đen. Nếu như các băng xã hội đen sử dụng sức mạnh đến đập phá cơ sở kinh doanh, rồi cho người giàn xếp để đứng ra bảo kê lấy tiền hàng tháng, thì báo chí cũng tương tự như vậy. Nhưng chúng dùng đến các bài báo. Thời kỳ đầu các băng đảng báo chí ăn tiền bằng cách nhận quảng cáo và viết bài lăng xê doanh nghiệp, tổ chức sự kiện ... sau đó chạy những dự án đất đai, bất động sản kiếm tiền. Tuỳ theo tình hình thời cuộc các băng đảng tô vẽ sức mạnh của mình khác nhau, như thời kỳ đầu vào  phong trào chống Trung Quốc, phong trào xã hội dân sự phát triển, các băng đảng này hoà nhịp như là những nhà báo ''cấp tiến'' . Chúng cùng xuống đường biểu tình 1 hoặc 2 lần để thể hiện mình là người khát khao dân chủ, hoà nhịp với sự sục sôi của dân chúng. Nhìn lại bây giờ mấy ai nghĩ Hồ Thu Hồng tức Beo cũng đã xuống đường biểu tình chống Trung Quốc? Nhờ những hành động này chúng có được vị thế tốt trong giới truyền thông trên mạng xã hội. Qua đó chúng kiếm quảng cáo, tổ chức sự kiện và viết bài lăng xê doanh nghiệp kiếm tiền. Sau đến thời kỳ chống tham nhũng của Nguyễn Phú Trọng, cái hệ quả của việc chống tham nhũng này là cơ hội cho các băng đảng truyền thông mượn gió bẻ măng, cáo mượn oai hùm, té nước theo mưa. Từ đây nảy sinh ra trò như xã hội đen, đó là báo chí đưa bài phanh phui doanh nghiệp này có vấn đề, rồi bắn tin đến giàn xếp bỏ tiền mua sự im lặng. Chính những kẻ tấn công lại trở thành những kẻ bảo kê với những hợp đồng gọi là hợp tác truyền thông.  Trong cái gọi là chống tham nhũng ấy, không chỉ các doanh nghiệp mà các quan chức cũng phải bỏ tiền mua chuộc truyền thông như Đinh La Thăng lúc là bộ trưởng giao thông vận tải đã rót hàng núi tiền cho Lê Bình, hay Huỳnh Đức Thơ chủ tịch Đà Nẵng cũng nhân danh thành phố Đà Nẵng rót hàng núi tiền cho Nguyễn Thế Kỷ và báo Giao Thông Vận Tải. Nguyễn Công Khế, tổng biên tập báo Thanh Niên là điển hình cho loại chớp thời cơ nhanh nhạy nhất, khi đánh hơi miền Nam sắp sụp đổ, Khế nhảy vào phong trào thanh niên sinh viên miền Nam biểu tình. Từ đó y có mác ''cách mạng 30 tháng 4'' trong người để làm bàn đạp tiến xa hơn. Dân miền Nam đa phần là theo chế độ cũ, khi miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam, tất nhiên những loại có máu theo cộng sản dù tí tí cũng được trọng dụng. Nhờ cái bàn đạp này và mối quan hệ với những quan chức lãnh đạo có gốc miền Nam, Khế đã xây dựng quanh mình một mạng lưới chân rết truyền thông khổng lồ có sức huỷ diệt hoặc làm chao đảo bất cứ doanh nghiệp nào. Khế luôn đi đầu trong những việc kiếm tiền từ thời nhận quảng cáo, tổ chức sự kiện, môi giới dự án đến luôn cả thời bây giờ là đánh đấm, đe doạ kiếm tiền. Những doanh nghiệp hàng đầu mọi thời kỳ đều phải kết thân với Khế như Vingroup, Novand và nhà Hoa Lâm.... song song với chuyện làm những điều bẩn thỉu kiếm tiền, Khế vẫn ra vẻ một nhà báo đạo đức, có tấm lòng với đất nước. Từ Khế đã sản sinh ra phong trào các nhà báo kiếm tiền theo trò của Khế đã làm. Về cá nhân Khế sẽ đề cập trong một loạt bài khác, ở đây chỉ khái quát sự hình thành của các băng đảng truyền thông như vậy để nêu lên một hiện tượng điển hình là cha con nhà Nguyễn Anh Khuê, Nguyễn Tường Minh. Nguyễn Anh Khuê cha của Nguyễn Tường Minh ( báo Người Tiêu Dùng) làm ở báo Sài Gòn Giải Phóng. Ở đây Anh Khuê lợi dụng mác phóng viên để đi làm tiền các ngân hàng, tai tiếng um xùm nên báo SGGP cho Khuê về làm ở ban cố vấn, tức cái ban chỉ rặt ngồi chơi hưởng lương, sau thấy thế cũng chướng mắt, báo này giải tán ban cố vấn, Khuê được về ban kinh tế trên danh nghĩa nhưng không làm gì ở ban này. Đến cuối năm phát tiền thưởng thấy danh sách lù lù có tên Khuê, người ta dị nghị thì Khuê nại chuyện mình bị ung thư, người ta thắc mắc ung thư phải có bác sĩ xác nhận. Khuê đuối lý, nhưng do nể tình cuối cùng Khuê được cho về hưu non để ăn chế độ hưu trí. Bao nhiêu mánh khoé thời đe doạ các ngân hàng kiếm tiền được Khuê truyền lại cho con trai Nguyễn Tường Minh. Minh học trung cấp kế toán, sau học tại chức luật nhưng cũng chẳng học hết, nhờ quan hệ của bố mà Minh trở thành ''nhà báo'' dưới sự hỗ trợ của ông trùm Nguyễn Công Khế đang muốn xây dựng lực lượng truyền thông rộng lớn để ôm mộng bá chủ ngành truyền thông, làm hậu thuẫn để nhảy vào chính trị. Nhờ những tài liệu mà Khế có được do Trương Tấn Sang, Trương Hoà Bình, Nguyễn Xuân Phúc tuồn ra mà Nguyễn Tường Minh trở thành một nhà báo trẻ có tên tuổi trong làng báo, Minh cưỡi xe siêu sang Bentley, chơi đồ hiệu đắt tiền, nhà biệt thự khắp nơi, cùng với sự giàu sang ấy là sự nổi tiếng về ''chống quan chức tham nhũng''. Thủ đoạn kiếm tiền của cha con nhà Khuê, Minh chính là thủ đoạn học được từ ông trùm Nguyễn Công Khế. Vợ chồng Khuê lập công ty truyền thông Ngôi Sao Thế Giới, còn thằng con đi đánh đấm thiên hạ, các doanh nghiệp muốn yên thân cứ đến công ty truyền thông của vợ chồng Khuê ký hợp đồng đưa tiền là mọi việc khắc êm. Tờ báo Người Tiêu Dùng chỉ được ba phần, bảy phần chảy vào túi vợ chồng Khuê. Cơ quan công an biết nhưng không đủ cở sở làm thành vụ tống tiền, vì tiền chuyển qua hợp đồng truyền thông với công ty tư nhân khó chứng mình rằng do bị cha con nhà Khuê Minh ép, bởi chính các doanh nghiệp cũng không dám khai nhận như vậy. Ghê tởm nhất là Nguyễn Tường Minh nhận tiền của Nguyễn Đăng Quang Massan để đánh ngành nước mắm truyền thống, tức không chỉ đánh các doanh nghiệp, mà ngay cả nếu doanh nghiệp thuê đánh người dân chúng cũng làm. Vụ đánh Tất Thành Cang xuất phát bởi lợi ích nhóm. Nhà Hoa Lâm có dự án không được Cang duyệt, trong khi Nguyễn Thiện Nhân mới về làm bí thư TPHCM, Nhân cũng không muốn Cang làm phó vì Cang quá rành thành phố sẽ át mất ảnh hưởng của Nhân. Nhà Hoa Lâm vốn có thế lực khá mạnh, trò sổ xố bịp bợp cho người nhà đeo mặt nạ nhận thưởng Vietllot do nhà Hoa Lâm làm chủ, có chia vài chục phần trăm cổ phần cho nhà Thân Đức Nam. Nam là một trong những vòi bạch tuộc làm kinh tài của nhóm Xuân Phúc. Từ mối thù của nhà Hoa Lâm với Tất Thành Cang dẫn đến Nguyễn Công Khế nhận được tập hồ sơ tấn công Cang, Khế đầu tiên đưa hồ sơ dạm một vài nhà báo nhưng họ từ chối vì biết đây là phe cánh đánh nhau, sau bỗng nhiên thấy Nguyễn Tường Minh có những hồ sơ này đưa lên báo và truyền thông mạng xã hội để đánh Cang. Nguyễn Tường Minh tuổi trẻ, nên rất biết dùng mạng xã hội, Minh sử dụng những chuyên gia tin học để thành lập rất nhiều nick trên Facebook để chia sẻ, like những bài Minh muốn đánh ai, đồng thời báo cáo những Facebook nào vạch mặt trò kiếm tiền của cha con nhà Khuê, Minh. Minh cũng lợi dụng được tâm lý dư luận muốn nhìn thấy quan chức bị xử lý để khích động, khoét sâu vào việc Thủ Thiêm để lấy lòng cộng đồng mạng lên án Tất Thành Cang. Như các facebook Ngọc Bảo Châu, do Võ Đức Phúc xử dung,  Facebook Võ Trần Phương Thảo do Trần Trọng Thi. Khi Cang bị hạ chính Nguyễn Tường Minh lại dùng báo Người Tiêu Dùng để quay lại tấn công người phụ nữ Thủ Thiêm ném dép.  Hạ Tất Thành Cang xong, người dân Thủ Thiêm vẫn mất đất, vẫn bị đàn áp... không hiểu dư luận lúc đó bị Nguyễn Tường Minh xỏ mũi rằng vì Thủ Thiêm phải diệt Tất Thành Cang giờ có sáng mắt ra không khi thấy chuyện Thủ Thiêm không có gì thay đổi. Thắng thế vụ Tất Thành Cang, nhà Hoa Lâm còn muốn diệt nốt nhà Lê Thanh Hải, sư phụ của Cang. Nhưng việc không thành, Tường Minh và một số chủ chốt báo Người Tiêu Dùng bị kỷ luật, cơ quan công an định xử lý Tường Minh thì Nguyễn Thiện Nhân đứng ra bao che, ngăn chặn vì lo sợ Minh bị bắt sẽ khui ra việc ai đã lấy hồ sơ, tài liệu cung cấp cho Nguyễn Tường Minh. Nhà Hoa Lâm bỏ ra hàng triệu USD mua nhà bên Mỹ để Nguyễn Tường Minh đi lánh nạn. Cũng sau vụ Tất Thành Cang người ta thấy Nguyễn Công Khế kè kè với Hoa Lâm đi ngang dọc châu Âu ký kết hợp đồng kinh tế ở nước này, nước nọ. Giờ đây khi Nguyễn Phú Trọng lâm bệnh, Nguyễn Thiện Nhân triệu hồi Tường Minh về để chuẩn bị cho một kế hoạch khác. Công ty truyền thông Ngôi Sao Thế Giới cũng được Nguyễn Anh Khuê để cho đàn em đứng ra làm đại diện để tránh sự điều tiếng. Việc phát tán những hình ảnh sex của Bùi Cao Nhật Quân thiếu gia nhà Bùi Thành Nhơn cũng chính do Nguyễn Tường Minh tung ra, buộc Novalnd phải ký hợp đồng truyền thông rồi Minh dùng bọn tin tặc đi gỡ bài, khoá Facebook nào đưa hình ảnh này. Nhà Hoa Lâm cũng ký hợp đồng truyền thông cả chục tỷ để hỗ trợ Nguyễn Tường Minh. Đằng sau đó còn là những khoản tiền ngầm khác đưa trực tiếp cho Minh để trả công cho những vụ đánh đấm đối thủ trên thương trường, chính trường. Trong cái nền báo chí thối nát và suy thoái của Việt Nam ngày nay, cha con nhà Nguyễn Anh Khuê , Nguyễn Tường Minh là sự tiêu biểu nổi bật. Nhiều nhà báo khác e sợ chúng, không phải họ kém tài hơn, mà họ hiểu cha con nhà này có những thế lực đằng sau như Hoa Lâm, Nguyễn Thiện Nhân, Trương Hoà Bình, nếu họ muốn đấu với cha con nhà Khuê, Minh thì họ buộc phải kiếm chỗ dựa là đứng dưới bóng của thế lực khác, đó là điều họ không muốn làm. Sự đê tiện vì đồng tiền mà các thủ đoạn được truyền lại từ đời cha đến đời con là điều không chỉ thối nát của nền báo chí mà còn là của nền đạo đức, giáo dục trên đất nước Việt Nam. Cứ nhìn xem, một nhà giáo, một người ưu tú từng học ở phương Tây, từng là bộ trưởng giáo dục như Nguyễn Thiện Nhân mà nay sử dụng những thủ đoạn đê tiện, những con người đê tiện để thực hiện những âm mưu chính trị của cá nhân mình. Đó không phải là minh chứng về một nền văn hoá, giáo dục, đạo đức xuống cấp từ quan chức , doanh nghiệp, nhà báo và trong gia đình sao.? Nguyễn Thiện Nhân, Hoa Lâm, cha con nhà Nguyễn Tường Minh chỉ cần mấy cái tên đó thôi, đã cho thấy đất nước Việt Nam giờ đây là của những kẻ khốn nạn chứ không phải của người dân làm chủ. Người Buôn Gió    
......

SOS: Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hoá bị đánh trong trại giam An Điềm

Tin từ Nghệ An, ngày 13/5/2019: Tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hoá đã bị quản giáo đánh trong phòng giam khi đang thụ án tù 7 năm ở Trại giam An Điềm, tỉnh Quảng Nam. Tin blogger Hoá bị đánh được tù nhân lương tâm Hoàng Đức Bình nói với gia đình của anh khi anh gọi điện về hôm nay. Nhà hoạt động về công đoàn và môi trường Bình cũng đang thụ án tù 14 năm tại trại giam này. Theo anh Hoàng Nguyên, người tiếp nhận cuộc gọi của anh trai mình từ trại giam thì Hoá bị quản giáo kẹp cổ đánh rất đau và sự việc xảy ra cách đây 3-4 ngày. Bình khuyên gia đình Hoá phải vào trại giam ngay để biết được tình hình cụ thể. Chị Huệ, chị gái của Hoá, nói sẽ lên đường đi thăm em trai trong ngày 14/5. Blogger Hoá là một phóng viên video cho Đài Á Châu Tự do và một số hãng tin khác. Anh là người đầu tiên sử dụng flycam để quay về cảnh biểu tình của dân Hà Tĩnh phản đối Formosa xả thải ra môi trường và gây thảm hoạ môi trường ở ven biển miền Trung từ năm 2016. Anh bị nhà cầm quyền Hà Tĩnh bắt giữ vào ngày 11/1/2017 nhằm bịt miệng anh với cáo buộc nguỵ tạo “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999. Trong thời gian giam giữ trước và sau khi xét xử, Hoá bị tra tấn và bị ép nhận tội trên truyền hình, như một số tù nhân lương tâm khác. Trong phiên xử nhà hoạt động dân chủ Lê Đình Lượng, Hoá bị đánh sau khi tố cáo công an Nghệ An ép buộc Hoá khai bất lợi cho ông Lượng. Blogger Hoá, 24 tuổi, bị nhiều bệnh tật, trong đó có khối u ở mông, nhưng mãi anh mới được phẫu thuật. Hoá là một trong 123 tù nhân lương tâm mà Ân xá Quốc tế đã liệt kê trong năm 2019. NOW! Campaign, một liên minh của 15 tổ chức xã hội dân sự quốc nội và quốc tế cũng đưa anh vào danh sách 250 tù nhân lương tâm. Nhiều tổ chức như Ký giả Không Biên giới (RSF), Uỷ ban Bảo vệ Ký giả (CPJ), Quan sát Nhân quyền (HRW) và Freedom Now nhiều lần kêu gọi Việt Nam phóng thích blogger Hoá ngay lập tức và vô điều kiện. Quốc Tuấn
......

Luật Hoá “Nịnh Bợ Cấp Trên”

Ngày xưa, trong các triều đình phong kiến bên cạnh vua chúa cầm quyền không thiếu bọn nịnh thần đủ loại. So với các chế độ cộng sản trong thế kỷ này, sự sùng bái cá nhân được mô tả như một hình thức nịnh bợ cấp trên thuộc hàng cao cấp nhất. Triều đình Cộng sản Việt Nam cũng không nằm ngoài con đường ấy. Nịnh bợ cấp trên đã trở thành lẽ sống của hàng triệu đảng viên, cán bộ, công chức đang bám vào cái phao đảng và nhà nước để kiếm ăn. Chẳng những vậy đó còn là con đường tiến thân chắc chắn và dễ thành công nhất. Mới đây, do nhu cầu làm trong sạch bộ máy nhà nước mà đảng hô hào lâu nay, Bộ Nội Vụ đang nghiên cứu, đề nghị bổ túc các quy định về cái gọi là Đề án văn hoá công vụ của Thủ Tướng Phúc. Cụ thể là cấm công chức cán bộ không được nịnh bợ, lấy lòng cấp trên “vì động cơ không trong sáng”. Đề án văn hoá công vụ nghe thật êm tai và tràn đầy chất văn hoá thật ra là gì? Đem vụ nịnh bợ cấp trên biến thành luật cấm mọi người không được a dua hay nâng bi lãnh đạo quả là làm một chuyện ngược đời của Bộ Nội Vụ. Bởi vì dưới chế độ cộng sản, nịnh bợ cấp trên đã là quy luật bất thành văn nhưng được mọi cấp cán bộ trung thành noi theo. Xét cho cùng, trong bộ máy hành chánh của CSVN thường có 3 loại người. Loại giả đò làm việc chăm chỉ, cần mẫn để lấy lòng cấp trên. Công việc của loại cán bộ này không hề có ích lợi thiết thực đối với người dân. Mà mục đích chúng là thăng quan tiến chức trong bộ máy cai trị để có cơ hội thủ lợi riêng bằng mọi cách. Ngoài thái độ chăm chỉ trong công tác, những người này sẵn sàng nịnh bợ làm hài lòng cán bộ cấp trên bằng bất cứ giá nào. Loại con ông cháu cha, còn được mệnh danh là “hạt giống đỏ” của cách mạng hay các thái tử đảng. Loại cán bộ này tài không có nhưng có đức ăn chơi và làm tiền. Nhờ uy danh bố mẹ, họ chẳng cần làm gì cả vì mọi sự đã có người khác lo. Chỉ cần ngồi lâu lên lão làng và sẽ được bố trí làm cán bộ chiến lược của đảng để nắm vận mệnh của dân tộc cho tới ngày trở thành hạt giống thối. Sau cùng là loại ngồi không, nhưng thích làm thợ vẽ. Họ ngồi và vẽ vời ra những quy chế, quy định để tìm cách ngăn cản hai loại kia và gọi đó là làm trong sạch guồng máy hành chánh. Xem ra thành phần thứ ba này chính là đám cán bộ ăn hại nhà nước nhiều nhất vì chúng bày vẽ những hạn chế linh tinh mà phao lên là làm trong sạch đảng, trong sạch bộ máy cai trị. Kỳ thực chúng âm mưu cùng nhau tạo ra những chỗ ẩn nấp để móc ngoặc, tham ô và ăn chia nhau của cải bòn rút của ngân sách. Thử hỏi khi có luật cấm nịnh bợ cấp trên thì ý nghĩa là như thế nào? Cụ thể, phải chăng nhân viên mua cho sếp ly cà phê sẽ bị phạt 2 triệu, hoặc rủ sếp đi nhậu trong dịp sinh nhật của sếp bị phạt 3 triệu. Hay mua quà sinh nhật tặng vợ sếp bị phạt 5 triệu …vì tội hối lộ. Một đất nước muốn phát triển và công bằng cho mọi công dân, những trò luật hoá kiểu này cần phải bỏ. Vì nó chỉ là những quy định hành chánh rườm rà, trên thực tế chỉ làm cản trở việc thi hành công lý trong khi nhà nước cộng sản đã có sẵn một bộ luật chống tham nhũng, đó là chưa kể sự hiện diện của một hệ thống phòng chống tham nhũng từ trung ương tới địa phương. Vả chăng cấm nịnh bợ thì lấy ai cung phụng cho lãnh đạo, chẳng lẽ vứt đi những lời lẽ ca ngợi “kẻ sĩ Bắc Hà”… “hai tay gìn giữ một sơn hà”. Luật hoá chống nịnh bợ cấp trên càng tố cáo trước người dân rằng đảng CSVN là một bộ máy tham ô hạng nặng, vừa tham ô vừa tỏ ra là những nhà cai trị đạo đức giả hiệu. Vì ở các nước khác, pháp luật đã được thể chế hoá từ lâu mà không cần phải vẽ ra những quy định linh tinh như dưới chế độ độc tài cộng sản. Trong khi Việt Nam quanh năm kêu gào cải tổ thể chế đến hụt hơi thì các cấp đảng viên cầm quyến tiếp tục tự biên tự diễn làm trò mèo. Chính phủ kiến tạo cứ kiến tạo quyền lợi nhóm nuôi tham nhũng lớn mạnh, còn công an bây giờ đi đêm với xã hội đen đánh đập và cắt cổ người dân. Cái cần luật hoá như quyền biểu tình, quyền lập hội, quyền xuất bản báo chí tư nhân, quyền đi lại tự do thì cộng sản làm ngơ như trên thế giới chưa từng có. Thế nhưng những nhà cai trị cộng sản mù loà ấy đang hoành hành bằng những hành động bịp bợm, tự vẽ bùa để đeo. Sau luật hoá cấm nịnh bợ cấp trên có lẽ còn phải luật hoá cấm chạy chức, chạy quyền, chạy ghế cho đủ một bộ. Thật là tội nghiệp cho đất nước Việt Nam. Phạm Nhật Bình Đầu cơ tương lai Nạn ‘cống nạp’ của doanh nghiệp cho quan chức    
......

Phật giáo Quốc doanh mừng Đại lễ Phật Đản bằng cách sỉ nhục Đức Phật Thích Ca

Ngọc Tuyên Đàm| Tờ Dân Trí đưa tin: "Tối 10/5, tại Học viện Phật Giáo Việt Nam đã diễn ra nghi thức trang trọng, linh thiêng của Đại lễ kính mừng Phật đản. Tại buổi lễ, Thượng toạ Thích Thanh Quyết - Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã dành một phần đặc biệt để công bố ra mắt bức tranh sơn mài “Đạo pháp và dân tộc” trước quan khách và các tăng ni Phật tử. Thượng toạ Thích Thanh Quyết đã cùng ông Hà Huy Thanh làm lễ kéo khăn nhiễu công bố bức tranh trước tiếng vỗ tay không ngừng của các Tăng Ni, Phật tử. (hết trích)   Trong bức tranh “Đạo pháp và dân tộc” thì Đức Phật và ông HCM được vẽ ngồi ngang nhau. Bức tranh có chiều cao 2 mét, chiều ngang 4,2 mét, tổng diện tích 8,4 mét, do 6 hoạ sĩ miệt mài thực hiện suốt 1 tháng, trong đó có nữ họa sĩ Ngô Hải Yến. Mới đây thôi, tại Tp.HCM, chính quyền đã trộm mất lư hương tại tượng thờ Đức Thánh Trần. Tiếp sau đó, tại Đà Nẵng, trong khu du lịch Bà Nà, người ta lại trí trá trong cách gọi, bằng cách nói là thờ Đức Thánh Trần nhưng hình ảnh được dư luận nhận định là ông Trần Đại Quang. Hai việc làm của bọn vô lương khi báng bổ tiền nhân có công lớn với đất nước. Và, giờ đây, tổ chức Phật giáo Quốc doanh đã tổ chức Đại lễ kính mừng Phật Đản bằng cách sỉ nhục Đức Phật, khi họ lồng ghép ông Hồ Chí Minh ngang hàng với Đức Phật, khi tạo ra bức tranh "Đạo pháp và Dân Tộc". Tôi không biết nữ họa sỹ Ngô Hải Yến và nhóm họa sỹ khi vẽ bức tranh này có "tài năng và tâm huyết" ra sao, nhưng nhìn những gì họ vẽ, thì cho thấy sự đốn mạt của họ có thừa. Tôi không biết những Tăng Ni và Phật tử đã nghĩ gì mà có thể "vỗ tay không ngừng" khi thấy Đức tin của mình bị sỉ nhục, bị báng bổ như vậy? Chắc hẳn những Tăng Ni được mời có mặt trong buổi lễ, tuy cạo trọc đầu đấy, nhưng họ thờ ông HCM, nhưng chẳng lẽ toàn thể Phật tử ở đó cũng ngu muội đến mức đáng thương hại vậy sao? Khoan hẳn nói về việc ông HCM có phải là người có đức hạnh hay không? Cứ cho có đức hạnh đi nữa, thì cũng là muối bỏ bể khi so sánh với Đức Phật Thích Ca. Chỉ xét riêng về tuổi tác, đến cả Đức Thánh Trần còn nhỏ hơn Đức Phật Thích Ca, thì ông HCM tuổi gì ngồi ngang hàng? Ngay cả trong rất nhiều chùa quốc doanh, có thờ ông HCM chăng nữa, thì sư quốc doanh trụ trì cũng chẳng để hai tượng Đức Phật và ông HCM ngang bằng nhau, mà họ để thấp hơn (cùng khu thờ) hoặc để riêng. Tương tự, nhiều nhà đảng viên thờ ông HCM, nhưng cũng chẳng đứa nào dám đặt ngang hàng với Đức Phật cả, khi bọn chúng có thờ. Đừng nói là Đức Phật, mà kể cả Phật Bà Quan Âm cũng chẳng đứa nào dám mạo phạm kiểu như vậy cả. Vậy mà, dựa vào Đại lễ Phật Đản năm nay, PGQD đã ngang nhiên tuyên bố ông HCM ngang hàng với Đức Phật. Thật không còn lời nào để nói về bọn khốn nạn này.    
......

‘Tôn trọng tự do hàng hải’: Việt Nam lại đu dây chiến lược với Mỹ

Thường Sơn - (VNTB )  Ngày 9/5/2019, chính thể nổi tiếng đu dây quốc tế là Việt Nam đã thêm một lần nữa bảo vệ quan điểm ‘can đảm bám Mỹ để khai thác dầu khí’. Tại cuộc họp báo thường kỳ, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ‘đọc bài’: “Là một quốc gia ven Biển Đông và là thành viên của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, Việt Nam cho rằng tất cả các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải và hàng không, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982”.   Phát ngôn trên xuất hiện trong bối cảnh hai tàu chiến Mỹ áp sát khu vực thuộc kiểm soát của Trung Quốc ở Trường Sa khiến Bắc Kinh giận dữ phản đối.   Vào tháng 2 năm 2019, thậm chí còn hiện ra một khái niệm mới trong cách phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam: “Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông của các quốc gia”. Đó là lần đầu tiên chính quyền Việt Nam không chỉ ‘tôn trọng tự do hàng hải’ mà còn ‘tôn trọng tự do hàng không’. Hiện tượng phát ngôn đặc biệt này xuất hiện trong bối cảnh Hải quân Mỹ thông báo hai khu trục hạm mang tên lửa dẫn đường USS Spruance và USS Preble của nước này đã áp sát Đá Vành Khăn của quần đảo Trường Sa, thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đá Vành Khăn nằm trong số 7 bãi đá ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp và ngang nhiên bồi đắp thành đảo nhân tạo trong vài năm gần đây.   Tính liên hệ cao của ‘tôn trọng tự do hàng không’ có thể là quân sự, với sự kiện ‘Trung Đoàn không quân Sao Đỏ rời Hà Nội, lên chốt giữ vùng Tây Bắc’ vào cuối tháng Mười Một năm 2018.   Rất có thể, Bộ Quốc Phòng Việt Nam cùng quân ủy trung ương của ông Nguyễn Phú Trọng - bằng chỉ đạo cho công khai cuộc chuyển quân của đoàn không quân Sao Đỏ lên vùng Tây Bắc - đang muốn lặp lại chiến thuật “răn đe Trung Quốc” khi Việt Nam mời cả một hàng không mẫu hạm của quân đội Hoa Kỳ - USS Carl Vinson - đến “giao lưu quân sự” tại cảng Đà Nẵng vào tháng Ba năm 2018.   USS Carl Vinson lại là một tàu sân bay hùng hậu của Mỹ đang chờ sẵn ngoài Thái Bình Dương.   Mạch logic quan hệ phòng vệ quốc phòng song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đã hình thành kể từ tháng Bảy năm 2017 khi Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch phải đi Mỹ cầu viện - thời điểm mà Việt Nam ‘mất ăn’ ở mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ ở đông nam Biển Đông. Từ đó đến nay, ngày càng nhiều tàu khu trục Mỹ xuất hiện ở Biển Đông và thách thức Trung Quốc bằng động tác áp sát một số đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa.   Nhưng không chỉ có thế, cái cách phát ngôn ‘tôn trọng tự do hàng không’ của Bộ Ngoại giao Việt Nam rất có thể đang mở đường cho máy bay chiến đấu của Mỹ hoạt động trên không phận Biển Đông như một hàm ý ‘máy bay Mỹ bay qua vô hại ở Biển Đông’, tiếp nối khẩu ngữ ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ bật ra lần đầu tiên vào đầu năm 2016.   Vào tháng Mười năm 2018, hai máy bay B-52 của Mỹ đã áp sát các đảo đang tranh chấp ở Biển Đông.   Như vậy đã có đến ba lần trong 5 tháng đầu năm 2019 và hầu như đã mang tính hệ thống và logic, Bộ Ngoại giao và đứng phía sau là Bộ Chính trị Việt Nam đã không phản đối, nếu không muốn nói là có thể hiện thái độ cổ vũ, trước hoạt động áp sát quần đảo Hoàng Sa của các tàu chiến Mỹ. Lần đầu tiên là ‘tàu Mỹ đi qua vô hại ở Biển Đông’ vào đầu năm 2016.   Giờ đây, hy vọng mỏng manh còn lại cho nhu cầu ăn dầu và trám rỗng ngân sách của Việt Nam chỉ còn là Mỹ - đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc tại Biển Đông.   Không thể khác hơn, đó là nguồn cơn khiến Bộ Ngoại Giao Việt Nam tỏ ra “can đảm” từ bất ngờ đến dần có hệ thống khi đưa ra tuyên bố hoặc “tàu Mỹ đi qua vô hại”, “tàu Mỹ tự do giao thông ở Biển Đông” và ‘tôn trọng tự do hàng hải’.  
......

Đón xem: Quốc hội bàn chuyện chặt… đuôi

Công nhân nhà máy Pouyuen - Việt Nam trong một cuộc biểu tình trước đây. Trân Văn| Mười ngày nữa, các đại biểu Khóa 14 của Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ tề tựu về Hà Nội dự Kỳ họp thứ 7. Điểm đáng chú ý nhất trong kỳ họp kéo dài gần một tháng (theo dự kiến sẽ khai mạc vào 20 tháng 5 và bế mạc vào 14 tháng 6) này, có lẽ sẽ là tiết mục nghe chính phủ trình bày Báo cáo thuyết minh về Công ước 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) để chuẩn bị xem xét – phê chuẩn và thảo luận về Dự luật Sửa Luật Lao động hiện hành. *** ILO có tám công ước được xem là căn bản: Côn­g ước số 87 và 98 về Tự do hiệp hội và Thương lượng tập thể. Công ước 29 và 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức và Bắt buộc. Công ước số 100 và 111 về Xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và Nghề nghiệp. Công ước số 138 và 182 về Xóa bỏ lao động trẻ em. Cách nay 21 năm (1998), các quốc gia thành viên của ILO đã thông qua Tuyên bố về Các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc, cũng như cách thức giám sát – thực hiện tuyên bố này (Tuyên bố ILO 1998), với lõi là tám công ước căn bản. Tuy là thành viên của ILO nhưng Việt Nam chỉ hành xử như một… quan sát viên. Việt Nam không xem xét – phê chuẩn tám công ước cơ bản xác lập các quyền căn bản của người lao động, đặt định các nguyên tắc để bảo vệ những quyền này. Thời thế đổi thay, sau khi nội lực quốc gia bị các doanh nghiệp nhà nước làm cho thất tán, kinh tế càng ngày càng phụ thuộc vào vốn đầu tư từ ngoại quốc và xuất khẩu, gia nhập các hiệp định thương mại tự do đa phương trở thành chuyện sống còn của Việt Nam. Để bảo đảm văn minh và công bằng, những quốc gia tham dự vào các hiệp định thương mại tự do đa phương luôn đòi đối tác phải thực thi Tuyên bố ILO 1998. Văn minh là kiểm soát để nỗ lực thúc đẩy thương mại tự do không thể gạt bỏ nhân vị, nhân phẩm ở bất kỳ đâu. Thực hiện các giải pháp bảo vệ nhân vị, nhân phẩm thì tốn kém (nhà xưởng phải đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt nhằm ngăn ngừa ô nhiễm, nơi làm việc phải thoáng và đủ sáng, ngay cả nhà ăn, nhà vệ sinh cũng phải đúng tiêu chuẩn,…), cho nên không có quốc gia nào tham dự những hiệp định thương mại tự do đa phương được miễn trừ. Có như vậy mới ngăn ngừa được tình trạng hạ giá thành bằng cưỡng bức lao động, tiết kiệm chi phí đầu tư vào nhà xưởng, ngăn ngừa – xử lý ô nhiễm… để tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Thiên hạ tự nguyện chấp nhận những ràng buộc đó vì chúng vừa nhân đạo, vừa giúp duy trì sự công bằng. Riêng Việt Nam, sau một thời gian dài ngần ngừ đành gật đầu. Trong quá trình tìm đủ mọi cách để trở thành thành viên của TPP (Hiệp định Đối tác thương mại Xuyên Thái Bình Dương, CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định Thương mại Tự do Liên Âu – Việt Nam), Việt Nam đã phê chuẩn 5/8 công ước căn bàn của Tuyên bố ILO 1988. Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn lần lữa trong việc phê chuẩn ba công ước còn lại: Công ước 98 (Quyền Tổ chức và thương lượng tập thể), Công ước 87 (Quyền Tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức hiệp hội) và Công ước 105 (Xóa bỏ Lao động cưỡng bức). Tại sao một nhà nước, thông qua hiến pháp, hiến định rạch ròi “do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Khoản 2, Điều 2 Hiến pháp) nhưng Quốc hội ngần ngừ hơn hai thập niên vẫn chưa gật đầu với những: Quyền Tổ chức và thương lượng tập thể, Quyền Tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức hiệp hội, Xóa bỏ Lao động cưỡng bức? Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam liên tục khẳng định là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp) mà lại không “chớp thời cơ”, nắm lấy tám công ước trong Tuyên bố ILO 1998 ngay lập tức như một thứ “vũ khí” để bảo vệ giai cấp công nhân, nhân dân lao động cả trên bình diện quốc gia lẫn bình diện quốc tế? *** Giống như các quốc gia khác, tại Việt Nam cũng có tổ chức đại diện cho người lao động. Việt Nam chỉ khác phần lớn các quốc gia khác ở chỗ chỉ có một tổ chức giữ vai trò đại diện: Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam. Theo qui định của luật pháp Việt Nam, toàn bộ người lao động tại Việt Nam bị gom về một mối, tổ chức đại diện cho họ được phân thành nhiều cấp, trải dài từ trung ương (Tổng LĐLĐ VN) đến địa phương (LĐLĐ các tỉnh, thành phố, công đòan cơ sở tại tất cả các nơi có người lao động). Khác với các tổ chức đại diện cho người lao động của thiên hạ, Tổng LĐLĐ Việt Nam hoạt động bằng ngân sách do chính phủ cấp (tất nhiên lấy từ thuế do toàn dân đóng góp) và bằng phí công đoàn. Theo qui định của luật pháp Việt Nam, doanh giới và người lao động cùng phải nộp phí để nuôi Tổng LĐLĐ Việt Nam: Giới chủ doanh nghiệp phải trích 2% quỹ lương, còn người lao động phải nộp 1% lương để cùng nuôi hệ thống công đoàn do Tổng LĐLĐ Việt Nam dẫn dắt. Dẫu nhận tiền do người lao động đóng góp nhưng Tổng LĐLĐ Việt Nam chưa bao giờ vì họ. Người lao động tại Việt Nam nói chung và công nhân nói riêng, hoặc phải cắn răng, cam chịu thiệt thòi vì bị giới chủ chèn ép, hoặc phải tự vận động theo kiểu của họ. Tháng 8 năm 2015, Tổng LĐLĐ Việt Nam hồn nhiên khoe: 20 năm qua, tại Việt Nam chỉ có “ngừng việc tập thể” để đòi quyền lợi, chưa có cuộc đình công nào đúng nghĩa (theo luật, chỉ có thể xem là đình công nếu được LĐLĐ lãnh đạo) (1). Khoảng một năm sau, tháng 9 năm 2016, Tổng LĐLĐ Việt Nam tiếp tục khoe thêm, trong ba năm kể từ khi Luật Lao động 2012 có hiệu lực, hàng ngàn cuộc đình công đã xảy ra tại Việt Nam đều sai với qui định của pháp luật (2). Đến nay vẫn thế, công nhân vẫn vừa đóng phí công đoàn, vừa tự tổ chức các cuộc “ngừng việc tập thể” để tranh đấu cho quyền lợi của mình. Có một điểm hết sức khôi hài là dù Tổng LĐLĐ Việt Nam kiên quyết đứng bên lề, không để hệ thống công đoàn can dự vào việc đệ đạt yêu sách, tranh đấu cho quyền lợi của người lao động nhằm giữ gìn sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư nhưng ngay cả giới chủ doanh nghiệp cũng không ưa Tổng LĐLĐ Việt Nam vì ăn… dày quá! Cuối năm 2015, Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức cho doanh giới bình chọn “Mười qui định tốt nhất và mười qui định tồi nhất”. Qui định buộc doanh giới phải góp 2% quỹ lương (2% tổng số tiền lương trả cho công nhân) để nuôi Tổng LĐLĐ Việt Nam trong Luật Công đoàn được chọn là một trong “mười qui định tồi nhất”. Tổng LĐLĐ Việt Nam phải vội vàng soạn văn bản, gửi Bộ Chính trị và Ban Bí thư của đảng CSVN xin “chỉ đạo Đảng – Đoàn ở VCCI ngưng việc bình chọn đối với Luật Công đoàn 2012” (3). Trong văn bản ấy, Tổng LĐLĐ Việt Nam vừa phê phán VCCI bình chọn chuyện buộc doanh giới phải nộp 2% quỹ lương cho Tổng LĐLĐ Việt Nam là một trong “mười qui định tồi nhất”, hoàn toàn không chính xác, không hợp lý, không hợp tình, thiếu hiểu biết về tổ chức công đoàn, vừa nhấn mạnh, suốt 55 năm vừa qua, Tổng LĐLĐ Việt Nam đã tận tâm thực hiện và hoàn thành “các nhiệm vụ mà đảng và nhà nước giao”, cho nên đảng và nhà nước cần can thiệp để “uy tín” của Tổng LĐLĐ Việt Nam không bị vấy bẩn, cũng như để Tổng LĐLĐ Việt Nam tiếp tục nhận được khoản thu tương đương 2% quỹ lương mà doanh giới phải nộp, có như vậy Tổng LĐLĐ Việt Nam mới đủ sức, tiếp tục dẫn dắt hệ thống công đoàn. *** Trong bối cảnh như hiện nay, CPTPP và EVFTA là những chiếc phao cứu sinh cho cả kinh tế lẫn chính trị Việt Nam. Đó là lý do Việt Nam phải cố gặm 3/8 khúc xương còn lại trong Tuyên bố ILO 1998, nếu muốn CPTPP và EVFTA phát huy tác dụng hỗ trợ chuyện sống còn. Tháng 11 năm ngoái, khi các đại biểu của Quốc hội khóa 14 thảo luận về việc phê chuẩn CPTPP, ông Ngọ Duy Hiểu, nhân vật vừa là đại biểu Quốc hội, vừa là Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam, than rằng, phê chuẩn Công ước 98, chấp nhận sự tồn tại của những tổ chức đại diện người lao động độc lập với Tổng LĐLĐ Việt Nam là tạo ra “tiền lệ chưa từng có”. Trong tương lai, chuyện Tổng LĐLĐ Việt Nam phải cạnh tranh với tổ chức đại diện người lao động độc lập, từ tập hợp thành viên, thành lập tổ chức ở cơ sở đến chia sẻ nguồn lực về tài chính được ông Hiểu xác định là… “thách thức lớn”. Ông Hiểu so bì: Hệ thống công đoàn thuộc Tổng LĐLĐ Việt Nam còn phải thực hiện chức năng của đoàn thể chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam, các tổ chức khác chỉ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm lo quyền và lợi ích của người lao động (4)… Cộng ưu tư của ông Hiểu với thực tế – cả người lao động lẫn doanh giới đều đã ngấy Tổng LĐLĐ Việt Nam – tương lai của Tổng LĐLĐ Việt Nam rõ ràng rất đáng ngại. Tuy vậy vẫn không đáng ngại bằng viễn cảnh, Tổng LĐLĐ Việt Nam tan rã, làm sao đảng CSVN duy trì được vai trò “đội tiên phong của giai cấp công nhân”, từ đó đảm nhận thêm vai trò “đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”? Đó là lý do tại sao cách nay nửa năm, khi thảo luận về CPTPP, các đại biểu Quốc hội lưu ý, không để lọt những tổ chức có động cơ chính trị, nhân danh bảo vệ quyền lợi người lao động, can dự vào chính trị, chống phá nhà nước. Làm sao có thể định tính, định lượng để tách bạch rạch ròi giữa bảo vệ quyền lợi người lao động với chính trị?.. *** Cuối cùng, tháng 11 năm ngoái, Quốc hội Việt Nam cũng đã phê chuẩn CPTPP. Những người như ông Hiểu tặc lưỡi “thôi thì chấp nhận thách thức vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Phê chuẩn CPTPP mới là bước khởi đầu, sau đó theo cam kết khi tham gia CPTPP còn phải phê chuẩn các công ước trong Tuyên bố ILO 1998. Trước mắt là Công ước 98. Bởi Luật Lao động, Luật Công đoàn có nhiều điểm mâu thuẫn với tinh thần Công ước 98 nên phải sửa cả những bộ luật này. Những người như ông Hiểu đang an ủi nhau, CPTPP cho Việt Nam thời gian ân hạn là ba năm để chuẩn bị cho việc thực hiện các qui định liên quan đến lao động, thêm hai năm cho việc chuẩn bị thực hiện các qui định liên quan đến tổ chức và hoạt động công đoàn, sau đó, nếu chưa tới nơi, tới chốn, có thể xin các quốc gia thành viên tham gia CPTPP cứu xét, không trừng phạt về thương mại!.. Lần này, mong là ông Hiểu và các đồng chí của ông gặp may! Đầu thập niên 2000, khi đàm phán với Mỹ để ký Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ, Việt Nam từng nằng nặc đòi Mỹ miễn trừ việc thực thi một số điều khoản vì là một quốc gia đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỹ ưng thuận nhưng không may cho Việt Nam là yêu cầu đó của Việt Nam trở thành bằng chứng để Mỹ và nhiều quốc gia khác liên tục áp thuế chống phá giá lên đủ loại sản phẩm xuất cảng của Việt Nam bởi: Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không có “kinh tế thị trường” đúng nghĩa, giá thành sản phẩm có thể không “thực” vì những yếu tố phi thị trường và cần phải điều chỉnh bằng thuế chống phá giá để ngăn chặn cạnh tranh bất chính, bảo đảm công bằng. Năm tới, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ tròn 20 tuổi. Việt Nam đã lạy lục bốn phương, tám hướng gần hai thập niên nhưng vẫn chưa được công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh. Cũng vì vậy, các lợi thế tất nhiên và tự nhiên, lẽ ra có thể hỗ trợ sản phẩm Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới, không những chẳng tạo ra được ưu thế nào mà còn có thể là nguyên nhân dẫn tới việc phải lãnh thuế chống phá giá! Xét về bản chất, việc Quốc hội như Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam bàn về những qui định cho phép thành lập các tổ chức bảo vệ quyền lợi người lao động, độc lập với Tổng LĐLĐ Việt Nam cũng giống như bàn chuyện chặt… đuôi. Ngày 30 tháng 4, giới thiệu Dự luật Sửa Luật Lao động, tờ Pháp Luật TP.HCM hào hứng giật tít:“Đề xuất người lao động có quyền thành lập công đoàn độc lập” (5). Vài tiếng sau, tờ báo này vội vàng sửa tít vừa kể thành “Lấy ý kiến về Bộ luật Lao động sửa đổi đến ngày 28-6-2019” (6). Đó là một bằng chứng thú vị về mức độ thành tâm, thiện ý của hệ thống chính trị. Chặt đứt hẳn đuôi hay chỉ một mẩu để đuôi tiếp tục ve vẩy thì còn tùy. Chỉ có điều Dự luật Sửa Luật Lao động “khéo” đến thế nào thì Công ước 98 vẫn thẳng tuột như đã biết. Chẳng riêng công nhân mà tất cả các giới, kể cả lực lượng vũ trang đều có thể thành lập những tổ chức bảo vệ quyền lợi của họ. Muốn ngăn chặn, hạn chế cứ… thử. CPTPP đã phê chuẩn và EVFTA đang để ngỏ chờ ký chắc chắn không như Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam – vi hiến cũng chẳng sao! Chú thích (1) https://tuoitre.vn/20-nam-qua-chua-co-cuoc-dinh-cong-nao-dung-luat-948135.htm (2) http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2016-09-08/chua-co-cuoc-dinh-cong-nao-theo-dung-quy-dinh-phap-luat-35381.aspx (3) https://vov.vn/tin-24h/dung-ngay-viec-binh-chon-tot-nhattoi-nhat-voi-luat-cong-doan-512054.vov (4) https://plo.vn/thoi-su/them-to-chuc-canh-tranh-voi-cong-doan-tien-le-chua-tung-co-801221.html (5) https://www.facebook.com/hoang.t.giang.58/posts/10158395054938098 (6) https://plo.vn/xa-hoi/lay-y-kien-ve-bo-luat-lao-dong-sua-doi-den-ngay-2862019-830972.html  
......

Tin từ võ đài

Thuan Van Bui| Hội nghị Trung ương 10, dự kiến diễn ra vào giữa tháng 5.2019. Trước cuộc so găng nhằm triệt hạ đối thủ tranh ăn, các đồng chí thường có nhiều trò để giảm sức lực đối thủ, thậm chí cho người đâm lén đối thủ. Dưới đây là tin tức sôi động từ võ đài khắp mọi miền tổ quốc. Võ sĩ Nguyễn Đức Chung hôm qua bị đâm nhát thấu xương, khi BCA bất ngờ khám xét chuỗi cửa hàng của Nhật Cường Mobile. (Từ lâu giang hồ và giới thạo tin đều cho rằng: Nhật Cường là sân sau của Nguyễn Đức Chung). – Báo Thanh Niên đưa tin: “Nhật Cường ‘ông trùm’ các dự án công trực tuyến của Hà Nội”. – Tiền Phong đâm nhát chí mạng với bài: “Nhật Cường từng được chỉ định thầu nhiều dự án ở Hà Nội”. – Điều lạ lùng là: Bộ Công an khám xét, lục tung Nhật Cường Mobile vì nguyên nhân gì thì không thấy báo nào nói đến. Đặc biệt, chuyện doanh nghiệp được chỉ định thầu hay ông trùm trong lĩnh vực nào đó vì là sân sau cho quan chức trong chế độ này đâu có ít? Có thể nói là quá nhiều. Tại sao Nhật Cường dính đòn thì phải xem lại cách ăn ở, đi lại, ăn chia của ông Chung hoặc thậm chí là đàn anh của Chung con. 2. Vẫn là tin buồn cho nhân dân Hà Nội, võ sĩ Hoàng Trung Hải cũng đang bị đấm không trượt phát nào. – Một Thế Giới có bài: “Thái Nguyên hứng chất thải nguy hại của Formosa”. – Trong khi đó, Tuổi Trẻ (một tờ báo được cho là nhận tiền tài trợ từ băng thủ tướng) đã có phát đấm nốc ao với bài: “Hằng năm, Formosa phát sinh hơn 3 triệu tấn chất thải rắn”. (Tại sao chuyện Formosa xả thải độc hại được đảng nhà nước giấu như mèo giấu cứt trong hơn 2 năm qua, bây giờ lại được báo chí khui ra, với những số liệu khủng như vậy? Điều này được giới thạo tin cho rằng là nhằm đấm thẳng mặt Hoàng Trung Hải, người ký cho Formosa đầu tư với nhiều “ưu đãi” vượt mức các dự án thông thường. Trong đó có nhiều điều khoản về diện tích cho thuê đất, giá thuê đất rẻ mạt, nhiều điều khoản về tiêu chuẩn chất thải, môi trường cực kỳ tai hại…). Ảnh: Trịnh Văn Chiến xun xoe cạnh Thủ tướng trong lễ kỷ niệm 990 Thanh Hóa 3. Trong khi đó võ sĩ Trịnh Văn Chiến, Bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa có vẻ đã chắc xuất “trụ hạng”, thậm chí có thể còn được bố trí vào vòng tiếp theo. Hôm qua, Thủ tướng Phúc dự lễ kỷ niệm 990 năm Thanh Hóa, Trịnh Văn Chiến rạng rỡ bước đi, đứng cạnh thủ tướng tươi cười, xun xoe các kiểu. (Trịnh Văn Chiến được dư luận và báo chí cho rằng: Đã nâng đỡ trong tối hót gơn Quỳnh Anh thăng tiến thần tốc). 4. Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cũng đang bị đánh. Trên báo điện tử Tầm Nhìn có bài: “Người tự xưng Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh có hành vi ‘lạ’ đe dọa đến sự an toàn của công dân?”. Trong đó có người tên Nguyễn Thắng Cảnh đã làm đơn tố cáo Trần Tuấn Anh có hành vi đe dọa sự an toàn của gia đình ông. Vụ việc có liên quan đến chuyện xe biển xanh đón vợ Bộ trưởng ở sân bay. 5. Các võ sĩ phía Nam như Tất Thành Cang, Lê Thanh Hải có vẻ đã được cho hạ đài an toàn. Việc Hải, Cang bị đấm nằm sàn gần như là không thể! 6. Vụ kỷ luật hàng loạt tướng ở quân khu 9 phía Nam cũng là các đòn làm giảm sức khỏe của đối thủ./.  
......

Đổi tên trạm thu phí – Ý đồ không hề đơn giản

“Việc đề xuất đổi tên thành ‘trạm thu tiền sử dụng dịch vụ đường bộ’ sẽ xóa nhòa cái tên B.O.T, cho phép Bộ Giao Thông Vận Tải tiếp tục đưa ra hàng loạt khoản thu thay thế với rất nhiều lý do để biện minh rằng đó không còn là khoản phí sử dụng dịch vụ của nhà đầu tư kinh doanh thuần túy. Khi đã được luật hóa thì mọi ý kiến phản đối những sai phạm của các B.O.T bẩn sẽ bị bẻ lái từ phản đối với chủ đầu tư, phe nhóm lợi ích sang nhà nước, đương nhiên sẽ vấp phải rào chắn vững chắc nhất mà các nhóm lợi ích có thể sử dụng.” Bót thất thủ xả trạm - Lý do phải đổi thành Trạm Thu Tiền: https://youtu.be/OFUhPvtRN-Y Theo tin từ TTO ngày 07/05/2019, Bộ Giao Thông Vận Tải (GTVT) vừa đưa ra ý kiến về dự thảo liên quan việc xây dựng, tổ chức hoạt động thu phí sử dụng giao thông đường bộ. Theo đó, Bộ Giao Thông Vận Tải đưa vào dự thảo đề xuất đổi trạm thu phí (B.O.T) thành “trạm thu tiền”. Câu chuyện thật như đùa này nhìn qua tưởng như Bộ Giao Thông Vận Tải đang “quan tâm, có trách nhiệm” nhiều lắm. Nhưng nhìn lại và liên kết với chuỗi những phát ngôn và hành động của Bộ GTVT gần đây thì nó không đùa và cho thấy một sự thật khác hẳn. Không có tên nào phù hợp hơn “trạm thu phí”. Năm 2018, khi cao trào bùng nổ các cuộc phản đối B.O.T lan rộng cả nước, để đối phó thì Bộ Giao Thông Vận Tải từng có một đề xuất gây cười tương tự là đổi “thu phí thành thu giá”. Đề xuất này của Bộ GTVT đã vấp phải một làn sóng châm biếm ồn ào, trở thành đề tài để ngay nghị trường quốc hội cũng phải tham gia. Nếu không có ý kiến từ Chủ tịch quốc hội (QH) thì rất có thể các trạm thu phí sẽ đã yên ổn cái tên “thu giá” vừa tối nghĩa vừa kệch cỡm. Cái kết của đề xuất tên “trạm thu giá” tuy không được dùng. Nhưng những người phản đối B.O.T bẩn thì đối mặt cuộc trấn áp, bắt bớ bởi bộ máy vũ lực được huy động từ dưới lên trên tham gia. Tất nhiên, các kết luận điều tra với tội danh “gây rối trật tự công cộng” được ký, đóng dấu như trường hợp Hà Văn Nam là điều dễ hiểu vì nó vốn rất thường thấy trong cách mà chính quyền thường áp dụng với người dân. Cho dù bản chất việc trả tiền phí giao thông (B.O.T) chỉ là giao dịch mua bán dân sự. Trạm thu phí chỉ là một điểm kinh doanh của doanh nghiệp đã biến thành “nơi công cộng” để nhà nước ra tay can thiệp. Trở lại đề xuất đổi tên “trạm thu phí sử dụng dịch vụ đường bộ” thành “trạm thu tiền sử dụng đường bộ”. Mới nghe qua cái tên có vẻ ngớ ngẩn , chắc chắn hầu hết ngạc nhiên đặt ra câu hỏi: Không thu tiền thì thu gì? Tất nhiên mục đích chỉ là để thu tiền, nhưng vấn đề đặt ra là: Việc đổi tên thành “trạm thu tiền sử dụng đường bộ” sẽ giải quyết vấn đề gì? Tại sao lại phải đổi? Cái tên “trạm thu phí” không chỉ là cái tên nghe đã quen mà là từ chỉ đúng nghĩa nhất trong ngôn ngữ của nhân loại để chỉ nó từ khi loại hình mua bán này hình thành tới nay. Không hề có chuyện Bộ GTVT lại ngẫu hứng đưa một cái tên lạ tai như vậy vào đề xuất nhằm hợp pháp hóa bằng luật như vậy. Xóa nhòa bản chất thu phí B.O.T  hay tạo scandal truyền thông để che giấu ý đồ giao đường cao tốc Bắc – Nam cho nhà thầu Trung quốc? Trên thực tế, các “trạm” này dù mang tên gì thì chức năng của nó vẫn chỉ là thực hiện khoản tiền mà người dân đã đi trên đường. Nhưng “trạm thu phí sử dụng dịch vụ đường bộ” thì khác hẳn “trạm thu tiền sử dụng đường bộ”. Vì “sử dụng đường bộ” sẽ không còn sự phân biệt giữa đường kinh doanh B.O.T với đường giao thông công cộng. Loại phí khi sử dụng dịch vụ B.O.T sẽ bị đánh đồng thành khoản thu đương nhiên, không bao hàm ý nghĩa tách bạch nguồn gốc đầu tư có phải trả phí hay không, giá trị lợi ích của sản phẩm hay dịch vụ cụ thể như thế nào. Đọc kỹ cái tên “trạm thu tiền sử dụng dịch vụ đường bộ” sẽ thấy lý do ẩn sau cái tên có vẻ “mộc mạc” này. Mặc dù phong trào phản đối các trạm B.O.T sai vị trí, thu gian, thu quá hạn, v.v. bị chính quyền đàn áp nặng tay nhưng đã đặt ra nhiều khó khăn hơn cho các nhóm lợi ích giao thông do Bộ Giao Thông Vận Tải quản lý. Trạm B.O.T Trung Lương – Sài Gòn phải trì hoãn nhiều lần quyết định thu phí trở lại chỉ là một chỉ dấu cho thấy điều mà các nhóm lợi ích trong Bộ GTVT không muốn, bằng chứng là Bộ GTVT vẫn đang ráo riết vận động và tìm lý do cho trạm này thu phí trở lại sau khi đã thu hết thời hạn. Khoản tiền thu khổng lồ từ các trạm B.O.T hàng ngày trên cả nước của các nhóm lợi ích đã khiến quan chức Bộ GTVT mờ mắt. Việc đề xuất đổi tên thành “trạm thu tiền sử dụng dịch vụ đường bộ” sẽ xóa nhòa cái tên B.O.T, cho phép Bộ GTVT tiếp tục đưa ra hàng loạt lý do để hợp thức khoản thu nghe có vẻ có lý hơn. Kèm theo những chiêu trò lươn lẹo câu chữ để biện minh rằng đó không còn là khoản phí sử dụng dịch vụ của nhà đầu tư kinh doanh thuần túy. Khi đã được luật hóa thì mọi ý kiến phản đối những sai phạm của các B.O.T bẩn sẽ bị bẻ lái từ phản đối với chủ đầu tư, phe nhóm lợi ích sang nhà nước, đương nhiên sẽ vấp phải rào chắn vững chắc nhất mà các nhóm lợi ích có thể sử dụng. Gần đây, Bộ GTVT trở thành một trong những tâm điểm chú ý của dư luận liên quan dự án đường cao tốc Bắc – Nam. Theo những gì mà các quan chức Bộ GTVT phát biểu trên truyền thông thì dự án này Bộ GTVT thể hiện rất rõ ý đồ sẽ chọn giao cho nhà thầu Trung Quốc thực hiện. Một trong những chủ ý mà đa số người dân và cả truyền thông lẫn một số cán bộ có lương tâm, trách nhiệm thật sự phản đối quyết liệt. Khi thời hạn mở thầu càng gần thì thông tin hỏa mù từ Bộ GTVT càng xuất hiện nhiều hơn. Hàng loạt lý do, báo cáo từ Bộ GTVT với các nội dung: “chỉ nhà thầu Trung Quốc quan tâm; chỉ doanh nghiệp TQ đáp ứng đủ các điều kiện; doanh nghiệp trong nước không đủ năng lực, v.v.” được đưa ra cho thấy mục đích giao thầu cho nhà thầu Trung Quốc đã được Bộ GTVT xác định ưu tiên số 1, bất chấp các phản biện và ý kiến phản đối của người dân lẫn các chuyên gia. Khả năng Bộ GTVT sẽ còn nhiều chiêu trò để nhà thầu Trung Quốc thắng thầu đường cao tốc Bắc – Nam. Nhưng phản đối của dư luận vẫn là trở ngại không hề nhẹ. Việc tung ra đề xuất đổi tên trạm thu phí thành “trạm thu tiền sử dụng dịch vụ đường bộ” là một mũi tên bắn 2 đích vô cùng thâm độc. Kết quả thế nào thì Bộ Giao Thông Vận Tải vẫn đạt được mong muốn nhất định cho dù có được phê chuẩn hay không. Thiên Điểu Nguồn: Việt Nam Thời Báo BOT vỡ trận, đất nước vỡ nợ Bộ Giao Thông Vận Tải bó tay  
......

Nhà hoạt động Lê Anh Hùng bị cưỡng bức điều trị tâm thần

Bà Trần Thị Niệm và nhà báo Nguyễn Vũ Bình vào thăm nhà hoạt động Lê Anh Hùng.  Nguyễn Vũ Bình  - RFA Nhà hoạt động Lê Anh Hùng hiện đang bị đưa vào Bệnh viên Tâm Thần Trung Ương I tại Hà Nội. Thân nhân của nhà hoạt động Lê Anh Hùng gồm mẹ là bà Trần Thị Niêm, em trai, được cho thăm gặp và thông báo cho các bạn bè của nhà hoạt động này. Theo đó thì ông Lê Anh Hùng trông rất phờ phạc, yếu đi. Gia đình cho biết ông Lê Anh Hùng bị cưỡng bức tiêm thuốc điều trị tâm thần. Bản thân ông này ý thức được biện pháp đó và nhờ thân nhân chuyển lời kêu cứu đến các nhà hoạt động khác đang ở bên ngoài lên tiếng giúp đỡ. Nhà báo Nguyễn Vũ Bình tại Hà Nội và cũng là người cùng gia đình đến thăm nhà hoạt động Lê Anh Hùng cho chúng tôi biết thêm thông tin: “Bây giờ thì đang ở trong bệnh viện tâm thần nhưng ở đó nó có một khu vực riêng mà chỗ đó không được ra vào tự do, phải có tên thăm nuôi nó gần như là trại tù đó  nó không khắt khe bằng thôi vào thăm cũng phải có danh sách ấy không phải ai muốn vào cũng được. Hiện nay Hùng đang ở với ba người nữa và một phòng bệnh có 4 người và mấy người này cũng không kích động lắm vì họ ở bệnh lâu năm rồi nên cũng không gây khó khăn gì nhiều.” Ngoài ra, nhà báo Nguyễn Vũ Bình còn cho hay vì đã có kết luận giám định tâm thần nên vụ án xét xử nhà hoạt động Lê Anh Hùng đã được tạm đình chỉ. Đài Á Châu Tự Do không thể liên lạc được với Bệnh viện và trại giam để xác định thông tin được phía gia đình và người thân ông Lê Anh Hùng cho biết. Nhà hoạt động Lê Anh Hùng từng có đơn gửi đến nhiều cấp và cả đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc để tố cáo một lãnh đạo cao cấp hiện còn đương chức. Đơn thư của ông Lê Anh Hùng không hề được giải quyết. Ông Lê Anh Hùng cũng tham gia nhiều hoạt động gồm phản đối Trung Quốc gây hấn với Việt Nam, bảo vệ môi trường, cổ xúy cho dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam. Ông từng bị cưỡng bức đi khám tâm thần lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2018. Lần thứ hai là vào tháng tư vừa qua. ***** Nguyễn Vũ Bình THÔNG TIN VỀ TNLT LÊ ANH HÙNG Nhận được thông báo của công an về việc Lê Anh Hùng đã có kết luận giám định bị tâm thần (tạm đình chỉ vụ án), nay đã chuyển tới bệnh viên Tâm thần Trung ương I, Thường Tín để điều trị, chúng tôi đã đi cùng với mẹ Lê Anh Hùng là bác Niêm tới bệnh viện để thăm gặp. Mặc dù là bệnh viện điều trị, nhưng chỉ có mẹ và em trai Lê Anh Hùng được thăm gặp. Sau thời gian thăm gặp khoảng hơn nửa tiếng, bác Niêm đã cho chúng tôi biết về tình trạng của Lê Anh Hùng như sau: Lê Anh Hùng gầy, yếu, dáng phờ phạc. Hùng nói, lần đầu bị cưỡng bức đi khám tâm thần tháng 10/2018, Hùng đã tuyệt thực để phản đổi. Nhưng họ đã cho người đè ra, truyền thức ăn qua đường mũi, miệng đến chảy cả máu. Nên việc tuyệt thực phản đối của Hùng không thành công. Lần thứ hai, Viện Kiểm sát yêu cầu giám định lại, từ 01/4 đến 22/4 và sau đó đã đưa trở lại bệnh viện để cưỡng bức điều trị tâm thần vào ngày 07/4 vừa qua. Hiện nay, Lê Anh Hùng bị cưỡng bức tiêm thuốc điều trị tâm thần. Lê Anh Hùng nhờ mẹ (bác Niêm) nói với tất cả anh chị em tranh đấu giúp để chấm dứt tình trạng cưỡng bức điều trị tâm thần. Vì người bình thường bị bắt tiêm thuốc và uống thuốc tâm thần sẽ bị hủy hoại sức khỏe và sự minh mẫn. Lê Anh Hùng cũng cảm ơn tất cả các tổ chức, hội nhóm, đoàn thể và các anh chị em đã quan tâm lên tiếng, giúp đỡ Lê Anh Hùng và gia đình trong suốt thời gian Hùng ở tù đến nay. Lê Anh Hùng vẫn kiên định và vững vàng trong cuộc đấu tranh của mình. Vậy xin trân trọng thông báo tình hình của Lê Anh Hùng tới quý vị, kính mong sự quan tâm của tất cả anh chị em và dư luận. Fb Nguyễn Vũ Bình  
......

An ninh hay côn đồ?

Ảnh: Bên ngoài phiên sơ thẩm Ba Sàm, 23/3/2016. Võ Văn Tạo Tôi, nhà báo Võ Văn Tạo, cực lực phản đối và lên án lực lượng an ninh điều tra bộ Công an đã bắt cóc tôi và hành xử phi pháp, hung bạo chẳng khác côn đồ vào tối 4 và ngày 5/5/2019 vừa qua, tại địa bàn Thủ đô Hà Nội. Cuối chiều 4/5, tôi nhờ bạn cùng lớp ĐH Ng Thương HN với tôi là anh Đàm Đình Vinh chở xe máy đến thăm gia đình blogger Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) ở khu Trung Tự. Sau đó 2 chúng tôi đi thăm gia đình anh Trần Ngọc Hoàng, bạn cùng lớp ĐH, ở phố Đại La. Chia tay vợ chồng anh Hoàng, đang đi trên đường thì bất ngờ có 2 chiếc xe máy (4 thanh niên) áp sát, chèn xe chúng tôi vô lề đường và họ xốc nách tôi lên 1 xe máy, chạy kẹp 3 về trụ sở Trực ban An ninh điều tra Bộ C.A ở số 3, Nguyễn Gia Thiều. Một xe trong bọn chúng chặn anh Đàm Đình Vinh, để anh không thể biết chúng đưa tôi đi đâu. Trên đường chạy xe, gã thanh niên ngồi ôm tôi liên tục hăm dọa rất mất dạy: “Già rồi, xương giòn đấy…”. Về đến số 3 Nguyễn Gia Thiều, mặc cho tôi liên tục phản đối chúng vi phạm trắng trợn quyền tự do đi lại của công dân và bác bỏ yêu cầu “làm việc”, “viết tường trình”, lập và “ký biên bản” của chúng, chúng vẫn giam giữ trái phép tôi đến khuya, bẻ tay tôi để cướp điện thoại và CMND. Đến khuya, chúng cho xe ô tô đưa tôi về nhà anh Đàm Đình Vinh, nói 13h30 hôm sau mới trả đt và CMND tại 3 Ng Gia Thiều. Tôi yêu cầu chúng viết biên lai thu giữ giấy CMND và điện thoại, chúng không viết. 13h30 ngày 5/5, anh Đàm Đình Vinh chở tôi đến lấy lại CMND và điện thoại, thì chúng nói thác đi là người giữ đang canh nhà Vinh Ba Sàm và mỗi lúc cứ lần lữa đến tối, chúng mới trả CMND và điện thoại. Lúc chúng giữ điện thoại, pin còn đầy. Khi trả, hết sạch pin. Trong khi giam giữ tôi trái phép, chúng tuyên bố trắng trợn rằng chúng muốn ngăn cản mọi người đến chúc mừng anh Ba Sàm khi anh ra tù, trở về nhà vào ngày 5/5. Tôi kiên quyết phản bác lập luận sai trái và động thái vô ích ấy, khẳng định yêu mến, chào đón ai là quyền của mỗi người dân. Việc ngăn cản thô bạo là phi pháp và không thể ngăn cản mãi, không thể điều khiển tư tưởng, tình cảm, quan điểm, thái độ chính trị của mọi người có lương tri. Tôi cũng nói thẳng với họ: chức năng của công an là bảo vệ pháp luật, nhưng chính họ đã ngang nhiên chà đạp, ngồi xổm lên pháp luật. Những hành vi xâm phạm nhân quyền thô bỉ như thế này chỉ làm công chúng và quốc tế thấy bộ mặt thể chế này thêm lem luốc mà thôi.  
......

Nhà Nước & Nhà Thổ

Đưa người cửa trước rước người cửa sau. (Kiều) Tưởng Năng Tiến| Tôi không rõ năm sinh hay ngày qua đời của thi sĩ Bùi Giáng nhưng vẫn nhớ hoài hai câu thơ (ngơ ngác) mà ông viết từ cuối thế kỷ trước, sau khi tầu vũ trụ Soyuz 37 được phóng lên không gian, vào hôm 23 tháng 7 năm 1980: Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Khi không anh bỗng nhẩy tưng lên trời! Sao mà (khi khổng) khi không được, cha nội? Ðây là một cú “nhẩy” lịch sử, được chuẩn bị rất kỹ càng và chu đáo, chớ bộ – theo như lời của chính phi hành gia Phạm Tuân: “Khi đi tôi mang theo Tuyên ngôn Độc lập, bản Di chúc của Bác Hồ, một nắm đất Ba Đình, một lá cờ Tổ quốc, hai Huy hiệu của Bác Hồ và ảnh của Bác. Tất cả những ảnh, cờ và sách đều được đóng dấu trong vũ trụ. Nắm đất Ba Đình, lá cờ Tổ quốc, Tuyên ngôn Độc lập, Di chúc của Bác và ảnh của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đều thể hiện chủ quyền độc lập dân tộc Việt Nam đưa lên vũ trụ, đóng dấu ở trên vũ trụ cũng là khẳng định người Việt Nam sánh vai cùng với quốc tế và đã có mặt trên vũ trụ.” Cách “thể hiện chủ quyền độc lập dân tộc Việt Nam” của Phạm Tuân, dường như, không được dân Việt tận tình chia sẻ. Họ nhìn vấn đề, ngó bộ, hơi sai: Cơm ăn một gạo hai mì Mày vào vũ trụ làm gì hở Tuân? Đúng là ý kiến của đám đông hàm hồ và thất học, không có căn cứ hay cơ sở gì ráo trọi. Người ta “quá giang” vào vũ trụ, có phải mua vé đâu mà lo tốn kém hay đủ thiếu Tuy tiếng là đi “ké” nhưng lúc về người hùng không gian vẫn được đón rước vô cùng đình đám – theo như tường thuật của báo Công An Nhân Dân:  “Ngày ông trở về Việt Nam, người dân đứng suốt dọc con đường từ sân bay Gia Lâm về Hà Nội với những bức ảnh chân dung Phạm Tuân, cờ hoa, biểu ngữ chào đón. Lúc đó ông thấy một cảm xúc xúc động đến nghẹt thở cứ dâng tràn trong lòng.” Quả là một ngày vui. Đời là vạn ngàu sầu nên những ngày vui bao giờ cũng hiếm. Phải đợi mãi đến hôm 3 tháng 5 năm 2019,  dân Hà Nội mới có dịp trải qua một buổi chiều tưng bừng khác, khi Nhà Nước tổ chức một cuộc chào đón linh đình và trọng thể, dành cho cô Đoàn Thị Hương: – Bộ Ngoại giao Việt Nam đang chuẩn bị đưa Đoàn Thị Hương về nước – Bộ Ngoại giao đang triển khai thủ tục cần thiết để đưa Đoàn Thị Hương về nước – Đã xác định ngày trả tự do cho Đoàn Thị Hương – Bộ Ngoại giao: Đoàn Thị Hương được thả là nỗ lực bảo hộ công dân – Đoàn Thị Hương xuất hiện tại sân bay Nội Bài – Cận cảnh Đoàn Thị Hương trở về Việt Nam tối 3/5 – Đoàn Thị Hương về Việt Nam, được chào đón như diễn viên điện ảnh tại sân bay Nội Bài Thiệt là quá đã, và quá đáng! Không ít kẻ, xem ra, chả thấy hào hứng hay “nồng nhiệt” gì cho lắm: Võ Ngọc Ánh: Lưu manh đang tung hô một kẻ giết người như một minh tinh. Trần Thị Sánh: Mấy hôm nay, tràn ngập các mặt báo hoan hỉ đưa tin Đoàn Thị Hương trở về. Mình đọc cứ thấy nó sượng sượng, dơ dáy thế nào ấy …. Lê Dũng: Càng ngày chúng ta càng thấy, Lý Thông giờ không phải là một mà chúng là cả một đảng, cả một chính quyền. Đảng Lý Thông, chính quyền Lý Thông.  Nghiem Vietanh: Khởi đầu thì nhà sản vệ xem như chuyện của người ta,nên tỏ thái độ thờ ơ,vô trách nhiệm. Sau những diễn biến thực tế,bị dư luận,trong ngoài nước chửi rủa sml, nhà sản vệ mới làm màu, cố tạo ra chút váng…để lợi dụng. Hôm qua cô “sát thủ đầu mưng mủ” được tha tội, cho về cố quốc, cung đình sản vệ cử người đón rước hoành tráng hơn cả siêu sao, khoa trương và lộ liễu, kệch cỡm đến bỉ ổi… Ngô Thanh Tú: Khi những kẻ như Vũ Quang Hùng-người ám sát GS Nguyễn Văn Bông khiến ông chết ngay tại chỗ được tôn vinh như người hùng, thì việc cô Đoàn Thị Hương ám sát thành công Kim Jong Nam được truyền thông tiếp đón như minh tinh thì đâu có gì là lạ. Vì xét trên nhiều mặt cả hai việc làm này đều là khủng bố, giết người như nhau. Do Duy Ngoc: Xã hội hôm nay mọi giá trị đều bị đảo lộn. Đạo lý, đạo đức nháo nhào chẳng còn biết đâu là giá trị thật của cuộc sống. Kẻ bán nước được tôn sùng như thánh nhân. Tên trùm xã hội đen cho vay nặng lãi, đâm thuê chém mướn thành thần tượng của tuổi trẻ. Kẻ giết người được tung hô như một anh hùng. Mai Thy : Cô ấy đã được đào tạo để trở thành một sát thủ Quốc tế, và vừa được trả từ sự giúp đỡ của rất nhiều những người yêu nước mà cộng sản gọi là “phản động”. Và giờ thì được chính Phủ VN chào đón long trọng … Nói nào ngay thì “chính phủ VN” không chỉ “chào đón long trọng” phi hành gia Phạm Tuân hay sát thủ Đoàn Thị Hương. Trong vài thập niên qua, kể từ khi Đảng quyết tâm và dũng cảm đổi mới, vẫn luôn luôn có những cuộc đón rước tưng bừng tương tự: – Chủ tịch Nguyễn Minh Triết chào đón kiều bàovề quê ăn Tết – Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang gặp gỡ kiều bào vui Xuân quê hương –Chủ tịch nước Trần Đại Quang gặp gỡ các đại biểu kiều bào về nước đón Tết – Tổng Bí thư, Chủ tịch nướcNguyễn Phú Trọng nhiệt liệt chào mừng kiều bào từ khắp nơi trên thế giới trở về quê Cha đất Tổ ăn Tết Nói là “nhiệt liệt chào mừng kiều bào từ khắp nơi về quê cha đất tổ ăn Tết” nhưng tưởng cũng cần “chua” thêm cho rõ (để tránh mọi sự hiểu lầm không cần thiết) là cũng có đôi ba trường hợp ngoại lệ: Đám kiều bào ở Miên/Lào (không có, hoặc có rất ít tiền đô) thì khỏi à nha. Đám người Thượng Tây Nguyên, thường được xe tải của Liên Hiệp Quốc chở về bằng đường bộ – qua cửa khẩu Lệ Thanh, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai – cũng thế. Tuy cùng là dân “vượt biên trái phép” hết trơn, và ai cũng ra đi chỉ vì “nghe lời bọn xấu” (chỉ trừ mấy cái cột đèn, vì không có tai nên mới ở lại thôi) nhưng Nhà Nước – rất tiếc – không thể tiếp rước họ được. Sao kỳ vậy, cha nội? Cao Miên cũng là nước ngoài, chớ bộ? Đồng ý là thế nhưng phải xét đến sự dị biệt về phong tục nữa. Thượng Kiều về không đúng lúc, không phải dịp Tết, vậy thôi. Tết mới vui chớ. Ngày thường, ai cũng bận thấy bà luôn, làm sao mà đón người về cho được. Ngoài phong tục còn vấn đề phong thổ nữa. Thượng Kiều chả những về không đúng lúc mà còn không đúng chỗ nữa kìa. (Wrong time and wrong place, too). Thay vì lếch thếch về bằng xe tải, qua ngả biên giới của tỉnh Gia Lai, nếu họ dùng phản lực cơ, đáp cái ào xuống phi trường Tân Sơn Nhất … (với chút đỉnh tiền đô kẹp hờ trong passport) thì chuyện đón tiếp – tất nhiên – đã khác, và rất khác. Ở bình diện quốc gia (at national level) thì việc đưa đón đều phải có lý do, và đúng qui trình mới được. Nhà Nước chớ bộ nhà thổ sao mà bạ ai cũng rước. Đón Phạm Tuân và Đoàn Thị Hương linh đình “để nâng cao vị thế VN trên trường quốc tế.” Đón kiều bào từ Âu Mỹ còn linh đình hơn nữa để nâng cao mức kiều hối hàng năm. Chớ đám Thượng Kiều và Việt Kiều Lào/Miên (gì đó) thì ở bển luôn đi. Còn về làm chi cho má nó khi. Tưởng Năng Tiến
......

Formosa: Thủ phạm đã rành rành, đừng lòng vòng nữa!

Đỗ Đăng Liêu| Bây giờ nhà nước cộng sản Việt Nam không còn có thể lu loa là các “thế lực thù địch” bày điều nói này nói nọ nữa bởi vì chính công an Hà Tĩnh đã lên tiếng tố cáo tội ác của Formosa qua một công văn chính thức mới đây vào ngày 6 Tháng 4, 2019. Công an Hà Tĩnh đã tố cáo Formosa đang thải ra “14 nhóm chất thải với danh mục của hàng nghìn tên chất thải khác nhau … vượt ngưỡng, và Formosa không cung cấp cho cơ quan chức năng theo dõi, quản lý.” Theo văn thư của công an, mỗi năm Formosa thải ra một khối lượng chất thải rắn là gần 4 triệu tấn. Để độc giả dễ hình dung, 4 triệu tấn tương đương với một khối có chiều ngang, dọc là 200 mét (2 lần chiều dài của một sân banh) và cao 100 mét (chiều cao của một toà nhà 33 tầng). Trong 3 năm qua, Formosa đã thải ra ít nhất (vì đó chỉ là báo cáo chính thức, mà sự thật phải nhiều hơn mà người dân không được biết) là 3 khối chất thải khổng lồ như tả ở trên đã đi vào lòng đất và biển ở Hà Tĩnh. Và nạn xả thải vẫn đang tiếp diễn. Thật quá sức khủng khiếp! Cứ đà này thì đất nước ta sẽ ra sao? Sau khi công an CSVN lên tiếng, nhiều người đã đặt câu hỏi trách nhiệm này thuộc về ai. Có người cho rằng đó là lỗi của Võ Kim Cự, người đã ký giấy cấp phép mang Formosa tới Hà Tĩnh, Việt Nam. Có người cho rằng đó là lỗi của cựu Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ thị cho Võ Kim Cự. Có người cho rằng đó là lỗi của Bộ Trưởng Tài Nguyên & Môi Trường Trần Hồng Hà. Có người cho rằng đó là lỗi của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc vì đã không thực hiện lời hứa là “Nếu Formosa tái phạm thì sẽ phải đóng cửa!” Sự thật chẳng cần phải tìm đâu xa, cứ nhìn vào cơ cấu lấy quyết định trong guồng máy Đảng Cộng Sản Việt Nam thì thấy ngay. Một thảm họa to lớn khủng khiếp như Formosa mà đứa trẻ con cũng biết thì hẳn nhiên là lãnh đạo các cấp CSVN phải biết, nói gì cấp bộ trưởng, thủ tướng hay cao hơn. Nhưng tại sao họ lại câm như hến và ngồi im bất động. Đơn giản là lệnh “bắt phải im” và “bắt phải câm” đến từ cơ cấu cao nhất là Bộ Chính Trị và cách riêng là Tổng Bí Thư. Đã bắt im, đã bắt câm thì phải im và phải câm thôi! Vì vậy, dù bọn Võ Kim Cự, Trần Hồng Hà, và nguyên cả cái đám kéo nhau xuống biển biểu diễn màn ăn cá không bị ô nhiễm ở Hà Tĩnh sau khi biến cố Formosa nổ ra, … và ngay cả Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Xuân Phúc, … có đáng tội vì tới giờ này vẫn im và câm thì cũng đừng đòi hỏi hay chờ đợi họ mở miệng vì chân tay, mồm miệng của họ đã bị “khoá” cả rồi! Thủ phạm chính hiện nay là đương kim Bộ Chính Trị và cá nhân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vì quyền quyết định đang nằm trong tay. Câu hỏi kế tiếp và hiển nhiên là “bây giờ phải làm gì?” Câu trả lời là phải làm sao để cái cơ cấu lấy quyết định, tức là Bộ Chính Trị, phải lấy quyết định khác hiện giờ, phải trừng phạt Formosa và tống cổ Formosa ra khỏi Việt Nam. Nhưng Bộ Chính Trị hiện giờ có khả năng lấy quyết định trừng phạt Formosa hay không? Hẳn nhiên là không! Ăn đã ngập miệng, không thể mở mồm ra được! Đã hơn 3 năm rồi, thời gian đã quá đủ để hành động nhưng họ đã không hành động, ngược lại chỉ toàn là những dối trá bịt mắt người dân cả nước. Họ đã bị Formosa, công cụ của Trung Cộng, hoàn toàn khống chế và làm tê liệt. Vậy ai có thể làm gì và làm thế nào? Chỉ còn một cách là xóa bỏ tập đoàn lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, hay nói cách khác là xóa bỏ sự cai trị độc quyền, độc ác của Đảng CSVN này đi, và chỉ có khối 97 triệu người dân Việt Nam có thể làm được việc đó. Đảng CSVN còn ngồi đó hay không là quyết định của người dân. Bao giờ thì người dân Việt Nam quyết định dùng quyền của mình? Không nên nói lòng vòng nữa! Đỗ Đăng Liêu Công an Hà Tĩnh ‘bó tay’ với vi phạm xả thải của Formosa  
......

Bùi Chu – Phát Diệm, vì sao là lịch sử?

nhacsituankhanh´sblog| Câu chuyện nhà thờ Bùi Chu đang đứng trước các cuộc tranh cãi là có nên phá bỏ, xây mới, lại rơi vào một thời điểm rất thú vị: kỷ niệm 65 năm những người miền Bắc di cư vào Nam theo tiếng gọi tự do (1954 – 2019). Trong những điều mà người ta bàn tán, và nói Nhà thờ Chánh tòa Bùi Chu, thuộc xã Xuân Ngọc (Xuân Trường, Nam Định) là di sản, là lịch sử bởi được xây vào năm 1884, bởi giám mục người Tây Ban Nha Wenceslao Onate Thuận, nhưng thật ra, ẩn sau đó, là một câu chuyện của niềm tin, máu, nước mắt, oan khiên… không chỉ riêng của người Công giáo, mà còn là cả một chặng dài lịch sử người Việt. Người ta vẫn hay kể những câu chuyện kinh hoàng về người ở lại miền Bắc sau 1954, với Cải cách ruộng đất, với các vụ án xét lại chống Đảng, chiến dịch thanh trừng Nhân văn-Giai phẩm… nhưng rất ít có tài liệu nào nói lại rằng những người chọn ở lại, những linh mục, những giáo dân… đã sống thế nào trong những tháng ngày ấy, cho đến 1975. Từ tháng 7-1954, dòng người ngược xuôi khi chia cắt đất nước, dù không thống kê được đầy đủ, nhưng theo sách Ramesh Thakur, Peacemaking in Vietnam, ước tính rằng có khoảng gần một triệu người từ miền Bắc Việt Nam chạy vào Nam vì từ chối sống dưới chế độ cộng sản. Trong khi đó, chỉ có gần 4.500 người từ Nam ra Bắc. Đa phần họ được gọi tên là dân tập kết đời đầu. Tuy nhiên, đó chỉ là con số thống kê cho đến hết tháng 7 năm 1955. Những cuộc đào thoát sau đó, từ Bắc vào Nam là còn chưa kể đến. Trong số những giáo dân vào Nam, có không ít người từ Bùi Chu – Phát Diệm. Vì lẽ, hơn ai hết, từ năm 1945 họ đã hiểu cộng sản là gì. Đức giám mục Lê Hữu Từ (được tấn phong từ tháng 10/1945) đã nhận ra được ẩn đằng sau Mặt trận Việt Minh là bàn tay của Quốc tế Cộng sản. Chính vì vậy, ngài đã sớm hậu thuẫn cho tổ chức Việt Nam Công giáo Cứu Quốc, nhằm tách biệt với hàng ngũ người Cộng sản, đặc biệt trong bối cảnh mọi người Việt Nam đều quyết kháng Pháp để đòi độc lập dân tộc. Đó không phải là suy đoán, vì tài liệu nghiên cứu (2009) nằm trong tàng thư của Tòa tổng giám mục Sài Gòn, được tổ chức bởi Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn từ năm 2007, có ghi lại rằng Đức cha Lê Hữu Từ đã công khai tách bạch giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản với người đứng đầu của chế độ miền Bắc là chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1946, khi về Phát Diệm để tạo hòa hoãn với Đức cha Lê Hữu Từ, trong vai trò là Giám mục cố vấn chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghe trực tiếp lời tuyên bố của Đức cha rằng “Tôi và toàn dân Công giáo Phát Diệm đoàn kết và triệt để ủng hộ Cụ trong công cuộc chống thực dân Pháp, giành độc lập cho tổ quốc Việt Nam. Nhưng nếu Cụ là Cộng sản thì tôi chống Cụ, và chống Cụ từ phút này”. Nhưng vào lúc đó, ông Hồ Chí Minh vẫn không nhận mình là Cộng sản. Thậm chí ông còn nói với Đức cha Lê Hữu Từ rằng sẽ có một cuộc phổ thông đầu phiếu “toàn dân sẽ định đoạt, Cụ và tôi khỏi phải lo”. Nhưng cuộc phổ thông đầu phiếu đúng nghĩa ấy, không bao giờ có với người miền Bắc sau 1954 và cả nước, sau 1975. Nằm kề nhau, nên hai giáo phận Bùi Chu và và Phát Diệm có cùng một khuynh hướng về đạo và đời. Đó là chưa nói 2 nơi này có cùng một lãnh tụ tinh thần của người Công giáo miền Bắc từ năm 1954 đến 1967, là ngài Thaddeus Lê Hữu Từ, Giám quản Tông tòa hạt đại diện của cả hai nơi này qua từng thời kỳ. Sự mâu thuẫn giữa tổ chức Việt Nam Công giáo Cứu Quốc và Việt Minh tăng dần, dẫn đến những va chạm bằng vũ khí. Theo tài liệu Gibbs, “Battle of Indo-China”, Đức cha Lê Hữu Từ đã có một đội dân quân kháng Pháp và cũng để bảo vệ giáo dân trước Việt Minh, con số được ước tính trong sách nói có lúc đã lên đến 6.000 người. Ủng hộ và yểm trợ cho ngài về mặt chiến sự, được biết có ông Ngô Cao Tùng, chức danh thiếu tá, có nguồn gốc là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Lực lượng vũ trang của ông Tùng được ước tính cũng có khoảng 1.700 người. Đây là một tình cảnh không khác gì với Phật giáo Hòa Hảo ở miền Nam Việt Nam. Một mặt chống Pháp đòi độc lập, nhưng mặt khác người yêu nước phải luôn đề phòng Việt Minh tiêu diệt mình để gồm thâu về một mối cho chủ nghĩa cộng sản. Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập đạo Hòa Hảo, đã cho hình thành Lực lượng Vũ Trang Hòa Hảo (1945), mà tiền thân là Đội Bảo An, sau đó có thêm lực lượng Hòa Hảo Dân Xã của tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) sát nhập vào nhằm bảo vệ mình, cũng như cho cuộc kháng Pháp. Tháng 10-1949, người Pháp bất ngờ nhảy dù đổ bộ xuống đồng Lưu Phương, sát cạnh khu an toàn Phát Diệm, không ai trở tay kịp vào lúc đó. Và cũng chính vì lý do này mà Việt Minh coi hai vùng Bùi Chu-Phát Diệm là ngầm theo Pháp chống lại Việt Minh. Dĩ nhiên đó âm mưu chính trị, mà sau 1954, người công giáo ở Bùi Chu – Phát Diệm còn ở lại miền Bắc bị rơi vào hoàn cảnh khốn khó hơn hết dưới sự kiểm soát của chính quyền Bắc Việt cộng sản. Theo tài liệu “Thái độ của các Giám Mục miền Bắc đối với Cộng sản từ 1945 đến 1954” do nhà chép sử Công giáo Vũ Sinh Hiên ghi lại cho thấy, dù ở trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng suốt trong thời gian đó, Đức cha Lê Hữu Từ vẫn luôn bày tỏ sự bất mãn và chống đối công khai với người Pháp và vua Bảo Đại. Năm 1951, nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh thánh Jean Baptiste de la Salle, Đức cha Lê Hữu Từ đã lấy cớ đó, đọc bài diễn văn nảy lửa, tuyên bố rằng “Người Pháp hãy ở yên tại Paris và Bảo Đại nên về lại Sài Gòn”. Nhưng dù vậy, đến 1954, khi người Pháp ra khỏi Bắc Việt, bắt đầu cuộc chia đôi đất nước, các giáo phận Bùi Chu-Phát Diệm vẫn nằm trong sự thù nghịch của chế độ mới. Tên gọi “những con quạ đen” được truyền thông Nhà nước Marxist đặt tên cho các linh mục và tuyên truyền từ đó. Và rồi, một chương khác đầy khổ nạn đã mở ra. Một chặng lịch sử vừa kiêu hãnh, vừa đau đớn của người Công giáo miền Bắc đã hằn nơi mảnh đất họ sinh sống, hằn nơi tiếng chuông nhà thờ và những phiến đá nham nhở, yếu ớt theo thời gian của các thánh đường, như thánh đường Bùi Chu vậy. Và đó là một phần của câu chuyện dài, để giải thích thêm cho ý nghĩa Bùi Chu – Phát Diệm vì sao là lịch sử. ( Ảnh màu: Nhà thờ Bùi Chu trước khi hạ giải – Ảnh trắng đen, giáo phận Bùi Chu trước năm 1954)  
......

Anh Vinh và anh Thức

Larry De King Anh Nguyễn Hữu Vinh, cha đẻ của trang anhbasam nổi tiếng vừa về nhà hôm qua 5.5.2019, sau 5 năm ngục tù. Anh từng là sĩ quan an ninh thứ dữ, bạn cùng thời với bộ trưởng công an Tô Lâm. Anh xuất thân từ gia đình cách mạng gộc, bố từng là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá, bộ trưởng Bộ Lao Động, uỷ viên TW đảng. Nói tóm lại anh là 1 thái tử đảng thứ thiệt, thuộc diện cơ cấu lên lãnh đạo cấp cao, quan lộ rất thênh thang. Nhưng anh đã từ bỏ con đường đầy bổng lộc đó, chỉ vì muốn góp phần thay đổi đất nuớc thông qua con đuờng khai dân trí, phá vòng nô lệ. Bạn đọc chắc hẳn còn nhớ hơn 10 năm truớc, khi facebook chưa có mặt, đã xuất hiện trang blog anhbasam rất nổi tiếng vì những bài viết, điểm tin rất hay, đa dạng, chính xác, chinh phục hàng triệu khán giả trong và ngoài nước, bỏ xa toàn bộ 800 tờ báo quốc doanh. Tháng 4.2014 anh bị kết tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước” với án 5 năm tù. Đằng sau đó là vì anh quyết liệt chống trung quốc, chống dự án Bô xít Tây Nguyên. Anh Nguyễn Hữu Vinh Trước toà anh tuyên bố mình vô tội, không thèm mặc cả giảm án, và thanh thản nhận 5 năm tù. Ngày hôm qua, hình ảnh của anh thật sự làm ngạc nhiên nhiều người khi anh vui vẻ tươi cuời, đưa 2 ngón tay biểu tượng chiến thắng. Cứ như 5 năm tù chỉ là 1 giấc ngủ trưa. *** Nếu anh Vinh là thái tử đảng với con đường rải đầy hoa hồng đi đến quyền lực thì anh Thức là một kỹ sư doanh nhân thành đạt nhờ vào trí tuệ sáng tạo của mình. Năm 2003 anh đã có 3 công ty viễn thông nổi tiếng có tên One-Connection ở Việt Nam, Singapore và California, cung cấp dịch vụ viễn thông toàn cầu mà thị trường chính là Mỹ, Canada, Úc. Lần đầu tiên có một công ty kỹ thuật Việt Nam nổi lên cạnh tranh với thị trường toàn cầu, One-Connection trở thành 1 hiện tượng gây chú ý giới truyền thông quốc tế. Khi Singapore không ngừng mời mọc trọng đãi anh ở lại Singapore để thu hút nhân tài, anh lại quyết định đưa doanh số ở nước ngoài về VN để tăng ngân sách đóng góp cho quốc gia. Từ đó One-Connection Việt Nam là tổng hành dinh, One-Connection Singapore và Mỹ trở thành 1 tổng đại lý bán hàng cho One-Connection Việt Nam. Đến đây các bạn cần hiểu anh đang là 1 nhà kinh doanh có tầm vóc quốc tế, 1 người Việt Nam duy nhất dám cạnh tranh sòng phẳng với những đại công ty trên thế giới. Tài sản của anh lúc bấy giờ có thể đạt đến con số hàng chục triệu đô. Anh đích thị là một Bill Gates, hay Steve Jobs của Việt Nam. Thức còn là một nhà nghiên cứu kinh tế chính trị thông thái, lỗi lạc. Năm 2008 xuất hiện các bài nghiên cứu phân tích kinh tế rất giá trị gây chấn động giới hàn lâm trong và ngoài nước dưới tên Trần Đông Chấn. Anh viết về tiền tệ Việt nam, về thâu tóm và thôn tính, về bầy thú điện tử, về nhóm lợi ích, về tham nhũng, sức dân và vận mệnh đất nước với cách nhìn khoa học biện chứng, tất cả đều tuân theo quy luật. Lúc ấy cả nước đang còn chưa qua cơn say chứng khoán và nhà đất, anh Thức đã cảnh báo về một cuộc khủng hoảng toàn diện, giống như những gì đang xảy ra hôm nay. Năm 2008 anh bị bắt vì tội “âm mưu lật đổ chính quyền” chỉ vì những bài viết này, và bị kêu án 16 năm. *** Nếu VN là 1 đất nuớc tự do như Mỹ thì 2 anh phải là những ông chủ bự. Anh Vinh phải là 1 đại gia của giới truyền thông như CNN hay Fox News. Còn anh Thức không kém gì Mark Zuckerberg hay Bill Gates. Cuộc đời các anh là 1 bi kịch lớn, và cũng là bi kịch của đất nước. Cả 2 anh Vinh và anh Thức là những trí thức lớn, có lòng yêu nuớc rực lửa mới dám từ bỏ tất cả sự nghiệp huy hoàng, và chấp nhận lao tù để KHAI DÂN TRÍ – CHẤN DÂN KHÍ – HẬU DÂN SINH như bậc tiền bối Phan Chu Trinh từng phát động. Nếu anh Vinh muốn “phá vòng nô lệ” thì anh Thức “chống cuờng quyền”. Anh Vinh thanh thản nhận 5 năm tù. Anh Thức cũng vậy, năm 2016, sau 7 năm tù, dưới áp lực của cộng đồng quốc tế, nhà cầm quyền buộc phải thả anh, nhưng ra 1 điều kiện: Anh phải sống lưu vong. Anh nhất quyết không chấp nhận sự mặc cả đó, và an nhiên với những năm tù còn lại. Cả 2 anh, dù ở tù vẫn làm việc không mệt mỏi, vẫn cảm thấy không đủ thời gian để viết. Với ý chí phi thuờng, tù tội với các anh duờng như chỉ là một khoảng lặng để trui rèn, chiêm nghiệm thêm trên con đuờng tìm chân lý. Nhân cách lớn của 2 anh còn thể hiện qua phong thái thong dong tự tại trong tù. Đặc biệt các anh không hề than trách hay chửi bới chính quyền, và luôn vững tin vào sự thay đổi tất yếu của vận mệnh đất nước *** Hôm nay anh Vinh đã trở về sau 5 năm, cũng là lúc đánh dấu anh Thức đã 10 năm trong tù. Cho đến nay hiếm có 1 người Việt có kiến thức rộng, tầm nhìn xa và tài giỏi như anh, lại yêu tha thiết đất nước mình. Singapore, Mỹ hay bất cứ nước nào đều rất mong muốn có được 1 công dân tinh tuý như thế, chỉ có quê hương Việt nam là muốn trục xuất anh. Đất nước này lạ quá, lạ đến tê tái cả tâm hồn. Sự hy sinh của các anh không hề uổng phí. Các anh không còn cô đơn như trước. Đã có rất nhiều người lĩnh hội đuợc thông điệp và tiếp bước với lý tưởng phụng sự quốc gia. Xã hội hôm nay đã có nhiều tiếng nói cho tự do và công lý, mặc cho bao nhiêu án tù khắc nghiệt, tàn bạo nhằm răn đe từ chính quyền. Xin gửi đến 2 anh lòng kính trọng chân thành. Cầu cho hồn thiêng sông núi phù hộ anh Thức sớm ra tù để tiếp tục thực hiện lý tưởng CON ĐUỜNG VIỆT NAM. PS: Đây là những bài viết của Trần Đông Chấn năm 2008: https://tranhuynhduythucofficial.wordpress.com/tran-dong-chan-blog/ https://tranfami.wordpress.com/…/bai-vi…/changeweneed-blog/…
......

Chim không đậu ở mãnh đất đầy rẫy cạm bẫy

Chu Vĩnh Hải | Theo thông tin từ báo chí nhà nước, ngày hôm nay, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sẽ gặp gỡ khoảng 1000 chuyên gia để bàn về việc đưa đất nước " cất cánh". Liệu Việt Nam sẽ cất cánh? Các nhà chính trị học đã mạnh mẽ khẳng định: Một đất nước không thể phát triển nếu thiếu thiết chế dân chủ. Và thực tế đã khẳng định, nếu không có tự do sẽ không có sáng tạo- tiền đề để phát triển. Nếu không có thiết chế dân chủ, Việt Nam có mở 1000 hội nghị kiểu này cũng chỉ là đánh trống bỏ dùi. Chim không đậu ở mãnh đất đầy rẫy cạm bẫy Những người đứng đầu nhà nước Việt Nam là những người giàu mơ ước. Họ mơ ước Sài Gòn trở thành Paris, Hà Nội trở thành Singapore, Nha Trang trở thành Hawaii, Cần Thơ trở thành Venise… Và mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã mơ ước Việt Nam là bạn “của những người giỏi nhất”. Liệu ước mơ này có trở thành sự thật? "Việt Nam không đặt tham vọng là người giỏi nhất, nhưng muốn là bạn của những người giỏi nhất trong nền kinh tế toàn cầu.", Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu như vậy tại Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Việt Nam (VBS) 2018 ngày 13/9( https://vnexpress.net/…/thu-tuong-viet-nam-muon-lam-ban-voi…). Thủ tướng Phúc đã không đưa ra tiêu chí thế nào là người giỏi nhất khi mà người giỏi trộm cắp, người giỏi lừa đảo, người giỏi cờ bạc, người giỏi đâm chém, người giỏi chém gió....đều được hiểu là người tài giỏi. Nếu xác định “người giỏi nhất” theo tiêu chí là người có tài kinh doanh, người có nhiều ý tưởng, nhà quản trị và điều hành giỏi, chuyên gia giỏi, người có khả năng sáng tạo và phát minh…., liệu nhà nước Việt Nam có trở thành người bạn tốt của “những người giỏi nhất”, hay nói cách khác, có thu hút được nhân tài của thế giới? Hãy ngược dòng lịch sử! Ngay sau khi cướp được chính quyền vào năm 1945, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã dùng nhiều giải pháp để lôi kéo đội ngũ trí thức đứng vào hàng ngũ của mình. Nhiều trí thức người Việt sống ở nước ngoài vốn không hiểu chủ nghĩa cộng sản đã nhanh chóng gia nhập, trong đó có những trí thức lừng danh như Trần Đại Nghĩa, Trần Đức Thảo. Ngoại trừ kỹ sư chế tạo vũ khí Trần Đại Nghĩa có phần nào phát huy được phẩm chất kỹ thuật, đa phần các trí thức khác đều bị thui chột tài năng, và sống một cuộc sống đầy u uẩn. Triết gia Trần Đức Thảo là một thí dụ điển hình. Nhiều trí thức tài hoa đi theo Việt Minh cũng nhanh chóng bỏ ngũ, mà sự “dinh tê”( về thành phố- về vùng Pháp đóng) của nhạc sĩ Phạm Duy là một ví dụ sinh động. Có thể nói trong giai đoạn 1946-1953, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa không thất bại nhưng cũng chẳng thành công trong việc thu hút nhân tài. Mọi chuyện bắt đầu khác đi, hay nói cách khác, chính quyền Hà Nội kể từ ngày trở thành ông chủ của Hà Nội vào năm 1954 đã nhận thất bại trong việc chiêu dụ và giữ chân nhân tài. Sau khi Hiệp định Geneve được ký kết, đã có khoảng 01 triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam, trong đó có gần 310.000 người được đưa đến miền Nam bởi Hải quân Hoa Kỳ, và 500.000 dân được đưa đến miền Nam bởi quân đội Pháp. Trong khi đó 14.000–45.000 cư dân và 100.000 binh sĩ chính quy của Việt Minh từ miền Nam tập kết ra miền Bắc. Sự chênh lệnh về số lượng người lựa chọn di cư chắc chắn phản ánh một điều rằng, có sự chênh lệch về sự lựa chọn di cư của tầng lớp tinh hoa. Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, vào cuối năm 1954, cả miền Bắc có 1800 sinh viên nhưng đã có 1200 sinh viên lựa chọn di cư vào miền Nam. Đa phần các trí thức miền Bắc vốn yêu thích văn hóa Pháp cũng chọn con đường Nam tiến để tìm đến bến bờ mới. Có thể nói, kể từ năm 1955, miền Bắc chỉ có tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa có đặc tính tuân theo, thụ động, không phản biện và không có tư duy sáng tạo. Cũng từ năm 1955 trở đi, trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã có hàng trăm trí thức và văn nghệ sĩ đã bị cầm tù, cải tạo không giam giữ do có những tiếng nói khác với tiếng nói của chính quyền. Trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền, giới trí thức và văn nghệ sĩ đành phải chôn mình vào sự cô đơn như những con ốc mượn hồn. Không có tầng lớp trí thức đúng nghĩa, không có tầng lớp doanh nhân tinh hoa đúng nghĩa, trong suốt hàng chục năm trời miền Bắc đã không cho ra đời một sản phẩm có uy tín. Còn ở miền Nam Việt Nam thì sao? Có thể nói đó là nơi hội tụ tinh hoa Việt để làm nên những giá trị và thành tựu khá rực rỡ. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là minh chứng rõ nét. Vị giáo sư không gian này sinh ra ở Yên Bái nhưng đã lựa chọn miền Nam tự do làm quê hương chính. Ông được cả thế giới khoa học không gian biết đến và ngưỡng mộ khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền Apollo của NASA. Những lý thuyết của GS Nguyễn Xuân Vinh đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền Con thoi trở về trái đất an toàn. Có đội ngũ trí thức giỏi, Việt Nam đã sản xuất được những sản phẩm công nghệ cao dù ngập tràn binh lửa. Vào năm 1972, Sài Gòn chế tạo thành công máy bay huấn luyện quân sự hai chỗ ngồi mang tên Tiền Phong 001. Vào năm 1974, Sài Gòn cho xuất xưởng mẫu xe hơi La Dalat. Trước năm 1975, miền Nam có những thương hiệu và nhãn hàng nổi tiếng Châu Á như xà bông Cô Ba, kem đánh răng Hynos( sau đó đổi tên thành P/S và đã bán lại cho một hãng Mỹ), dầu gió Nhị Thiên Đường, sơn Đông Á, dầu khuynh diệp Bác sĩ Tín, dầu gội Lan Hảo, kem đánh răng Dạ Lan…. Sau biến cố 30-4-1975, Việt Nam được thống nhất. Nhưng các chính sách tàn bạo và sai lầm của Hà Nội như chính sách cải tạo( thực chất là tù không án) đối với quân nhân và viên chức Việt Nam cộng hòa, chính sách cải tạo công thương nghiệp( thực chất là quốc hữu hóa), thay thế các chuyên gia giỏi bằng những người tầm thường trưởng thành từ rừng rú….đã nhanh chóng biến miền Nam thịnh vượng thành một miền Nam tan hoang. Từ năm 1976 đến năm 1989, có khoảng 1,5 triệu người Việt Nam, trong đó có tầng lớp tinh hoa nhất, đã bỏ nước ra đi để tìm đến bến bờ mới dù biết có thể phải bỏ mạng trên biển cả. Cuộc di cư đau đớn nhất trong lịch sử nhân loại đã làm nảy sinh một từ vựng mới đau lòng: thuyền nhân. Trong thời gian đó, ở Việt Nam xuất hiện hai câu thơ khuyết danh tác giả nhói lòng: “Người tài thì đã vượt biên- ở lại một lũ vừa điên vừa khùng”. Sau khi Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế vào năm 1986, Việt Nam cũng thất bại trong việc thu hút nhân tài từ nước ngoài và giữ chân người giỏi trong nước. Cho dù được ưu đãi về các loại thuế và giá thuê đất, không có một hãng công nghệ nào đặt đại bản doanh hoặc cơ sở nghiên cứu tại Việt Nam. Khu công nghệ cao Hòa Lạc hay khu công nghệ cao quận 9- Sài Gòn vẫn chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp trong nước, và những tay chơi nước ngoài có vị thế làng nhàng. Không có trường đại học danh tiếng nào của thế giới mở cơ sở nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam, và dĩ nhiên là không có một đội ngũ giáo sư người nước ngoài ở sống, nghiên cứu và giảng dạy chuyên nghiệp ở Việt Nam. Các trí thức Việt kiều cũng không chọn Việt Nam là điểm đến để sống, lao động, sáng tạo và cống hiến. Những giáo sư lừng danh như Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn....cũng chọn con đường định cư ở nước ngoài để có điều kiện cống hiến cho khoa học và cho sự tiến bộ của nhân loại. Hiện tại, mỗi năm có hàng chục ngàn du học sinh Việt Nam vẫn chọn con đường ở lại nước ngoài để có cơ hội tốt hơn. 100% người chiến thắng cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia của Đài truyền hình Việt Nam sau khi tốt nghiệp đại học ở Úc đã ở lại Úc để làm việc. Họ hiểu, họ chỉ phát huy được năng lực và trí tuệ của mình ở một môi trường khác hẳn Việt Nam. Việt Nam chưa bao giờ thu hút được người giỏi- người tài trong tất cả mọi lĩnh vực. Tại sao lại thế? Có thể người giỏi của thế giới sợ hãi một Việt Nam có giao thông lộn xộn? Có thể họ sợ Việt Nam có môi trường ô nhiễm, thực phẩm độc hại? Có thể là thế, nhưng chưa đủ. Điều quan trọng nhất, những người giỏi- người tài cần có tự do tuyệt đối để thể hiện, để khẳng định mình và để sáng tạo. Nhưng ở Việt Nam, tự do là một món hàng xa xỉ. Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do sáng tạo, tự do học thuật, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự do xuất bản, tự do biểu diễn....những tiền đề- nền móng cho sáng tạo. Không có sáng tạo, người giỏi- người tài không thể hiện được mình, và họ cùn mòn đi. Và dĩ nhiên, khi không có sáng tạo, đất nước sẽ không theo kịp bước tiến thần tốc của kỷ nguyên số, đất nước mãi mãi rơi vào bế tắc và đói nghèo. Người tài giỏi bao giờ cũng tìm đến những xứ sở tự do, hay nói cách khác, môi trường tự do luôn có sức hấp dẫn với những người tài giỏi. Không phải ngẫu nhiên mà các cường quốc như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Canada, Úc, New Zealand....luôn luôn là những đích đến của những người thông minh và tài giỏi. Nếu "muốn làm bạn với những người giỏi nhất", Việt Nam phải xây dựng bằng được một thiết chế xã hội thật sự tự do và các khung pháp lý để bảo vệ tự do. Chim bao giờ cũng đến đậu ở những mảnh đất hiền lành, không bao giờ đậu ở những mảnh đất đầy rẫy cạm bẫy và cấm đoán.  
......

Công An Việt Nam: Từ Thẳng Tay Với Người Dân Tới Bó Tay Với Formosa!

Ảnh: lực lượng công quyền bắt bớ người biểu tình ở Saigon hôm 8-5-2016 Phạm Minh Vũ! Mới đây, hôm 06-05 hàng loạt báo chí nhà nước loan tải bài viết có tựa là “Công an Hà Tĩnh bó tay với Formosa” làm tôi không thể không nói lên một chút suy nghĩ. Hôm nay nhân kỷ niệm 3 năm cuộc xuống đường hào hùng tôi ghi ra đôi dòng để nhớ tới nỗi đau mãi còn day dứt, nỗi ám ảnh mang tên Formosa. Từ Thẳng tay với người dân Vào mùa hè năm 2016, dọc bờ biển miền trung 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế xảy ra tình trạng cá chết hàng loạt và bất thường. Ngay mới thời điểm báo chí lề trái loan tin, nhận thấy sự việc nghiêm trọng vì thế Ông Trọng kéo theo bầy đàn thê tử vào Vũng Áng để thị sát, dân tình đang xôn xao, trong lúc bộ chính trị chưa biết chỉ đạo cho tuyên giáo làm gì thì một làn sóng nổi dậy của người dân đòi đuổi Formosa về. Tình hình ngày càng nóng hơn khi bắt đầu chứng kiến hàng loạt cá chết liên tục, mà cơ quan liên quan không có một câu trả lời nguyên nhân và biện pháp. Thì làn sóng kêu gọi biểu tình diễn ra, cuộc xuống đường lịch sử nổ ra vài nơi như các thành phố lớn HN-SG, Nha Trang, ĐN. Thay vì đứng về phía nhân dân thì công an thẳng tay đàn áp, bắt bớ bỏ tù nhiều người và đánh đập, truy cùng diệt tận người lên tiếng cho Formosa, công an mở cuộc suy sát khốc liệt. Dùng mọi thủ đoạn để ngăn chặn biểu tình nỗ ra, quyết tâm bảo vệ Formosa hủy diệt Việt Nam, khi leo thang căng thẳng ở Nghệ An-Hà Tĩnh tôi không thấy công an bó tay, mà là thẳng tay quất dùi cui vào dân tay không một tấc sắt. Tới Bó Tay Với Formosa Formosa Hà Tĩnh đang thải ra 14 nhóm chất thải với 64 danh mục của hàng nghìn tên chất thải khác nhau. Điều đặc biệt là cơ quan công an Hà Tĩnh cho biết các kết quả phân tích chất độc hại, Formosa Hà Tĩnh không cung cấp cho cơ quan chức năng để theo dõi xử lý hoặc không đánh giá đủ các thành phần nguy hại như chì trong bùn thải của khu công nghiệp nặng này. Quá trình hoạt động của dự án Formosa phát sinh rất nhiều loại chất thải, được phân thành 14 nhóm và 64 danh mục với hàng nghìn tên chất thải; tổng khối lượng chất thải rắn phát sinh hằng năm là 3.360.500 tấn. Trong đó, các loại bùn thải, xỉ thép phát sinh và tồn kho với khối lượng rất lớn, cụ thể: Bùn cán nóng phát sinh 35 tấn/ngày, lượng tồn kho 10.700 tấn; bùn phối trộn tồn kho 28.737 tấn; bùn lò cao phát sinh 200 tấn/ngày, lượng tồn kho 70.000 tấn; bùn lò chuyển phát sinh 303 tấn/ngày, từ khi đi vào hoạt động đến nay lượng bùn này phát sinh khoảng 128.000 tấn, xỉ thép phát sinh 2.500 tấn/ngày, lượng xỉ thép đang lưu trữ tại dự án (tồn kho) khoảng 780.000 tấn. Trong quá trình luyện coke-Gang- Thép chỉ vài phút có thể thải hết ra biển hàng tấn chất cực độc như Chlorine, Phosphorous, Ansen, Cyanua, lưu huỳnh... Và còn nhiều chất cực độc mà chúng ta đang còn nghi vấn, vì không có cơ quan nào giám sát độc lập để trung lập đưa ra kết quả khách quan. Thế mà công an lại bó tay khi muốn sử dụng biện pháp nghiệp vụ, điều tra thu thập để đánh giá Formosa có tác động như thế nào tới môi trường hiện tại. Với một công ty gây ô nhiễm truyền thống như vậy, thì đúng ra chính phủ phải có một quy định riêng để tạo điều kiện báo chí thông tin, giám sát khi có dấu hiệu vi phạm chứ chưa nói là cơ quan công quyền có nhiệm vụ xử lý nếu nó sai phạm, đằng này lại bó tay. Điều này Formosa chứng minh cho chúng ta thấy, đó là lãnh thổ riêng bất khả xâm phạm, Formosa chứng minh cho chúng ta thấy Công an chỉ giỏi đàn áp dân đen chứ với công ty nước ngoài thì chúng bó tay. Bó tay với công ty tội ác như Formosa thì dân sống làm sao? Tin ai để bảo vệ đây? Cũng cần nói thêm, theo Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, từ tháng 9/2017 – 6/2018 việc tầm soát, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh đã phát hiện được 678 ca dị tật với nguy cơ thiếu G6PD , tăng tuyến thượng thận, suy giáp bẩm sinh, rối loạn chuyển hóa; Xét nghiệm bằng phương pháp chọc ối cho 47 ca và phát hiện 7 ca nhiễm sắc thể, trong đó 4 ca down, 1 ca Klinefelte, 2 ca bất thường vi bất đoạn… Tiến trình thoái hoá giống nòi đang diễn ra? Ngoài Nghệ An còn ở đâu nữa?      
......

Blogger Anh Ba Sàm: Tôi phải cám ơn nhà tù!

Nhà báo Nguyễn Hữu Vinh và vợ, bà Lê Thị Minh Hà, trước Trại giam số 5 ngày 5/5/2019. Diễm Thi, RFA | Blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh vừa mãn án tù hôm 5/5/2019 sau 5 năm thụ án. Ông trả lời phỏng vấn Đài Á Châu Tự Do vào ngày 6 tháng 5. Trước hết ông chia sẻ về tình hình sức khỏe bản thân: Ông Nguyễn Hữu Vinh: Tôi xin gửi lời chào đến Ban biên tập Đài Á Châu Tự Do, quý thính giả nghe đài và chào chị. Tôi xin tả một điều rất thú vị, đó là trước ngày mãn án, ngày 4/5 thì cán bộ trại giam đến làm việc và lục soát tài liệu của tôi thì tôi phải xin phép được nằm để làm việc. Đến khi ông phó giám thị đến tôi cũng xin lỗi phải nằm để nói chuyện vì tôi rất mệt. Trong 10 ngày trước đó tôi có những buổi làm việc rất là mệt mỏi với ban lãnh đạo của trại, người bên an ninh…tôi bị bệnh và bác sĩ trại xác định tôi bị rối loạn tiêu hóa, cộng với những bất đồng của tôi với họ và làm việc căng thẳng khiến tôi rất mệt. Thế nhưng rất kỳ lạ là khi ra khỏi trại, được gặp gia đình, chỉ nửa tiếng sau là tôi khác hẳn, cảm thấy như không hề bị bệnh và quên hết những mệt mỏi. Mọi người đến thăm rất đông và gọi điện rất nhiều, tôi rất vui và cả đêm tôi lên mạng cập nhật thông tin mà tôi không hề có cảm giác đau ốm gì. Diễm Thi: Đối với quá trình bị tạm giam, xét xử cũng như thời gian thi hành án, ông có thể chia sẻ những điều gì mà theo ông cần phải nêu ra? Ông Nguyễn Hữu Vinh: Chia làm hai giai đoạn gần bằng nhau về thời gian. Hai năm rưỡi bị tạm giam ở B14 và hai năm rưỡi thi hành án ở Trại 5. Hai giai đoạn đó đều cho tôi những thông tin, kinh nghiệm và trải nghiệm tuyệt vời. Thỉnh thoảng tôi cũng nói với gia đình, với cán bộ trại giam cũng như với ông phó giám thị Trại 5 trước khi tôi ra tù rằng tôi phải cám ơn Cơ quan điều tra và cám ơn trại. Tôi cám ơn cái gì? Tôi cám ơn vì chính họ đã giúp tôi hiểu những hiện tượng sai phạm về pháp luật, vô nguyên tắc và tệ hại trong quá trình tố tụng, tạm giam cũng như giai đọan thi hành án. Tôi được chứng kiến rất là nhiều và tôi phải tranh đấu nhờ vào sự hỗ trợ của gia đình, sức ép trên mạng, các đài, báo chí lề trái, cư dân mạng và quần chúng, cả quốc tế…đã thay đổi khá khá tại Trại giam số 5. Trước hết về thủ tục tố tụng thì họ vi phạm rất nhiều. Trong bản tự bào chữa tại tòa, tôi viết tất cả các vấn đề, trong đó vấn đề đảng tịch của tôi là vấn đề cực kỳ quan trọng, dài 78 trang. Sát ngày xử thì Luật sư Trần Vũ Hải đến Viện kiểm sát đề nghị được tiếp cận những bản tôi viết tay này nhưng họ viện cớ này nọ để không cho. Họ sợ luật sư có những bản này đến độ cả hai phiên tòa họ cho cán bộ đi theo, một hiện tượng chưa từng thấy, tức là cán bộ an ninh trại đi cùng tôi ra tòa. Lần đầu là một đội phó an ninh đội trinh sát của trại B14 cầm bản tự bào chữa đó ngồi sau lưng tôi. Khi tôi nghỉ giữa giờ cũng đi theo tôi và giữ chặt bản đó. Họ có bịt thì chỉ bịt được trong 5 năm, bởi vì tôi ra rồi và tất cả đã ở trong đầu tôi. Cuối thời gian thi hành án thì tôi đã quyết định phải viết lại một phần những cái đơn đó. Tại phiên sơ thẩm thì tôi không kịp khiếu nại, sau đó tôi có khiếu nại nhưng họ lờ hết. Tại phiên phúc thẩm cũng y như vậy với một nữ thiếu tá mặc thường phục giữ những bản đó ngồi sau lưng tôi. Họ rất sợ tôi trao những bản đó cho luật sư dù chúng tôi không vi phạm. Đấy là một ví dụ tóm tắt về một sai phạm trong quá trình tố tụng. Họ có bịt thì chỉ bịt được trong 5 năm, bởi vì tôi ra rồi và tất cả đã ở trong đầu tôi. Cuối thời gian thi hành án thì tôi đã quyết định phải viết lại một phần những cái đơn đó. Khi nào có thời gian tôi sẽ viết lại những nội dung đó vì tôi muốn tất cả những chuyện này nó phải đi vào lịch sử, và nếu thuận lợi thì nó phải sớm được đưa ra công luận để giúp cho những người đấu tranh dân chủ sau này đỡ bị những chuyện mà tôi gọi là họ ‘ăn gian’ theo kiểu đó. Tôi cũng rất muốn sẽ làm việc với các luật sư của tôi trước đây cũng như đọc lại các bài viết của luật sư để xem cần bổ sung những gì để công luận có đầy đủ thông tin. Diễm Thi: Còn thời gian thi hành án thì sao, thưa ông? Blogger Anh Ba Sàm cùng cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy tại tòa án Hà Nội hôm 22/9/2016 . AFP Ông Nguyễn Hữu Vinh: Thời gian thi hành án rất là tuyệt. Theo tôi, nó có đặc thù ở chỗ rất nhiều vụ án về những người đấu tranh cho dân chủ, các cơ quan điều tra, các cơ quan tố tụng làm sai thì ít nhiều cũng đã được luật sư đưa lên; những người khác biết, gia đình biết cũng đã đưa lên mạng rồi. Nhưng tôi hình dung ra, có vẻ như khâu thi hành án cho những người như tôi (theo như bên ngoài thì tạm gọi là tù nhân chính trị) thì dường như chưa hoặc có rất ít những người, những trường hợp đưa ra tất cả rất nhiều hiện tượng mà theo cách dùng từ đơn giản của tôi là “ăn gian” trong khâu thi hành án giữa cơ quan chức năng và người thi hành án. Ăn gian ở đây chính là sai pháp luật, vô nguyên tắc, mập mờ, không minh bạch trong pháp luật. Kế đến là lách luật. Nếu không nhầm, tôi chưa thấy ai làm một cách có hệ thống để vạch ra những chuyện này. Thời gian trong tù, tôi đi từng việc, từng việc để đấu tranh với người ta. Tôi rất thích thú với chuyện ấy và tôi phải cảm ơn vì người ta cho tôi rất nhiều những tư liệu sống để tôi nói với gia đình, cùng với công luận bên ngoài để vừa đấu tranh, để thay đổi, để nhích dần lên cho chính tôi và những người xung quanh đang cùng bị  tuyên án ở đó đỡ phải chịu đựng những phi lý, những nỗi khổ, và dần dần có thể những phạm nhân khác trong các trại khác trên khắp cả nước trong những ngày tháng tới cũng sẽ đỡ các kiểu “ăn gian” như thế. Tôi còn suy nghĩ thêm nữa là phải hướng lên những điều tạm gọi là cao hơn đó là văn bản pháp luật của Quốc hội ban hành thì từ luật thi hành án cho đến bước tiếp theo là văn bản dưới luật làm theo ý định của chính phủ và thông tư của Bộ Công an. Diễm Thi: Một thông tin khiến công luận chú ý là 1000 trang tài liệu của ông bị trại giam thu giữ ngay trước ngày ông được ra trại. Ông có thể cho biết nội dung của 1000 trang tài liệu là gì? Ông Nguyễn Hữu Vinh: Có 3 loại trong hơn 1000 trang này, nằm trong 5 cuốn sổ. Không một ngày nào tôi không viết. Chuyện lớn, chuyện nhỏ, chi tiết, tôi đều ghi vào. Loại thứ hai là thơ của tôi, thơ mới, thơ cũ. Thơ cũ thì tôi cố gắng nhớ lại. Mấy tháng đầu tôi phải chiến đấu với những sai trái, vô lý ở đây, mình quên mất chuyện phải chép lại thơ. Mấy tháng không luyện đọc lại, không chép nên thất thoát đi cũng khá khá, thế là tôi bắt đầu làm tiếp. Thể loại lần này khác hẳn giai đoạn đầu, bài dài hơn, sâu hơn. Loại tiếp theo là tôi “nháp” tất cả những gì mình suy nghĩ, trong đó lớn nhất là “nháp” những lá đơn khiếu nại về các vấn đề ở trại, đơn đề nghị họ phải thay đổi và tôi phải được làm cái nầy, được làm cái kia. Tôi thấy pháp luật không cấm tôi làm, không cấm tôi nêu lên những đề nghị…. Còn có một số trao đổi của tôi với một số phạm nhân khác và có phạm nhân muốn gởi địa chỉ, số điện thoại để khi về, tôi liên lạc với gia đình họ. Tôi có thể miêu tả hơn 1000 trang tài liệu đó là  bắt đầu từ ngày đầu tiên cho đến hai năm bởi vì hai năm ở bên B14 chúng tôi không được dùng giấy bút gì cả. Khi được một tháng tù thì tôi nghĩ ra 4 câu thơ vì tôi muốn gởi thông điệp ra bên ngoài về suy nghĩ, tinh thần của tôi. Chỉ có 4 câu thôi, tựa bài thơ là “Đầy tháng tù” Bảy năm blog Đóng góp cho đời Bảy năm nghỉ ngơi Tích rèn tri, chí Diễm Thi: Biện pháp thu giữ 1000 trang tài liệu của ông diễn ra như thế nào, thưa ông? Ông Nguyễn Hữu Vinh: Khi về đến Trại 5, theo đề nghị của tôi thì tôi được làm việc với hai người đội trưởng và đội phó về trinh sát và giáo dục của cả Trại 5, trung tâm Trại 5 chứ không phải các phân trại. Có một người nói với tôi rằng trong trại anh có thể ghi chép nhưng lúc nào đó hoặc khi anh ra trại thì chúng tôi sẽ kiểm tra, nếu cái nào không phù hợp thì chúng tôi phải thu giữ. Tôi hỏi ngay là thế nào là không phù hợp, và việc thu giữ có dựa trên văn bản pháp lý nào không thì họ nói không có, và chỉ trong văn bản nội bộ. Tôi hỏi thẳng là những chuyện đó thì về giá trị pháp lý và khả năng bị kiện có không, thì họ phải công nhận là có thể nhưng không chắc. Hình minh họa. Những người biểu tình ủng hộ Anh Ba Sàm - Nguyễn Hữu Vinh trước tòa án ở Hà Nội hôm 23/3/2016 AFP Những ngày cuối cùng khi tôi sắp trở về thì hai phó giám thị luân phiên đưa ra một cái lệnh miệng rằng tôi phải kiểm kê những cái ghi chép trong thời gian ở Trại 5, tự bỏ vào thùng, tự niêm phong, cùng lâp ba biên bản trong đó có một biên bản cùng với thùng tài liệu sẽ được gửi về Cục An ninh Nội địa A02 để họ duyệt và họ sẽ cho tôi số điện thoại cùng tên nhân viên để khi tôi về tôi liên lạc rồi lên đó cùng mở niêm phong, còn tiếp theo là gì thì họ không nói. Tôi hỏi yêu cầu này dựa trên văn bản pháp lý nào thì ông phó giám thị nói với tôi là không có mà đây là mệnh lệnh của cấp trên. Tôi hỏi tiếp lệnh cấp trên là ông nào cho tôi viết tên và chức vụ thì họ bảo không thể cho tôi biết được. Tôi nói đây là một điều rất phi lý. Tôi đi tù thì tôi chỉ biết Trại 5 này là nơi thi hành bản án tù và tôi là người chấp hành bản án phạt tù, còn trên Trại 5 là Cục C10. Tại sao lại có Cục An ninh Nội địa xen vào đây để kiểm duyệt tài liệu của tôi? Cuối cùng họ có vẻ đuối lý nên chuyển sang kiểu khác, đó là ra lệnh khám xét buồng giam của tôi và ghi trong lệnh khám là những giấy tờ gì mà họ chưa thể đọc và kiểm duyệt ngay tại phòng giam thì họ tạm giữ. Lệnh này không giống như nội dung lệnh mà hai anh giám thị trước đó nói với tôi. Chỉ trong mấy ngày mà họ tự mâu thuẫn với nhau, hình thức bất nhất, mập mờ và vô nguyên tắc, từ lệnh khám xét cho đến biên bản thu giữ của một cơ quan mà tôi tạm gọi là ‘cơ quan nhà nước’. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong hai năm rưỡi tôi phải chứng kiến trong tù. Khi họ thu giữ như vậy thì họ lập hai biên bản: Biên bản thu giữ tài liệu và niêm phong; Biên bản khám xét. Tôi không ký biên bản thu giữ tài liệu và niêm phong, tôi không ký cả vào thùng niêm phong tài liệu bởi tôi phản đối toàn bộ cuộc khám xét và thu giữ này. Cũng giống như khi họ bắt tôi trước đây, tôi cũng không ký vào biên bản niêm phong đồ đạc họ tịch thu của tôi. Sau này khi mất mát hay làm sai lệch nội dung tài liệu cuả tôi thì Trại giam số 5 phải chịu hoàn toàn trách nghiệm. Đấy là nội dung tôi nhận xét vào Biên bản thu giữ. Mà trong biên bản này họ cũng chẳng nói là thu giữ rồi duyệt thế nào, ở đâu, bao nhiêu ngày được nhận… Diễm Thi: Mặc dù mới mãn án, nhưng hẳn nhiên ông cũng có những dự định cho thời gian tới? Ông Nguyễn Hữu Vinh: Trước hết tôi chờ xem họ có công văn gì gửi cho tôi về việc xử lý thùng tài liệu đó không và nó như thế nào rồi tôi mới xem hướng tiếp theo. Bây giờ tôi để đầu óc cho các việc khác, để cập nhật thông tin ở ngoài và trên mạng. Dành thời gian cho bạn bè tới thăm, việc gia đình, con cháu… Diễm Thi: Cảm ơn ông đã dành thời gian cho RFA. Trước khi tạm biệt, ông Nguyễn Hữu Vinh nói thêm rằng sở dĩ bài thơ ông viết “Bảy năm ...” vì khung hình phạt cao nhất cho tội danh mà ông bị kết án lên đến bảy năm, và ông sẵn sàng cho bản án đó. https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/rfa-interview-with-political-prisoner-anh-ba-sam-nguyenhuuvinh--dt-05062019132421.html
......

Nguyễn Thiện Nhân hứa với Bộ Chính Trị để làm gì?

Phạm Nhật Bình! Hôm 26 tháng 4, đúng 4 ngày trước khi Thành Hồ tổ chức đốt pháo bông “ăn mừng” lễ kỷ niệm 44 năm ngày chiếm được Miền Nam, Bí Thư Nguyễn Thiện Nhân đã đến gặp mặt một số tướng về hưu đang sinh sống tại đây. Sau khi khoe một số thành quả về kinh tế-xã hội đạt được năm 2018 nhờ tài lãnh đạo “sáng suốt” của thành uỷ, ông Nhân tuyên bố “Sau tháng 6, 2018, chúng tôi hứa với Bộ Chính Trị, hứa với Chính Phủ là TP.HCM sẽ không có biểu tình. Chúng tôi đã cam kết và đã làm được điều đó”. Lý giải cho điều này Nguyễn Thiện Nhân cho rằng nếu TP.HCM để xảy ra biểu tình thì ảnh hưởng đến cả nước. Lối kể công của anh Nhân nghe thật lạ tai, vì Hà Nội, Sài Gòn và cả nước đã từng biểu tình thì chuyện “ảnh hưởng” của ông Nhân chỉ là sự khoác lác. Năm nào sắp đến những ngày 30 tháng 4 hay 2 tháng 9… không riêng gì TP.HCM mà cả nước lại ngột ngạt trong nhiều biện pháp đề phòng khắc nghiệt nhằm mục đích ngăn chặn các cuộc biểu tình quần chúng có thể xảy ra. Biện pháp thông thường nhất là cho công an mật vụ canh phòng chặt chẽ chung quanh nhà của những người tranh đấu, để họ không thể tham gia trong vai trò dẫn dắt quần chúng nếu các cuộc biểu tình bùng nổ. Công an có thừa người để làm chuyện đáng khinh ấy vì họ có sẵn bộ máy đàn áp hàng trăm ngàn người trên toàn quốc. Nhưng dù vậy, trong nhiều năm qua biểu tình vẫn diễn ra đúng vào thời điểm mà đất nước cần đến bất chấp sự đàn áp của công an, mật vụ. Chẳng hạn trong tháng 5, 2014, trên toàn quốc đã bùng nổ các cuộc biểu tình của người Việt yêu nước chống việc Trung Cộng ngang nhiên lắp đặt giàn khoan dầu HD-981 trong vùng biển Việt Nam. Hay đặc biệt như ngày 10 tháng 6, 2018, ước tính có hàng chục ngàn người đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi xuống đường phản đối Dự Luật Đặc Khu Kinh Tế và Luật An Ninh Mạng. Đây có thể coi như cuộc biểu dương mạnh mẽ nhất của quần chúng từ trước đến nay chống lại âm mưu bán nước của Đảng CSVN. Người dân Sài Gòn biểu tình phản đối Dự Luật Đặc Khu hôm 10/6/2018. Ảnh: RFA Nhưng năm nay người ta ngạc nhiên không biết anh Nhân muốn lấy lòng Bộ Chính Trị hay có nhu cầu thầm kín nào mà lại lớn giọng hứa với Bộ Chính Trị sẽ không cho biểu tình ở TP.HCM. Thứ nhất, phải chăng ông Nhân đang tự đánh bóng và muốn được trung ương đảng đề cử làm tổng bí thư thay thế ông Trọng đang lâm bệnh nặng? Nếu tính toán như vậy, xem ra ông Nhân còn rất non, vì nhiều nhân vật ngay tại Hà Nội đang ngắm nghé chiếc ghế cao nhất đảng này. Sau khi ông Trọng vắng mặt trong lễ tang Lê Đức Anh, cuộc đấu đá âm thầm trong đảng lập tức diễn ra giữa các thế lực để giành lấy hai chiếc ghế cao nhất nước mà ông Trọng đang nắm. Ông Nhân thì ở xa, dịp này chỉ đánh võ mồm bằng cách hứa hẹn để lôi kéo sự chú ý của mọi người. Bí Thư Thành Hồ cũng có thành tích riêng về sự “vô thưởng vô phạt” để ngoi lên từ Mặt Trận Tổ Quốc. Cho nên ông Nhân cũng le lói chút hy vọng có thể được đưa lên làm một thứ trái độn trong mục đích gìn giữ sự ổn định trong đảng cho đến đại hội 13. Tuy nhiên đến ngày diễn ra đại hội thì ông Nhân đã bước qua trên 65 tuổi, tức sẽ bị loại theo quy định, nên chức tổng bí thư đối với ông Nhân chỉ là giấc mộng phù du. Thứ hai, hoặc ông Nhân muốn được Bộ Chính Trị cấp thêm ngân sách chi tiêu vì Thành Hồ mấy năm nay năm nào cũng than thở cạn tiền. Được biết trong năm 2018, TP.HCM đã tận thu ngân sách được gần 379 ngàn tỷ đồng nên Chủ Tịch Nguyễn Thành Phong vui mừng báo cáo lên trên là thành phố thu ngân sách vượt 100,47 %. Lập tức nhà nước cộng sản giao chỉ tiêu ngân sách năm 2019 cho thầy trò ông Nhân, phải thu cho được 399 ngàn tỷ đồng tức tăng thêm 20 ngàn tỷ . Với dân số 9% so với cả nước, phải thu thêm 20 ngàn tỷ (tương đương gần 1 tỷ USD) thì người dân thành phố này quả là con bò sữa cho Hà Nội tha hồ vắt đến cạn kiệt. Vì thế không ai ngạc nhiên khi Thành Hồ đã hân hạnh đóng góp đến 22% cho GDP và 28% cho ngân sách nhà nước! Thu thì nhiều nhất nước nhờ siết cổ dân đen, nhưng ông Nhân đang thiếu tiền chi tiêu mọi mặt nhất là chi cho đầu tư công. Vì từ nay đến hết năm 2020 TP.HCM chỉ được quyền giữ lại 18% số tiền thu được thay vì 29% trong những năm trước đó, còn bao nhiêu phải cống nộp cho Hà Nội. Giờ đây ông Nhân phóng tin cho Bộ Chính Trị, về mặt an ninh quốc phòng muốn giữ cho Sài Gòn không có biểu tình thì phải có tiền chi ra. Phải chăng đó là lý do mà ông Nhân vịn vào để dám hứa hẹn với Bộ Chính Trị “không để biểu tình xảy ra”. Cuối cùng ông Nhân muốn chứng tỏ thành phố dưới quyền của ông là thành phố không có hay đã hết “phản động”, nghĩa là không còn lực lượng yêu nước nào dám biểu tình. Có lẽ ông Nhân mới về thành uỷ nên không biết ngay từ những năm 2008 trở đi Sài Gòn đã có biểu tình yêu nước chống Trung Cộng. Và sau đó từ năm 2011 đến nay trên đường phố Sài Gòn không bao giờ ngừng bước chân của mọi tầng lớp dân chúng đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và bảo vệ chủ quyền đất nước, từ chống giàn khoan HD-981 đến chống Formosa và gần đây nhất chống Dự Luật Đặc Khu. Để siết chặt và vô hiệu hoá các cuộc biểu tình, Nguyễn Thiện Nhân khoe đã sử dụng công an và quân đội từ sau cuộc biểu tình ngày 10 tháng 6, 2018 thực hiện bao vây, cô lập khoảng 600 người được cho là dẫn đầu hay có khả năng tổ chức biểu tình để sẵn sàng dập tắt. Nhưng Bí Thư Nguyễn Thiện Nhân chắc không quên cuộc biểu tình ngày 10 tháng 6 năm ngoái diễn ra rầm rộ ngay tại Sài Gòn và trên toàn quốc lại hoàn toàn bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng khiến chế độ độc tài phải hoảng sợ, đối phó một cách lúng túng. Do đó dù bằng cách nào đi chăng nữa, đúng là ông Nhân có “học hàm” tiến sĩ, giáo sư nhưng đồng thời cũng có một cái đầu rỗng tuếch. Bí thư thành uỷ một thành phố lớn mà cố tình nhắm mắt làm ngơ trước những bất công chính trị và xã hội như hang ổ bóc lột BOT, ung nhọt Thủ Thiêm chưa giải quyết xong lại ra tay cướp đất vườn rau Lộc Hưng của dân nghèo. Khi chế độ này tiếp tục phản bội quyền lợi nhân dân và đất nước thì làm sao không có biểu tình, khi người dân ngày càng bực tức trước những cảnh nhiễu nhương đang diễn ra trước mắt. Phạm Nhật Bình Sợ biểu tình: Bệnh đã đến hồi di căn  
......

"CS bây giờ thối nát là do cái đám sau này làm sai, chứ Bác thật chẳng có tội gì"

FB. Thuc Tran| Làm sao người ta có thể vừa hô " Đả đảo cộng sản" lại vừa hô " Hồ Chí Minh muôn năm" cứ như thể ông Hồ không có liên quan gì đến cái hiện tại tối đen hôm nay? Cứ như thể dưới thời trị vì của ông ấy thì miền Bắc đã có tam quyền phân lập vậy? Cứ như thể dưới thời trị vì của ông ấy thì miền Bắc đã có báo chí tư nhân, đã được tự do buôn bán, tự do thờ phượng, tự do ngôn luận...? Cứ như thể dưới thời trị vì của ông ấy thì miền Bắc chưa nằm gọn trong vòng ảnh hưởng của tàu cộng vậy? Hồ Chí Minh & Chu Ân Lai Cứ như thể dưới thời trị vì của ông ấy thì không có hàng triệu người bỏ miền Bắc chạy vào miền Nam để lánh cộng vậy? Cứ như thể dưới thời trị vì của ông ấy thì tòa án được quyền độc lập xét xử chứ không phải mang người ta ra đấu tố man rợ vậy? Cứ như thể ông ấy không bịt mặt, mang râu đứng lẫn trong đám đông để xem bộ hạ của mình xử chết bà Cát Hanh Long, vốn là một người phụ nữ nhân hậu và từng là ân nhân của ông ấy cũng như cái đám bộ hạ của ông ấy vậy? Không biết đó là cái tư duy ngây thơ, hay một chiêu chạy tội cho người mà lẽ ra phải chịu trách nhiệm cao nhất cho tình hình bi đát nơi xứ Việt bây giờ khi mà người ta bảo " CS bây giờ thối nát là do cái đám sau này làm sai, chứ Bác thật chẳng có tội gì" Một công ty ngoại vi lấy thông tin khách hàng từ FB đem bán mà đích thân Mark Zuckerberg phải ra ngồi để người ta tra hỏi hằng tiếng đồng hồ kìa, bởi đơn giản đó là trách nhiệm của người đứng đầu. Cái guồng máy đó, cái cổ xe đó là do ông ấy tạo ra, những người CS của ngày hôm nay là kết quả của cái guồng máy đó mà thành, chẳng phải họ ngày đêm phải sống và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại đó sao? Cái mô hình đó là cái mô hình ông ấy đã khóc khi lựa chọn, thì nay nó không ra gì lại bảo rằng ông ấy không có trách nhiệm gì là sao? "Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin. Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!" Hình của Đảng lồng trong hình của Nước. Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười..." (Người đi tìm hình của nước-Chế Lan Viên) Trình độ của Bác chỉ tới đó, nhìn cứt lại bảo là cơm lanh chanh mang về bắt ép cả dân tộc ăn và còn phải tấm tắc khen ngon trong suốt cả thế kỷ qua. Ăn riết giờ chịu hết nổi vì nó thối quá, rồi lại bảo Bác không liên can mà lỗi là do "thằng đánh máy". Trời ơi...! cái tư duy đó là tư duy gì?
......

Luật Lao Động: sửa cho có … vì EVFTA!

Đối phó EVFTA: Việt Nam đang ‘sửa’ Bộ luật Lao động ra sao? (*) Phạm Chí Dũng – VOA   Tiếp theo yêu cầu bắt buộc của EVFTA (Hiệp- định Thương mại tự do châu Âu – Việt Nam) về sửa Bộ luật Lao động Việt Nam để người lao động được đảm bảo quyền lợi và có quyền thành lập công đoàn độc lập, đã lộ hẳn ra một ‘bí mật’ của giới quan chức Việt trong cung cách sửa bộ luật này. Bí mật gì? Ngay sau khi kết thúc chuyến đi Pháp và Bỉ vào cuối tháng 3 năm 2019 để vận động cho EVFTA, Nguyễn Thị Kim Ngân – Chủ tịch quốc hội Việt Nam – đã chủ trì một phiên họp quốc hội. Được báo Sài Gòn Giải Phóng tường thuật, bà Ngân đã “Tỏ ra rất sốt ruột về việc chưa nhận được hồ sơ trình dự án sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, trong khi chương trình xây dựng pháp luật năm 2019 đã có dự án này, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói rõ: “Chúng ta đã cam kết với Nghị viện châu Âu về thời hạn xem xét sửa đổi Bộ luật Lao động. Đó chính là cơ sở quan trọng để Nghị viện châu Âu xem xét thông qua Hiệp định EVFTA, vậy mà bây giờ các bước cần thiết vẫn chưa được tiến hành. Thay vì trình hồ sơ dự án thì cơ quan trình lại chỉ báo cáo, xin ý kiến của UBTVQH về một số vấn đề, như thế có phải là làm ngược quy trình hay không?!”. ‘Bí mật’ đã lộ hẳn ra: suốt từ cuối năm 2018 – thời điểm tái khởi động quy trình ‘chuẩn bị ký kết và phê chuẩn EVFTA’ cho đến nay, các bộ ngành đã gần như không làm gì cả đối với việc sửa đổi nội dung của Bộ luật Lao động để đáp ứng đòi hỏi của Hiệp định EVFTA. Nếu tính cả thời gian trước đó liên quan đến việc Việt Nam tham gia vào TPP (Hiệp định Đối tác kinh tế Xuyên Thái Bình Dương), và CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, thay thế cho TPP mà không có vai trò của Mỹ), Bộ luật Lao động đã chỉ được các bộ ngành và chính phủ Việt Nam lôi ra nhét vào ngăn kéo đầy bụi bặm như một động tác thuần đối phó với cộng đồng quốc tế, chỉ làm cho có, miễn sao gia nhập được hiệp định kinh tế và được ‘ăn sẵn’ lẫn ‘ăn ngay’. Những yêu cầu của EVFTA về sửa đổi Bộ luật Lao động Việt Nam cũng có thể khá tương đồng với yêu cầu trong CPTPP. Vào cuối năm 2018, để được tham gia vào CPTPP, lần đầu tiên Nguyễn Phú Trọng và chế độ độc trị của ông ta đã phải nhượng bộ chấp nhận điều kiện về cho phép người lao động được tự do thành lập các tổ chức nghiệp đoàn tự do để tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, tức về thực chất sẽ có một hình thái tổ chức nghiệp đoàn độc lập, hay còn gọi là công đoàn độc lập, tồn tại song song với hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam từ trung ương xuống các địa phương. Không những thế, công nhân còn được thành lập nghiệp đoàn tự do không chỉ giới hạn ở từng khu vực mà còn trên cả nước, và các nghiệp đoàn độc lập này được kết nối với nhau… Việt Nam sửa Bộ luật Lao động chỉ nhằm đối phó EVFTA Theo quy định bắt buộc của EVFTA, nếu chính quyền Việt Nam không chịu sửa Bộ luật Lao động theo đúng yêu cầu của EU (Liên minh châu Âu) thì sẽ không được Nghị viện châu Âu chấp nhận cho tham gia vào hiệp định này. Cuối cùng sau nhiều lần cố tình trì hoãn, vào cuối tháng Tư năm 2019 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã phải công bố dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi), trong đó có một số nội dung được điều chỉnh. Theo lộ trình, dự luật này sẽ được đưa ra Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5, lấy ý kiến đến ngày 28/6/2019 và thông qua vào kỳ họp tháng 10. Điểm mới nhất trong dự thảo luật này là lần đầu tiên bổ sung các quy định về việc thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Theo đó, người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động trong tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở. Tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở thành lập và hoạt động hợp pháp sau khi gia nhập hệ thống Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký. Trường hợp đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người đại diện của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở gửi hồ sơ đăng ký theo quy của pháp luật cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký… Nhưng cách thức dùng từ ngữ và việc mô tả nội dung điều chỉnh trong dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) lại cho thấy bản dự thảo này còn rất thiếu thiện chí trong việc đáp ứng các yêu cầu của EVFTA. Trong khi cả CPTPP và EVFTA đều dùng cách gọi ‘công đoàn tự do’ dành cho quyền được tự thành lập công đoàn của người lao động, thì dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) chỉ dùng cụm từ “tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở” một cách lập lờ và giấu đi thực chất của loại hình công đoàn độc lập. Với cách dùng từ như thế, sẽ có nhiều công nhân tưởng rằng công đoàn tự do (hay công đoàn độc lập) về thực chất vẫn là loại hình công đoàn cơ sở thuộc Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, do vậy họ sẽ không quan tâm đến việc tự thành lập công đoàn tự do nữa. Dự thảo trên cũng cũng không mô tả, hoặc mô tả không rõ những quyền của người lao động mà đã được Hiệp định CPTPP quy định như: – Cho phép người lao động làm việc trong một doanh nghiệp được thành lập tổ chức của người lao động /Công đoàn ở cấp cơ sở theo sự lựa chọn của họ. Để hoạt động, tổ chức này hoặc gia nhập vào Tổng Liên đoàn Lao động VN hoặc đăng ký hoạt động độc lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (do Chính phủ quy định) tùy theo sự lựa chọn của tổ chức đó. – Các tổ chức công đoàn – người lao động này được quyền không kém hơn so với Công đoàn cơ sở; thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động VN. – Tổ chức này có thể yêu cầu và nhận sự trợ giúp kỹ thuật và đào tạo từ các tổ chức hoạt động về lao động đang hoạt động hợp pháp tại VN. – Lộ trình: Chậm nhất từ 5 đến 7 năm; kể từ khi CTTPP có hiệu lực; các tổ chức người lao động – Công đoàn có thể gia nhập/ hoặc thành lập tổ chức của người lao động ở cấp cao hơn như: cấp ngành, cấp vùng lãnh thổ theo đúng trình tự đăng ký được pháp luật quy định. Ngoài ra còn có những nội dung mới liên quan đến vấn đề lao động ở Việt Nam như vấn đề đình công: hiện tại Pháp luật Việt Nam chỉ cho phép đình công trong các doanh nghiệp; đình công chỉ được thực hiện với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích; trong khi đó CTTPP sẽ cho phép đình công cấp ngành, đình công hưởng ứng và có thể có đình công “phản đối chính sách kinh tế – xã hội”… Dự thảo trên cũng không làm rõ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng ký” là cơ quan nào. Với quy định quá chung chung và mập mờ như thế, công nhân sẽ không thể biết đâu là cơ quan ‘có trách nhiệm’ để đăng ký thành lập công đoàn độc lập, khiến họ vẫn phải phụ thuộc vào Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, bất chấp việc tổ chức này từ lâu đã tự đặt ra một quy định trong Luật Công đoàn để ‘ăn’ đến 3% trên tổng quỹ lương của doanh nghiệp như một hình thức ăn cướp trên xương máu người lao động. Với bản dự thảo quá sơ sài trên, cũng có thể thấy rõ về ý đồ của chính thể độc đảng ở Việt Nam là chỉ đưa ra bản dự thảo này cho có và thông qua để Việt Nam được tham gia vào EVFTA, nhưng trong quá trình thực hiện thì sẽ dựng lên một bức thành thủ tục hành chính cao ngất, theo đúng tinh thần ‘hành là chính’, để người lao động không thể đáp ứng được và do đó hồ sơ đăng ký thành lập công đoàn tự do của họ sẽ tất yếu bị gạt ra.  
......

Dân không ăn mặn nhưng vẫn khát!

Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp Việt Nam hạng 117/180 về tệ tham nhũng toàn cầu năm 2018. Trân Văn – VOA Ủy ban Kiểm tra (UBKT) của Ban Chấp hành Trung ương (BCH TƯ) đảng CSVN vừa công bố thêm hàng loạt kết luận liên quan đến chuyện kỷ luật đảng viên… Lần này, quân đội có thêm Đô đốc Nguyễn Văn Hiến (cựu Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, cựu Thứ trưởng Quốc phòng, cựu Tư lệnh Hải quân), Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình (cựu Ủy viên BCH TƯ đảng CSVN, cựu Ủy viên Quân ủy Trung ương, cựu Chính ủy Quân chủng Hải quân), Chuẩn Đô đốc Lê Văn Đạo (cựu Đảng ủy viên, cựu Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân) bị xác định là cùng phải chịu trách nhiệm về những vi phạm, khuyết điểm của quân chủng này và trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng. Ngoài ba ông tướng vừa kể, Ban Thường vụ Đảng ủy của Quân chủng Hải quân cũng bị cho là đã “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát, để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất quốc phòng, để một số cán bộ, đảng viên trong Quân chủng Hải quân bị xử lý hình sự”. Theo UBKT của BCH TƯ đảng CSVN, ba ông tướng Hải quân mới được xác định cần phải “xem xét, thi hành kỷ luật” và Ban Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân đã “gây thiệt hại lớn về tiền và tài sản của nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và quân đội” (1). Nói cách khác, sau khi hàng loạt tướng công an, rồi tướng Không quân bị “xem xét, thi hành kỷ luật”, giờ tới phiên hàng loạt ông tướng Hải quân và… giống như lần trước, lần này, các ông tướng Lục quân cũng góp mặt cho “nghiêm minh” thêm phần rôm rả: Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy (Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Quân khu 9) bị “cảnh cáo”, còn Đại tá Trương Thanh Nam, (Đảng ủy viên, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 9, cưu Phó Bí thư Đảng ủy, Tư lệnh Sư đoàn 8) bị tước bỏ tất cả các chức vụ trong đảng (2). Nguyên nhân cũng y hệt như lý do khiến các ông tướng Không quân, Hải quân và các ông tướng Lục quân khác từng lâm nạn. Song song với việc “xem xét, thi hành kỷ luật” các ông tướng quân đội, UBKT của BCH TƯ đảng CSVN tiếp tục “xem xét, thi hành kỷ luật” các ông quan cộng sản. Dẫn đầu số này là ông Vũ Văn Ninh (cựu Phó Thủ tướng), ông Phạm Viết Muôn (cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ), bốn Thứ trưởng và cựu Thứ trưởng Bộ Giao thông – Vận tải (GTVT): Nguyễn Hồng Trường, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Ngọc Đông, Nguyễn Nhật. Tuy không liên quan đến mất mát công thổ như các ông tướng quân đội nhưng các ông quan cộng sản này bị xác định là phải chịu trách nhiệm về việc thất thoát một lượng lớn công sản khi “thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT dưới thời ông Đinh La Thăng làm Bộ trưởng GTVT (3). Trong đám quan cộng sản bị “xem xét, thi hành kỷ luật” lần này còn có quí tử của ông Nguyễn Bá Thanh là Nguyễn Bá Cảnh (Phó Ban Dân vận Thành ủy Đà Nẵng). Cho dù ông Cảnh bị “xem xét, thi hành kỷ luật” vì “vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của BCH TƯ đảng CSVN về những điều đảng viên không được làm và các quy định của đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên” nhưng chẳng ai tin ông Cảnh bị “xem xét, thi hành kỷ luật” vì vi phạm “Luật Hôn nhân Gia đình”. Scandal Vũ “Nhôm” đã lột mặt nạ của cha ông Cảnh nhưng không may cho ông Cảnh là cha ông đã quá cố, Nhiều người khẳng định, các đồng chí xử ông là để thu hồi những gì cha ông đã lấy và ông đang thừa kế (4). *** Việt Nam không chỉ có Hiến pháp mà còn có một… rừng luật, kèm theo một hệ thống trải dài từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, chuyên giám sát, bảo vệ, thực thi pháp luật nhưng hệ thống ấy chỉ “tọa sơn” nhìn các ông tướng quân đội, các ông quan cộng sản thi nhau chia chác công thổ, công sản. Giới lãnh đạo đảng CSVN chưa gật đầu, chẳng ai, chẳng cơ quan nào hó hé hay bận tâm. Đảng CSVN cũng có một hệ thống tương tự trải dài từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, chuyên giám sát, bảo vệ, thực thi điều lệ, kỷ luật cả của mình lẫn luật pháp quốc gia nhưng hệ thống ấy cũng mù, câm, điếc, què. Thật khôi hài khi “chỉnh đốn” chỉ “chỉnh” và “đốn” chủ yếu là những đồng chí đã nghỉ hưu hoặc con cái những đồng chí đã thất thế hay tạ thế. Phải hiểu “nghiêm minh” như thế nào khi các ông tướng quân đội, các ông quan cộng sản thi nhau chia chác công thổ, tài nguyên, công sản suốt một thời gian dài nhưng không có bất kỳ cá nhân hay cơ quan nào ngăn cản? Phải hiểu “nghiêm minh” như thế nào khi hệ thống giám sát, bảo vệ, thực thi pháp luật vẫn chỉ khoanh tay ngồi nhìn tín hiệu từ UBKT của BCH TƯ đảng CSVN để tiến hay không? Phải hiểu “nghiêm minh” như thế nào khi phần lớn các ông tướng công an, quân đội, các ông quan cộng sản “gây thiệt hại lớn về tiền và tài sản của nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng và công an, quân đội” vẫn được tha, miễn trách nhiệm hình sự, chỉ bị khiển trách, cảnh cáo trong nội bộ đảng, nặng hơn là… tước bỏ các chức vụ đã từng mang? Đảng “nghiêm” ra sao, “minh” thế nào mà toàn bộ Ban Thường vụ Huyện ủy Ba Vì trong hai nhiệm kỳ, suốt từ 2010 đến nay, thản nhiên xếp chỗ cho nhau, đâm đánh nhau để giành giật quyền lực nhằm có thêm cơ hội lũng đoạn công pháp, công thổ mà giờ mới khiển trách, cảnh cáo (5)? Chỉnh đốn có khôi phục lại được môi trường sống, có thu hồi lại được công thổ, công sản đã thất tán không? Có làm tham quan, ô lại chùn tay không? Nếu không thì UBKT của BCH TƯ đảng CSVN nên thôi “xem xét, thi hành kỷ luật” đảng viên, tổ chức đảng. Đến nông nỗi này rồi mà đảng vẫn chưa tỉnh, vẫn nghĩ rằng cứ ê a tụng bài kinh “chỉnh đốn”, thỉnh thoảng gõ vài cái vào… lò là có thể dẫn dụ thiên hạ! Cứ tiếp tục bòn nơi khố rách, đãi quân… cờ hồng như thế, dân không ăn mặn mà vẫn càng ngày càng khát. “Nghiêm minh” chỉ khiến người ta thêm giận. Chú thích (1) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/vi-pham-cua-do-doc-nguyen-van-hien-la-nghiem-trong-den-muc-phai-ky-luat-1411197.tpo (2) https://vnexpress.net/thoi-su/tu-lenh-quan-khu-9-bi-canh-cao-3918836.html (3) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/nguyen-pho-thu-tuong-vu-van-ninh-co-khuyet-diem-trong-quyet-dinh-co-phan-hoa-1411199.tpo (4) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/de-nghi-ban-bi-thu-ky-luat-ong-nguyen-ba-canh-1411201.tpo (5) https://www.tienphong.vn/xa-hoi/canh-cao-khien-trach-nhieu-lanh-dao-huyen-ba-vi-1411203.tpo  
......

Việc phá dỡ nhà thờ chính tòa Bùi Chu

LS Lê Quốc Quân - FB Lê Quốc Quân Kể từ khi báo chí đưa tin về việc Nhà thờ chính toà Bùi Chu sẽ bị dỡ bỏ (dùng từ cổ một cách tôn kính là “hạ giải”) vào ngày 13/5 tới để xây nhà thờ mới, rất nhiều phương tiện truyền thông đã đề cập với nhiều ý kiến trái chiều. Là một người Công giáo, yêu mến hoạt động xã hội và quan tâm đến vấn đề này, nhiều người bạn trong và ngoài công giáo, đã hỏi tôi nhưng tôi chưa có ý kiến vì mình chưa có đủ thông tin. Hôm nay Chúa Nhật ngày 5/5/2019 chúng tôi đã có dịp về thăm nhà thờ chính toà Bùi Chu và một số giáo xứ thuộc Giáo phận Bùi Chu. Khi đến TGM lúc 4h chiều thì một thánh lễ đang diễn ra. Chúng tôi đã tìm hiểu xung quanh nhà thờ, vào trong nhà thờ và đã gặp gỡ một số linh mục, giáo dân cũng như một số khách đang hành hương thăm quan nhà thờ. Ân tượng đầu tiên của tôi là ngôi nhà thờ đầu tiên của giáo phận Bùi Chu được xây dựng từ 1885 rất bề thế. Nhà thờ được xây dựng bởi Đức giám mục Wenceslao Onate Thuận với chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m. Giáo xứ được thành lập từ năm 1670. Theo tìm hiểu chúng tôi được biết Giáo phận Bùi Chu dự tính dỡ bỏ nhà thờ này để xây dựng một nhà thờ mới, với cấu trúc tương tự như thế nhưng to hơn, rộng hơn ngay tại vị trí đất đó. Theo một linh mục cho biết thì nhà thờ hiện tại đã xuống cấp nghiêm trọng, nhiều đoạn tường nứt nẻ, cột lim trong nhà thờ đã bị mục, nền nhà thờ thấp… Nhà thờ có thể sập bất cứ lúc nào và để an toàn cho giáo dân thì nên xây mới. Quyết định này đã được hội đồng linh mục, bàn bạc nhiều lần, bỏ phiếu thông qua, đã chuẩn bị vật tư vật liệu và mô hình nhà thờ mới cũng được thiết kế. Đi sâu hơn tìm hiểu, trực tiếp gặp một số Chủng sinh và một vị linh mục cao trọng mà chúng tôi cho rằng có viễn kiến đang phục vụ trong Toà giám mục Bùi Chu, chúng tôi lại được nghe câu chuyện khác. Theo vị linh mục này thì Nhà thờ là một kiến trúc độc đáo, một bảo vật có giá trị tầm cỡ quốc gia, gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng dân cư vùng châu thổ Sông Hồng. Ngôi thánh đường này vẫn có kết cấu rất vững chắc, trải qua rất nhiều cơn bão lớn nhưng vẫn đứng vững. Mặc dù hiện tại có những vết nứt nẻ ở các góc tường (nhìn mắt thường thì nhiều năm nay vẫn không dãn ra). Một số cột cũng bị hỏng, mái nhà thờ có kết cấu nặng… tuy nhiên những điều này hoàn toàn có thể khắc phục được nếu trùng tu. Với kiến thức và hiểu biết sâu rộng cuả mình, vị linh mục này cho biết giờ đây đã có rất nhiều công nghệ trùng tu mới hiện đại, nếu được áp dụng thì có thể kéo dài tuổi thọ nhà thờ, để lại cho thế hệ mai sau một giá trị tuyệt vời của Cha Ông và sẽ tăng dần theo thời gian. Nói chuyện với giáo dân chúng tôi được biết kiến trúc cổ đẹp đẽ này gắn liền với những ngày đầu gian khó, những ký ức thương qua nhiều thời kỳ, với nhiều thế hệ giáo dân. Giáo dân và Linh mục còn nhắc tới ngôi nhà thờ đổ ở Xã Hải Lý, giờ chỉ còn một tháp chuông nhưng vẫn thu hút được nhiều du khách thập phương. Sự yêu thương gắn bó với Giáo hội thường đến từ việc chăm chút gìn giữ theo thời gian chứ không phải “đùng một cái đẻ ra trong từng – triều đại”. Phía trước Nhà thờ hiện tại là Đền Đức Mẹ, kế đó là hai khu đất vuông viên đã được giải toả, có thể tiến hành xây dựng Nhà thờ mới nếu Giáo phận quyết tâm. Ảnh: Facebook Lê Quốc Quân Trả lời cho chúng tôi về giải pháp làm sao để giáo dân tiếp tục có nơi rộng rãi, an toàn để thờ phượng. Vị linh mục đã mở bản đồ chỉ cho chúng tôi thửa đất phía sau đài Đức Mẹ, đối xứng với Nhà thờ hiện tại. Miếng đất này hình chữ nhật có chiều dài tới 200m, chiều rộng gần 100m và đã được đền bù thành “đất sạch”. Như vậy đã có quỹ đất hoàn toàn đáp ứng việc xây dựng một ngôi thánh đường mới. Nếu theo phương án xây mới này thì chúng ta sẽ có một Nhà thờ đủ rộng và an toàn cho toàn bộ cộng đoàn, đồng thời vẫn giữ được ngôi thánh đường lịch sử 134 năm tuổi. Khi hỏi thăm cả linh mục và giáo dân về Quyết định dỡ bỏ và xây dựng, nhiều ý kiến cũng cho biết dù rất nhiều linh mục muốn giữ lại nhưng “có thể vì đức vâng lời” hoặc vì “dĩ hoà vi quý” mà đã chấp nhận hoặc không dám bày tỏ thẳng thắn ý kiến của mình. Mặc dù được biết rằng việc xây mới đã được chuẩn bị công phu nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể lắng nghe thêm các ý kiến và tạm hoãn việc phá dỡ trong những ngày tới để chờ sự đánh giá lại toàn diện của các nhà chuyên môn, của Viện bảo tồn di tích. Đây là một vấn đề rất tế nhị mà tôi nghĩ Nhà nước không thể nhảy vào và căn cứ theo Luật Di sản để can thiệp vì đã từng xảy ra như trường hợp Phát Diệm. Họ cấp chứng nhận di tích và sau đó lại định đặt barrier để thu vé, Giáo hội công giáo không thể chấp nhận chuyện đó, nhà thờ là Nhà chung, cho tất cả mọi người, không thể áp dụng việc quản lý của Nhà nước theo luật di tích. Cá nhân tôi kính đề nghị các Đấng bậc bằng cách nào đó “nghe lại” ý kiến của Linh Mục Đoàn một cách thẳng thắn, dân chủ và tự do, thì bằng trình độ, viễn kiến và lòng yêu mến Giáo Hội các Ngài có thể có một quyết định tốt nhất, phù hợp với hiện tại và mai sau. Theo tôi phương án vẫn giữ lại nhà thờ và xây mới trên mảnh đất đối diện là tốt đẹp nhất. Tại nhiều di tích trên thế giới, bên cạnh những công trình đồ sộ, thường có một ngôi nhà thờ cũ được bảo tồn, và nơi đó, giờ đây lại là điểm thu hút khách và giáo dân đến nhiều hơn. LS Lê Quốc Quân - FB Lê Quốc Quân Hãy cứu Nhà thờ Bùi Chu – một công trình kiến trúc cổ 134 năm tuổi!  
......

Hàng loạt Tướng lĩnh Bộ quốc phòng bị kỷ luật

Le Anh| Theo truyền thông trong nước thông tin liên quan đến vấn đề vi phạm trong việc quản lý sử dụng đất quốc phòng trong đó có liên quan đến tiền và tài sản. Những thành phần liên quan trong vụ này đều là những thành phần lãnh đạo của Bộ Quốc Phòng trong binh chủng Hải Quân như: Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Tình và Chuẩn Đô đốc Lê Văn Đạo. Ngoài ra còn có Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9, Đại tá Nguyễn Thanh Nam, hiện là Phó Tổng giám đốc tập đoàn viễn thông Viettel thuộc Bộ quốc phòng…không những thế mà còn liên quan đến các cán bộ, đảng viên cấp dưới. Hầu hết các cơ quan truyền thông chỉ nói đến vi phạm là do làm việc buông lỏng, quản lý, thiếu kiểm tra…và cho đó chỉ là những khuyết điểm và chỉ nói chung chung nhưng không đề cập chi tiết cụ thể vi phạm cái gì? Riêng tờ báo điện tử “Báo http://xn--mi-ebt.com/” có đề cập đến sự vi phạm có liên quan đến vấn đề tiền bạc và tài sản. Nếu chỉ là khuyết điểm tại sao cách chức những nhân vật cao cấp như: Trung tướng Nguyễn Hoàng Thủy, Tư lệnh Quân khu 9, Đại tá Trương Thanh Nam, Phó Tổng giám đốc Viễn Thông Viettel và xử lý hàng loạt cán bộ và đảng viên cấp dưới? Dư luận đang thắc mắc và đặt nghi vấn: - Kỷ luật và xử lý hàng loạt tướng lĩnh và có cả các cán bộ, đảng viên. Đây có phải là một tập đoàn ăn chia từ trên xuống dưới? - Công khai kỷ luật hàng loạt lãnh đạo tướng tá, đặc biệt là các nhân vật trong Quân đội sai phạm là chuyện ít xảy ra đối với đảng, thường thì giải quyết trong nội bộ cho nên quyết định cách chức và kỷ luật các tướng lĩnh cao cấp phải là sự việc rất nghiêm trọng. - Đây có phải là những màn đấu đá trong nội bộ đã đến mức công khai đối đầu giữa các phe cánh với nhau? Được biết Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội được Đảng cho phép làm kinh tế. Quân đội không phải đội quân kinh doanh, thay vì nhiệm vụ chính của Quân đội là chăm lo, chuyên trách công việc quốc phòng, bảo vệ Tổ Quốc. Từ khi Quân đội có quyền làm kinh tế thì cụm từ “Đất quốc phòng” được đề cập thường xuyên, nơi nào quân đội muốn lấy, từ tài sản đất đai của dân, của tôn giáo thì gán cụm từ “đất này thuộc đất quốc phòng.” Thật sự không mấy người hiểu “đất quốc phòng là đất gì”? Và cũng từ khi Quân đội có quyền làm kinh tế thì các lãnh đạo quân đội đề dồn nỗ lực đầu tư để kiếm tiền quên mất đi nhiệm vụ của quân đội, Và cũng kể từ đó, các thành phần lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam muốn giữ được ghế quyền lực để trục lợi thì phải hợp tác với Trung quốc. Điều đáng nói ở đây là những trục lợi đều vào trong túi của các thành phần lãnh đạo của Quân đội chứ những quân nhân cấp dưới hoàn toàn không được hưởng gì cả. Đất nước Việt Nam thật bất hạnh khi có một đội quân với thành phần lãnh đạo hèn nhát! Đất nước Việt Nam thật bất hạnh khi có một thể chế chỉ biết có đảng và không quan tâm đến tiền đồ của đất nước và tương lai của Dân tộc Le Anh
......

Đảng CSVN chính là...Kền kền

Đỗ Văn Ngà| Phải nói rằng, kinh tế Việt Nam đang chìm dần cho dù chỉ số tăng trưởng GDP họ thông báo vẫn khá cao. Về kinh tế, khi chất lượng cuộc sống bị kéo xuống, đồng thời về chính trị, quyền con người bị tước bỏ tự nhiên sẽ có một luồng di cư từ Việt Nam tỏa sang các nước khác có điều kiện kinh tế và chính trị tốt hơn. Với tầng lớp thấp, họ tranh nhau đi xuất khẩu lao động để tìm kiếm thu nhập cải thiện cuộc đời quá thiếu thốn. Tầng lớp này đông vô số kể. Lợi dụng nhu cầu xuất khẩu lao động lớn, và dân Việt ở nơi bưng bít thông tin kém hiểu biết, các đơn vị môi giới có sự tiếp tay của chính quyền đã lấy những khoản tiền dịch vụ với giá cắt cổ. Họ thu tiền cao, tống người lao động qua xứ người rồi vứt đó cho họ tự bơi kiểu sinh con bỏ chợ. Đây là một hình thức buôn nô lệ kiểu mới, kiểu XHCN. Theo thông tin trên RFA, ngày 05/05/2019 công nhân Việt Nam đã biểu tình trước văn phòng Văn Hoá – Kinh tế của Việt Nam ở Đài Bắc . Họ biểu tình vì qua đến nơi, họ mới nhận ra là họ bị bóc lột sức lao động. Những công nhân xuất khẩu lao động ở vùng quê Việt Nam đã đóng phí dịch vụ đến 6 ngàn đô Mỹ để được đi, trong khi những công nhân đến từ Thái Lan, Indonesia và Phillipines chỉ chi từ 1 đến 3 ngàn đô cho môi giới, trong khi đó mức sống các nước kia đều hơn Việt Nam rất nhiều. Trong thị trường rút rỉa túi tiền dân nghèo này, có nhiều những công ty môi giới là sân sau của quan chức nhà nước. Quảng cáo rao bán cô dâư VN Vào thời kỳ người Âu Châu khám phá ra Châu Mỹ, họ tiến hành di cư sang vùng đất mới. Người Âu Châu đến đó làm chủ, họ dùng sức mạnh của họ đến Châu Phi bắt người da đen đem bán cho giới chủ người da trắng tại châu lục mới này để làm nô lệ. Người Châu Phi dốt nát và họ đã bị người da trắng xem là món hàng. Khi đó, nô lệ được dắt ra chợ bán như bán một con gia súc. Tuy bọn buôn nô lệ người da trắng rất ác, nhưng họ chưa bao giờ buôn đồng bào của họ làm nô lệ cả. Ngày nay, tình trạng phụ nữ Việt Nam bị buôn bán làm nô lệ tình dục ở các nước Á Đông rất phổ biến. Chuyện này cứ ngang nhiên diễn ra hết năm này đến năm khác. Kết quả là tại những nước như Trung Quốc Hàn Quốc, Đài Loan họ xem mua vợ Việt Nam như là mua mớ rau con cá với giá rất bèo. Thậm chí trên báo mạng Trung quốc còn quảng cáo rằng “3 vạn tệ (100 triệu VNĐ) mua một cô vợ Việt Nam, chạy 1 cô đền 1 cô”. Sự lộng hành của các công ty môi giới lừa đảo, tình trạng bắt cóc buôn người xảy ra rất phổ biến, trước hết trách nhiệm đó thuộc chính quyền. ở Việt Nam, bao nhiêu người chỉ ra cái sai của chính quyền, họ không phạm tội gì lại bị bắt nhốt tù vô cớ như trường hợp Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh là ví dụ, anh ta chỉ phản biện những sai trái của chính quyền mà bị kết án 5 năm tù, còn tình trạng buôn người, tổ chức lừa đảo đang lộng hành thì chính quyền không quan tâm. Nói cho dễ hiểu, thì chính quyền này vây bắt người có ích cho xã hội và thả cho những kẻ tàn phá xã hội lộng hành. Chính quyền thế thì dân nào sống nổi? Thực ra những gì đang diễn ra ở đất nước Việt khốn khổ này nó không hẳn là yếu kém của ĐCS mà là chính sách hẳn hoi. Họ không thể giúp đất nước phát triển được thì họ cũng tàn phá luôn. Vì trong đầu họ, tàn phá đất nước họ có lợi hơn là xây dựng. Chính vì thế, họ đã không chùn tay tàn phá đất nước để dân chịu không nổi và di cư ra nước ngoài lao động tạo thành một thị trường béo bở để họ tư lợi. Xuất khẩu culi nhiều cũng đồng nghĩa với việc Đảng kiếm nhiều ngoại tệ do chính những lao động này làm gởi về nước. Đất nước mất gì kệ nó, dân mất gì kệ nó, miễn sao Đảng có đô và đảng viên được hưởng vinh hoa phú quý là được. Thật sự, ĐCS và thân hữu của nó là loài kền kền bên xác nhân dân. Tham khảo: – https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/viet-labor-in-taiwan-protest-gov-of-vn-05052019084652.html – https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/trung-quoc-quang-cao-mua-vo-viet-nam-100-trieu-mot-co-148779.html
......

“Không thể đi theo con đường lao động giá rẻ”

  Phương Thảo - VNTB! Tiền lương không tăng theo tỷ lệ thuận với lạm phát, tiền lương vẫn nằm trong tỷ lệ nghịch với giá điện và xăng. Nhà ở xã hội vẫn nằm trên giấy nhường ưu tiên cho những dự án nhà ở – biệt thự – khu nghỉ dưỡng cao cấp. Môi trường làm việc vẫn không được biết đến ở khía cạnh không có bạo lực thể xác và ngôn ngữ cũng như lạm dụng tình dục. Nhân công giá rẻ – một lợi thế lớn của Việt Nam trong việc lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam từ thị trường Trung Quốc khi mà giá nhân công ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với giá nhân công ở Trung Quốc. Đắng cay đời nữ công nhân may Giá nhân công rẻ đem lại nhiều lợi lộc cho giới đầu tư. Hãy cứ thử nhẩm tính một đôi giày Nike hay một cái quần jeans Levi’s có giá bán lẻ 100 đến 200 euros ở châu Âu (tức 2,7 tới 5,2 triệu đồng Việt Nam) thì giá gia công chỉ từ vài xu cho tới dưới một euro. Chưa kể đến các nhãn hiệu cao cấp khác cũng được sản xuất ở Châu Á với giá bán trên dưới 1000 euro mà giá nhân công vẫn không thay đổi. Đây chính là điều mà những người quan tâm đến nhân quyền và công bằng trong xã hội cho là bóc lột sức lao động của người dân ở các quốc gia thứ ba. Dù lương căn bản ở Việt Nam đã được tăng lên, nhưng mức lương khoảng 5 triệu đồng một tháng của công nhân các nhà máy may khi chưa tăng ca vẫn không đủ sống. Đã có cảnh báo về việc một nửa nữ công nhân may Việt Nam phải đối mặt với bạo lực nơi làm việc sau khi tổ chức Fair Wear Foundation, một đối tác của các thương hiệu quần áo bền vững, phỏng vấn 763 nữ công nhân may Việt Nam. 43% người được phỏng vấn cho hay họ đã bị bạo hành hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc trong mười hai tháng qua. Nữ công nhân có thể bị quản đốc đánh vô tay bạn hay chủ đòi tình để đổi lấy sự thăng tiến. Hai triệu người hiện đang làm việc trong các nhà máy dệt may tại Việt Nam, 80% trong số đó là phụ nữ. Hầu hết trong số họ là người nông thôn đi lên thành phố để làm việc ở các khu công nghiệp. Hai phần ba nữ công nhân may có con nhỏ và một nửa số các bà mẹ phải bỏ con lại ở quê để lên thành phố làm một trong những công việc được trả lương thấp nhất trong xã hội. Những người phụ nữ gốc nông dân này là nhóm người dễ bị tổn thương hơn vì không có an sinh xã hội. Thực trạng và giải pháp cho lao động nữ tại Việt Nam Thương mại phải đi đôi với kinh doanh có trách nhiệm? Các cuộc phỏng vấn của Fair Wear Foundation được thực hiện bên ngoài nhà máy để tránh bị ảnh hưởng từ phía các nhà quản lý cũng như câu trả lời theo ý muốn của xã hội. Công nhân may tăng ca thường xuyên và hầu như phải làm việc 60 giờ một tuần, cao gấp gần gấp đôi so với mức giờ lao động chuẩn, nhưng không tăng ca thì không đủ sống. Việc đối mặt với bạo hành và quấy rối trong công việc còn đôi khi song hành cả với tiền tăng ca không được thanh toán. Ông giám đốc tổ chức Fair Wear Foundation cho biết cũng đã chuyển nghiên cứu của họ cho Bộ Lao Động của Việt Nam trong đó có nhấn mạnh đến vấn đề tiền lương và quấy rối tình dục nơi làm việc nhằm giúp cho bộ chủ quản và các ban ngành liên quan trong việc sửa đổi Luật Lao động theo tiêu chuẩn ILO. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) sẽ đưa ra quyết định vào tháng 6 năm nay về một hiệp ước chống lại bạo lực và quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Báo cáo cũng cho biết rằng “mặc dù chính quyền Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh rằng nước này đạt chỉ số cao về tham gia lao động của nữ giới và giáo dục công bằng, nhưng quấy rối hoặc lạm dụng tình dục là phổ biến.” Điều đó cũng được chứng minh từ kết quả nghiên cứu bởi vì, ngoài việc quấy rối tại nơi làm việc, một nửa số phụ nữ được phỏng vấn nói rằng họ đã bị quấy rối trên đường về nhà hoặc đi làm. Kết quả nghiên cứu này cũng đã được trình cho Thủ Tướng Hà Lan Mark Rutte trong chuyến công du Việt Nam hồi đầu tháng 4 tại Hà Nội nhằm yêu cầu Mark Rutte phải “liên kết quyền lao động với quan hệ thương mại tốt hơn. Thương mại phải đi đôi với kinh doanh có trách nhiệm.” Ai cho tôi công lý nơi làm việc Quyển sách về “Công lý nơi làm việc” ở Việt Nam đã khám phá ra rằng công nhân ở Việt Nam nói riêng và công nhân châu Á nói chung là những người thụ động. “Lực lượng lao động nữ đơn giản (vì không biết gì đến quyền lợi của mình), giá nhân công rẻ, và không bao giờ gây phiền hà. Họ làm việc chăm chỉ và biết tuân phục” là mồi câu được sử dụng để lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài đến để khai thác sức lao động giá rẻ và gia tăng đầu tư trong nước. Công nhân may đã từng có các cuộc đình công lớn tự phát buộc giới chủ phải thoả mãn các yêu cầu về lương bổng nhưng rồi nhanh chóng xẹp xuống. Tuy nhiên họ vẫn là những người thụ động, sợ mất việc làm, chấp nhận bị đối xử tệ và hơn hết không được phép biểu tình vì chính quyền sợ ảnh hưởng đến nhà đầu tư cũng như làm nguy hại đến một hình ảnh một Việt Nam ổn định – an toàn. Công đoàn lại vô tích sự không đóng một vai trò gì trong việc bảo vệ quyền lợi của công nhân. “Không thể đi theo con đường lao động giá rẻ” Ngày 5/5 vừa qua ông Phúc lên tiếng về việc lao động giá rẻ không phải là hướng phát triển lâu dài. Ông thủ tướng hoàn toàn đúng nhưng ông chỉ đề cập đến lực lượng lao động kỹ thuật cao còn những người lao động như các nữ công nhân may lại không được đưa vào chương trình nghị sự. Nên nhớ rằng xuất khẩu dệt may và da giày Việt Nam vẫn chiếm áp đảo so với các ngành nghề khác. Ngay cả công nhân làm việc cho Samsung, có mức đóng góp xấp xỉ 30% thu nhập GDP cho Việt Nam cũng không phải là công nhân kỹ thuật cao và vẫn chỉ là những người công nhân trong dây chuyền lắp rắp. Ông Phúc cũng đề cập đến cải thiện tiền lương đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu, nhà ở xã hội, môi trường làm việc cho công nhân. Nhưng tiền lương không tăng theo tỷ lệ thuận với lạm phát, tiền lương vẫn nằm trong tỷ lệ nghịch với giá điện và xăng. Nhà ở xã hội vẫn nằm trên giấy nhường ưu tiên cho những dự án nhà ở – biệt thự – khu nghỉ dưỡng cao cấp. Môi trường làm việc vẫn không được biết đến ở khía cạnh không có bạo lực thể xác và ngôn ngữ cũng như lạm dụng tình dục. Tháng 6 nếu thêm một điều khoản của ILO được đưa ra về vấn đề bạo lực và quấy rối tình dục nơi làm việc, cộng với vấn đề “bạo lực và quấy rối tình dục nơi làm việc” vào chương trình nghị sự ở châu Âu, hi vọng chính quyền độc đảng sẽ học hỏi được cách phát triển bền vững dựa vào từ các giá trị nhân bản đơn giản nhất trở đi. Phương Thảo -  Việt Nam Thời Báo Mất việc ở tuổi 35 tại Việt Nam  
......

Chuyện gì sẽ xảy ra khi ông Trọng vô năng?

Trung Điền – Web Việt Tân| Sự vô năng của ông Trọng có thể sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện trong tang lễ của ông Lê Đức Anh vào sáng ngày 4 tháng 5 vừa qua tại Nhà tang lễ quốc gia Hà Nội. Thay vào đó, người ta đưa vòng hoa của ông Nguyễn Phú Trọng đến viếng và xướng danh ông Trọng là người đứng đầu ban tang lễ gồm 39 người. Từ sau vụ đột quỵ ở Kiên Giang hôm 14 tháng 4, sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng trong tang lễ của ông Lê Đức Anh rất quan trọng – không phải chỉ cho riêng cá nhân ông mà còn đối với tập thể Bộ chính trị đảng CSVN. Nếu ông Trọng xuất hiện trong tang lễ, tức chỉ sau ba tuần mà phục hồi nhanh như vậy, sẽ cho thấy là cú “đột quỵ” ở Kiên Giang không đến nỗi nào, ông Trọng vẫn có nhiều tiềm năng cầm chịch hai trách vụ Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Hơn thế nữa, tang lễ của ông Lê Đức Anh có thể coi như là lễ tang cuối cùng đối với thế hệ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến quá khứ. Đáng lý ra, ông Trọng phải hiện diện trong vai trò người lãnh đạo cao nhất hiện nay để nói lời chia tay với thế hệ đàn anh. Nhưng có lẽ “người tính không bằng trời tính”. Sức khỏe đã không cho phép ông Trọng xuất hiện, điều này cho thấy là cú “đột quỵ” của ông Trọng vừa qua không nhẹ tý nào. Nói cách khác là tuy tính mệnh có thể không còn nguy kịch, nhưng sự hồi phục để trở lại bình thường như trước ngày 14 tháng 4 sẽ rất khó và ông Trọng sẽ dần dần rơi vào tình trạng vô năng, không còn có thể hoạt động bình thường chứ đừng nói đến việc đảm đang hai vai trò quan trọng là tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước. Các biến chứng của bệnh đột quỵ nặng thường là mất trí nhớ, không còn khả năng diễn đạt, và có khi liệt tứ chi, nếu không là đi vào hôn mê vĩnh viễn. Trong trường hợp có thể phục hồi cần phải rất nhiều thời gian và nỗ lực điều trị, mà cũng không thể nào trở lại như xưa. Ở lứa tuổi gần 80, việc phục hồi lại càng không phải dễ. Đảng CSVN, dù muốn hay không, cũng sẽ phải tuyên bố việc thay thế ông Trọng mà thôi. Ông Trọng hiện nay đang đảm trách bốn công việc rất quan trọng. Công việc thứ nhất là phụ trách tiểu ban nhân sự đại hội 13. Tức là sắp xếp, chọn lọc khoảng 600 cán bộ để giữ những trách vụ trong Trung ương đảng, Bộ chính trị, Bí thư và cán bộ của 63 Tỉnh, Thành trực thuộc Trung ương, Đại biểu Quốc hội sau đại hội 13. Đây không phải là công việc dễ dàng vì phải đối đầu gay gắt với những đòn phá ngầm của các phe. Công việc thứ hai là phụ trách tiểu ban về đường lối và tài liệu đại hội 13. Tức là soạn thảo đường lối hoạt động của đảng CSVN trong 10 năm tới trong bối cảnh phai nhạt của “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Công việc thứ ba là vai trò của người “đốt lò vĩ đại”, đứng đầu Ban phòng chống tham nhũng nhằm thanh lọc hàng ngũ đảng. Công việc thứ tư là chỉ đạo nhà nước và chính phủ tiến hành chính sách đu dây sao cho hiệu quả trong bối cảnh xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, để giữ không làm sứt mẻ “tình hữu nghị” đối với Trung Cộng khi mà sự hợp tác chiến lược giữa CSVN với Hoa Kỳ ngày một gia tăng hiện nay. Đương nhiên, ông Trọng có rất nhiều người phụ tá, nhưng ở vai trò lãnh đạo, ông Trọng phải suy nghĩ để đưa ra những đề xuất và nhất là “cầm chịch” các quyết định quan trọng về nhân sự, vị trí đóng góp của từng phe, từng thành phần. Với tình hình sức khỏe như hiện nay, ông Trọng khó có thể tiếp tục làm tốt bốn công tác quan trọng này. Đó là chưa kể đến những đối thủ của ông Trọng tìm cách gây “áp lực”, tạo ra những căng thẳng trong nội bộ, khiến ông Trọng có thể phải tự buông bỏ nếu muốn bảo toàn tính mạng. Đây là những thủ đoạn thường được các phe nhóm áp dụng tại những quốc gia độc tài. Quả thật là không ai ngờ chuyến đi Kiên Giang hôm 13-14 tháng 4 lại trở thành chuyến đi định mệnh không chỉ đối với ông Trọng mà cho cả tương lai của đảng CSVN. Thứ nhất, trong tình trạng sức khỏe hiện nay, ông Trọng sẽ cần tới sự giúp đỡ của hai nhân vật thân tín, đó là Trần Quốc Vượng và Phạm Minh Chính cả về đường lối và chỉ đạo trong nội bộ đảng, đặc biệt là các chuẩn bị về nhân sự, đường lối và tổ chức đại hội 13. Vô hình chung, hai ông Vượng và ông Chính sẽ thao túng quyền lực ở trong đảng với dự kiến là ông Vượng sẽ nắm ghế Tổng bí thư và ông Chính sẽ là thường trực Ban bí thư trong đại hội 13. Ông Trần Quốc Vượng sinh năm 1953 (tuổi về hưu) trong khi ông Phạm Minh Chính sinh năm 1958 cho nên ông Chính sẽ giúp ông Vượng ở lại ghế Tổng bí thư để sau đó giúp ông Chính nắm ghế Tổng bí thư ở đại hội 14. Thứ hai, với vai trò Thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ cùng lúc đóng vai trò Chủ tịch nước và Thủ tướng chính phủ trong các quan hệ đối ngoại cũng như tham dự các Hội nghị quốc tế. Nói cách khác, khi ông Trọng vô năng, ông Nguyễn Xuân Phúc nghiễm nhiên trở thành nhân vật lãnh đạo có tầm vóc duy nhất trong con mắt của quốc tế. Ông Nguyễn Xuân Phúc sinh năm 1954 là tuổi sẽ về hưu vào tháng 1/2021, nhưng với lợi thế bất ngờ hiện nay sẽ giúp cho ông Phúc có thể được Bộ chính trị và Trung ương đảng khóa 12 giới thiệu làm Tổng bí thư của khóa 13. Với kịch bản nói trên, sự vô năng của ông Trọng sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Cuộc chiến sẽ bùng nổ lớn trong những ngày tháng trước mặt, và sẽ còn gay gắt hơn những gì đã xảy ra giữa hai phe Trọng-Dũng năm 2016.  
......

Những ai sẽ vào ‘tứ trụ’ tại Đại hội Đảng 2021?

Trương Xuân Danh| Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức Năm năm một lần, nó được ví như một ngọn hải đăng của hệ thống chính trị một Đảng tại Việt Nam. Mỗi lần Đại hội, Đảng lại nỗ lực “trình làng” một thế hệ lãnh đạo mới chất lượng mang đậm hàm ý “đổi mới”. Kể từ những ngày đầu năm trước Đại Hội cho đến những Hội nghị Trung ương cuối cùng trước khi “chốt” các nhân vật ở tầng cao nhất, chủ đề nhân sự luôn sôi động, thu hút được sự chú ý đặc biệt của dư luận. Có thể còn quá sớm để đưa ra các nhận định hay dự đoán về giàn lãnh đạo chủ chốt mới tại Đại hội Đảng XIII, (dự kiến diễn ra vào tháng 1/2021). Nhưng ngay từ bây giờ chúng ta có thể dựa trên các dữ liệu “cứng” như các quy định “thành văn” được Đảng ban hành về lựa chọn nhân sự, cấu trúc hệ thống lựa chọn từ trên xuống theo truyền thống vẫn còn ổn định, và cuối cùng là các quy ước “bất thành văn” để đưa ra những phân tích, phán đoán cơ bản. Không thể phủ nhận rằng các Đại hội kể từ hai thập niên trở lại đây sự dân chủ trong Đảng đã được gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt đối với vấn đề chuẩn bị nhân sự chủ chốt cho mỗi kì Đại hội. Các quy định, tiêu chí, tiêu chuẩn về các vị trí nhân sự chủ chốt của Đảng được ban hành chi tiết. Các thông tin về nhân sự chủ chốt, quy trình bỏ phiếu đều được công khai tối đa. Đó sẽ là những yếu tố quan trọng để các phân tích và phán đoán trở nên chất lượng hơn. Bộ Chính trị và ba nhóm thế hệ Bộ chính trị Đại hội khóa XII có 19 người nhưng hiện nay chỉ còn 16 Ủy viên làm việc. Theo các quy định về độ tuổi, chúng tôi tạm thời chia làm ba nhóm. Nhóm thứ Nhất là những người quá tuổi tái cử Ủy viên Bộ Chính trị theo quy định, và phải rời vị trí sau Đại hội XIII (trên 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại hội), tạm gọi là nhóm “Bộ Tám” bao gồm Tổng bí thư, Chủ tịch nước và 7 người sinh vào những năm 1953, 1954, 1955. Cụ thể, nhóm này gồm Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng (SN 1944), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (SN 1954), bà Nguyễn Thị Kim Ngân Chủ tịch Quốc hội (SN 1954), ông Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban bí thư, (SN 1953), bà Tòng Thị Phóng, phó Chủ tịch thường trực Quốc hội (SN 1954), ông Trương Hòa Bình Phó Thủ tướng thường trực (SN 1955), ông Ngô Xuân Lịch Bộ trưởng Quốc phòng (1954), và ông Nguyễn Thiện Nhân, Bí thư TP HCM (SN 1953). Như vậy “Bộ Tám” về nguyên tắc sẽ không tái cử Đại hội khóa XIII (chiếm 50% số lượng Ủy viên Bộ chính trị hiện nay) tương đối phù hợp với nguyên tắc kế cận. Nhóm thứ Hai gồm Sáu Ủy viên Bộ Chính trị, là nhóm theo quy định được cơ cấu tái cử, (dưới 65 tuổi vào ngày bầu cử Đại hội XIII) sinh vào các năm 1957, 1958, 1959 tạm gọi là nhóm “Bộ Sáu”. Cụ thể bao gồm, ông Phạm Minh Chính, trưởng ban Tổ chức TƯ (SN 1958), bà Trương Thị Mai, trưởng ban Dân vận (SN 1958), ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao (SN 1959), ông Vương Đình Huệ, Phó Thủ tướng Chính phủ (SN 1957), ông Tô Lâm Bộ trưởng Công an (SN 1957), ông Hoàng Trung Hải, Bí thư Hà Nội (SN 1959). Nhóm thứ Ba là nhóm sinh từ năm 1961 trở về sau, tạm gọi là “Nhóm 2026”, tức là nhóm không những tái cử ở nhiệm kì Đại hội XIII, mà còn đủ tuổi để tái cử vào nhiệm kì Đại hội XIV (2026), bao gồm hai ông là Võ Văn Thưởng trưởng ban Tuyên giáo TƯ (SN 1970) và ông Nguyễn Văn Bình, (SN 1961) trưởng ban Kinh tế TƯ. Bộ chính trị VC khóa 12 hiện nay Ai sẽ là Tổng Bí thư? Trong trường hợp Tổng Bí thư Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không tái cử Đại hội XIII, chúng ta bắt đầu tiến hành “diễn dịch” của Quy định 90-QĐ/TW về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban chấp hành TƯ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lí” được ban hành ngày 4.8.2017. Đoạn quy định chức danh Tổng Bí thư ngoài các tiêu chí chung có một điều kiện đặc biệt, ứng cử viên phải “có năng lực lãnh đạo, điều hành Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư”. Trong các phiên họp của Ban chấp hành TƯ hiện nay ngoài Tổng Bí thư chỉ có Ba chức danh là Thủ tướng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, và Thường trực Ban bí thư được phép ngồi Chủ tọa và điều hành phiên họp. Trong lịch sử và theo truyền thống kể từ thời Tổng bí thư Lê Duẩn tại Đại hội VI (1986), các nhân vật phải nắm giữ vị trí từ Thường trực ban bí thư trở lên cho đến các vị trí cao nhất mới có khả năng kế cận trở thành Tổng bí Thư. Cụ thể ở đây, tại Đại hội VI (1986) là ông Nguyễn Văn Linh, trước đó ông là Thường trực Ban bí thư, Đại hội VII (1991) ông Đỗ Mười, trước đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương Thủ tướng hiện nay), Đại hội VIII (1996) ông Đỗ Mười tiếp tục tái cử. Tại Hội nghị TƯ tháng 12/1997, Ban Chấp hành T.Ư đã bầu ông Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư, ông Lê Khả Phiêu lúc đó là Thường Vụ Bộ chính trị, một trong bốn vị trí cao nhất, sau Tổng bí thư Đỗ Mười. Đại hội IX (2001), là ông Nông Đức Mạnh, trước đó ông là Chủ tịch Quốc hội, Đại hội X (2006) ông Nông Đức Mạnh tiếp tục tái cử. Đại hội XI (2011) là ông Nguyễn Phú Trọng, ông lúc đó là Chủ tịch Quốc hội, Đại hội XII (2016), ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục tái cử. Với Quy định về chức danh Tổng Bí thư, và theo lịch sử lựa chọn các vị trí quyền lực nhất từ trên xuống được “truyền thống hóa” kể từ thời Tổng bí thư Lê Duẩn, thì hiện nay các ông Nguyễn Xuân Phúc, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, và ông Trần Quốc Vượng hiện sẽ có nhiều lợi thế. Tuy nhiên trong ba người, thì bà Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ như không được truyền thống hay lịch sử “ưu ái”, vì trong lịch sử cũng như theo truyền thống Đảng chưa có Tổng bí thư nào là nữ. Ngoài ra Tổng bí thư qua tất cả các thời kì cũng đều là người miền Trung và miền Bắc. Xét trên nhưng quy ước bất thành văn đó thì hiện nay mọi cặp mắt đang đổ dồn về bộ đôi hai ông Nguyễn Xuân Phúc và ông Trần Quốc Vượng. Với các tiêu chí, “đã kinh qua và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chức danh bí thư tỉnh ủy, thành ủy hoặc trưởng ban, bộ, ngành Trung ương; tham gia Bộ Chính trị trọn một nhiệm kỳ trở lên (trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương quyết định), cho thấy việc quy định ứng cử viên Tổng Bí thư phải “đi địa phương” hay tham gia trọn một nhiệm kì Bộ Chính trị đã không còn “cứng” như trước. Nhóm “Tứ trụ” và ẩn số “miền Nam” Việc Đảng chưa có chủ tương nhất thể hóa hai chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước, nên đến Đại hội XIII, khả năng cao chúng ta lại chứng kiến sự quay lại của cấu trúc bốn chức danh chủ chốt (thường gọi là “Tứ trụ”). Vậy những ai có khả năng tiến đến những chiếc ghế còn lại trong “Tứ trụ” bao gồm Chủ tịch Nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội. Quy định 90-QĐ/TW đối với chức danh Chủ tịch Nước đều có các tiêu chí chung cụ thể bao gồm uy tín (được hiểu là không bị các kỉ luật về Đảng, hoạc mức độ tín nhiệm cao trong Bộ chính trị đã được bỏ phiếu), năng lực nổi trội, lĩnh vực công tác. Nếu “áp” các tiêu chí chung cho nhóm “Bộ Sáu”, và “nhóm 2026” thì cả 8 vị trí tái của Bộ chính trị đều có cơ hội ngang nhau. Tuy nhiên theo tiêu chí của chức danh này là “kinh qua và nổi trội trong các lĩnh vực công tác an ninh, đối ngoại, tư pháp..,” thì ba ông Phạm Bình Minh, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, ông Tô Lâm Bộ Trưởng Công an, và ông Phạm Minh Chính, Trưởng ban Tổ chức TƯ sẽ có lợi thế hơn. Đối với chức danh Thủ tướng, ngoài các tiêu chí chung, theo lịch sử và truyền thống tất cả các Thủ tướng hay Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (trước đây) kể từ thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng đều trưởng thành từ Phó Thủ tướng. Đó là các ông Phạm Hùng, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Xuân Phúc. Điều này thể hiện tiêu chí cho việc chọn lựa nhân sự Thủ tướng đặt yếu tố “kinh nghiệm trong điều hành bộ máy Hành pháp” lên hàng đầu. Như vậy các lợi thế sẽ thuộc về các Phó thủ tướng hiện nay, ông Trương Hòa Bình, ông Phạm Bình Minh, và ông Vương Đình Huệ. Hai ông Trịnh Đình Dũng và ông Vũ Đức Đam không tham gia Bộ Chính trị. Trong Ba Phó thủ tướng thì ông Trương Hòa Bình sinh năm 1955 thì hiện nay không đủ tiêu chuẩn tuổi để tái cử Bộ Chính trị, và về lĩnh vực phụ trách ông cũng chuyên trách về mảng nội chính, tư pháp. Ông Phạm Bình Minh chủ yếu phụ trách lĩnh vực đối ngoại. Ông Vương Đình Huệ, nếu xét về tiêu chí thứ ba trong quy định chức danh Thủ tướng là cần “có khả năng hiểu biết sâu, rộng nền hành chính quốc gia, kinh tế – xã hội đất nước; kinh tế, chính trị thế giới và hội nhập quốc tế,” thì có vẻ như là người có nhiều lợi thế nhất. Cuối cùng là chức danh Chủ tịch Quốc hội, cả hai nhóm “Bộ Sáu” và “nhóm 2026” gồm Tám Ủy viên Bộ Chính trị có thể tái cử đều có cơ hội như nhau để tiến đến chức danh đứng đầu cơ quan Lập pháp này. Tuy nhiên nếu theo tiêu chí của chức danh Chủ tịch Quốc hội như “có năng lực nổi trội, toàn diện trong các lĩnh vực công tác, xây dựng pháp luật, giám sát thực thi pháp luật…” thì bà Trương Thị Mai (SN 1958), Trưởng ban Dân Vận hiện nay đang có lợi thế hơn cả. Bà Mai, từng là Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề của Xã hội của Quốc hội, và cũng là Ủy viên Thường vụ Quốc hội hai khóa liền từ 2007-2016. Bà Mai hiện cũng là một trong Ba người có thâm niên tham gia Ban chấp hành TƯ chính thức lâu nhất (Ba khóa, từ Đại hội X, 2006) trong số “bộ Tám tái cử” cùng với hai người còn lại là ông Hoàng Trung Hải tham gia ban chấp hành TƯ Bốn khóa, từ Đại hội IX (2001) ông Vương Đình Huệ từ Đại hội X (2006). Bà là đại biểu Quốc hội có thâm niên cao nhất trong nhóm “Bộ Tám” Ủy viên Bộ Chính trị có khả năng tái cử hiện nay. Nếu không có gì thay đổi Bà sẽ tham gia làm Đại biểu Quốc hội ít nhất trọn 24 năm (kể từ năm 1997 cho đến Đại hội 2021) là người tham gia sinh hoạt nghị trường hơn hai thập kỉ liên tục. Cuối cùng cần nói thêm một truyền thống “bất thành văn” có tính chất vùng miền khó có thể bỏ qua đó là kể từ sau năm 1975, Bốn vị trí cao nhất chưa bao giờ vắng mặt một nhân vật đến từ Miền Nam. Bộ Chính trị khóa XII hiện nay có Bốn nhân vật đến từ Miền Nam bao gồm bà Nguyễn Thị Kim Ngân (Bến Tre), ông Nguyễn Thiện Nhân (Trà Vinh), ông Trương Hòa Bình (Long An), ông Võ Văn Thưởng (Vĩnh Long). Tuy nhiên trong Bốn nhân vật trên theo quy định bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Thiện Nhân và ông Trương Hòa Bình đã quá tuổi tái cử Bộ Chính trị. Nhân vật miền Nam theo quy định đủ tuổi tái cử là ông Võ Văn Thưởng (SN 1970), Trưởng ban Tuyên giáo TƯ trưởng thành khá trẻ, ông sinh năm 1970. Vì vậy việc “Tứ trụ” khóa XIII có “cơ cấu cứng” một nhân vật đến từ Miền Nam hay không vẫn còn là một ẩn số lớn. Nhóm “ngoài Tứ Trụ” Theo nguyên tắc đến hết Khóa này số lượng Ủy viên Bộ Chính trị vẫn có thể được bổ sung để đạt trở lại con số 19 như Đại hội XII đã bầu. Nếu số lượng Ủy viên Bộ Chính trị trở lại con số 19 thì các vị trị “Tứ trụ” được dự kiến cho Đại hội XIII như phân tích ở trên theo chúng tôi không bị ảnh hưởng. Nó chỉ ảnh hưởng đối với vị trí của nhóm ở dưới, nhóm “Bộ Tám” tái cử. Đối với vị trí Thường trực Ban Bí thư, cơ hội cũng chia đều cho nhóm “Bộ Tám” Ủy viên Bộ chính trị tái cử. Tuy nhiên các nhân vật đang điều hành công tác Đảng hiện nay được chú ý hơn bao gồm các ông Phạm Minh Chính, bà Trương Thị Mai, ông Võ Văn Thưởng và ông Nguyễn Văn Bình. Vị trí Bộ trưởng Quốc phòng, nếu ông Ngô Xuân Lịch không tái cử, theo truyền thống kế cận sẽ là một nhân vật đến từ lực lượng vũ trang là Bộ Quốc phòng. Hiện nay trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư chỉ có ông Lương Cường (SN 1957) Bí thư TƯ Đảng, công tác tại Bộ Quốc phòng, ông là Đại tướng, và là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Những người ủng hộ ông đương nhiên là muốn một kịch bản lặp lại như ở Đại hội XI, lúc đó ông Ngô Xuân Lịch cũng là Bí thư TƯ Đảng và là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Vị trí Bộ trưởng Ngoại giao nếu ông Phạm Bình Minh rời đi để tiến đến một vị trí cao hơn sau hai nhiệm kì chúng ta sẽ có Tân bộ trưởng Ngoại giao. Nhân vật này theo truyền thống Bộ trưởng sẽ là người từ Bộ này, người hoạt động ngoại giao chuyên nghiệp. Duy nhất trong quá khứ tại Đại hội X (2006), Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm từ Chính phủ sang kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, do lúc đó Bộ này khủng hoảng nhân sự (chỉ bầu được một Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương, đó là Thứ trưởng Phạm Bình Minh). Bộ Ngoại giao hiện có hai thứ trưởng là Bùi Thanh Sơn và Lê Hoài Trung đều là Trung ương Ủy viên. Các vị trí còn lại như các Trưởng các ban Đảng bao gồm, Tổ chức, Tuyên giáo, Dân vận, Kinh tế, các Bộ trưởng Công an, Bí thứ Hà Nội, TP HCM theo chúng tôi vẫn còn là ẩn số cho đến khi cấu trúc các vị trí chủ chốt bên trên ổn định. Theo nguyên tắc việc cơ cấu các Ủy viên Bộ chính trị để bầu tại Đại hội thường nhắm vào các chức danh cụ thể, ngược lại các chức danh đó phải được cơ cấu “cứng” là Ủy viên Bộ chính trị nắm. Như vậy hai Bí thư TƯ Đảng hiện nay là ông Nguyễn Xuân Thắng, Chủ tịch Hội đồng Lí luận TƯ, và ông Trần Cẩm Tú, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ hiện nay đang có nhiều lợi thế để “ngồi vào” chiếc ghế Ủy viên Bộ chính trị kế tiếp. Vì thường hai vị trí này theo truyền thống đều được cơ cấu “cứng” phải là Ủy viên Bộ Chính trị nắm. “Khoảng trống 6X” Trong số 23 Ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư hiện nay, chỉ có ba nhân vật sinh ở thế hệ 6X đó là ông Nguyễn Văn Bình Ủy viên Bộ Chính trị (1961), ông Trần Cẩm Tú, Bí thư TƯ Đảng (1961), và ông Trần Thanh Mẫn Bí thư TƯ Đảng (1962). Điều đặc biệt lưu ý đó là hiện trong Bộ Chính trị chỉ có một nhân vật duy nhất ở thế hệ 6X đó là ông Nguyễn Văn Bình sinh năm 1961, điều đó cho thấy đang có một khoảng trống thế hệ cho nhóm lãnh đạo thế hệ 6X, hay sự thiếu vắng những lãnh đạo chủ chốt thế hệ 6X. Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, ông Trần Cẩm Tú, và Trần Thanh Mẫn Điều đó dẫn đến việc Đại hội XIV (2026) một thế hệ lãnh đạo “6X,7X” nhiệm kì Bộ Chính trị Ban Bí thư Khóa này nếu được tái cử chỉ còn Bốn nhân vật là các ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, Trần Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn. Đó là một tỉ lệ kế cận 6X khá khiêm tốn. Do vậy chúng tôi nhận định tại Đại hội XIII chủ yếu sẽ là sự bổ sung “thế hệ tuổi từ giữa cho đến cuối 6X” cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư để đảm bảo vững chắc nguyên tắc kế thừa các thế hệ lãnh đạo. Theo như phân tích trên đây cùng với truyền thống thâm niên và kế thừa lãnh đạo nếu không có gì thay đổi, các ông Võ Văn Thưởng, Nguyễn Văn Bình, ông Trần Cẩm Tú, và Trần Thanh Mẫn, sẽ tiến đến những vị trị cao nhất trong hệ thống quyền lực tại Đại hội XIV (2026)./.
......

Chuyện gì sẽ xảy ra khi ông Trọng vô năng?

Trung Điền | Ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện trong tang lễ của ông Lê Đức Anh vào sáng ngày 4 tháng 5 vừa qua tại Nhà tang lễ quốc gia Hà Nội. Thay vào đó, người ta đưa vòng hoa của ông Nguyễn Phú Trọng đến viếng và xướng danh ông Trọng là người đứng đầu ban tang lễ gồm 39 người. Từ sau vụ đột quỵ ở Kiên Giang hôm 14 tháng 4, sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng trong tang lễ của ông Lê Đức Anh rất quan trọng – không phải chỉ cho riêng cá nhân ông mà còn đối với tập thể Bộ chính trị đảng CSVN. Nếu ông Trọng xuất hiện trong tang lễ, tức chỉ sau ba tuần mà phục hồi nhanh như vậy, sẽ cho thấy là cú “đột quỵ” ở Kiên Giang không đến nỗi nào, ông Trọng vẫn có nhiều tiềm năng cầm chịch hai trách vụ Tổng bí thư và Chủ tịch nước. Hơn thế nữa, tang lễ của ông Lê Đức Anh có thể coi như là lễ tang cuối cùng đối với thế hệ lãnh đạo trực tiếp cuộc chiến quá khứ. Đáng lý ra, ông Trọng phải hiện diện trong vai trò người lãnh đạo cao nhất hiện nay để nói lời chia tay với thế hệ đàn anh. Nhưng có lẽ “người tính không bằng trời tính”. Sức khỏe đã không cho phép ông Trọng xuất hiện, điều này cho thấy là cú “đột quỵ” của ông Trọng vừa qua không nhẹ tý nào. Nói cách khác là tuy tính mệnh có thể không còn nguy kịch, nhưng sự hồi phục để trở lại bình thường như trước ngày 14 tháng 4 sẽ rất khó và ông Trọng sẽ dần dần rơi vào tình trạng vô năng, không còn có thể hoạt động bình thường chứ đừng nói đến việc đảm đang hai vai trò quan trọng là tổng bí thư đảng kiêm chủ tịch nước. Các biến chứng của bệnh đột quỵ nặng thường là mất trí nhớ, không còn khả năng diễn đạt, và có khi liệt tứ chi, nếu không là đi vào hôn mê vĩnh viễn. Trong trường hợp có thể phục hồi cần phải rất nhiều thời gian và nỗ lực điều trị, mà cũng không thể nào trở lại như xưa. Ở lứa tuổi gần 80, việc phục hồi lại càng không phải dễ. Đảng CSVN, dù muốn hay không, cũng sẽ phải tuyên bố việc thay thế ông Trọng mà thôi. Ông Trọng hiện nay đang đảm trách bốn công việc rất quan trọng. Công việc thứ nhất là phụ trách tiểu ban nhân sự đại hội 13. Tức là sắp xếp, chọn lọc khoảng 600 cán bộ để giữ những trách vụ trong Trung ương đảng, Bộ chính trị, Bí thư và cán bộ của 63 Tỉnh, Thành trực thuộc Trung ương, Đại biểu Quốc hội sau đại hội 13. Đây không phải là công việc dễ dàng vì phải đối đầu gay gắt với những đòn phá ngầm của các phe. Công việc thứ hai là phụ trách tiểu ban về đường lối và tài liệu đại hội 13. Tức là soạn thảo đường lối hoạt động của đảng CSVN trong 10 năm tới trong bối cảnh phai nhạt của “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Công việc thứ ba là vai trò của người “đốt lò vĩ đại”, đứng đầu Ban phòng chống tham nhũng nhằm thanh lọc hàng ngũ đảng. Công việc thứ tư là chỉ đạo nhà nước và chính phủ tiến hành chính sách đu dây sao cho hiệu quả trong bối cảnh xung đột ngày một gay gắt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, để giữ không làm sứt mẻ “tình hữu nghị” đối với Trung Cộng khi mà sự hợp tác chiến lược giữa CSVN với Hoa Kỳ ngày một gia tăng hiện nay. Đương nhiên, ông Trọng có rất nhiều người phụ tá, nhưng ở vai trò lãnh đạo, ông Trọng phải suy nghĩ để đưa ra những đề xuất và nhất là “cầm chịch” các quyết định quan trọng về nhân sự, vị trí đóng góp của từng phe, từng thành phần. Với tình hình sức khỏe như hiện nay, ông Trọng khó có thể tiếp tục làm tốt bốn công tác quan trọng này. Đó là chưa kể đến những đối thủ của ông Trọng tìm cách gây “áp lực”, tạo ra những căng thẳng trong nội bộ, khiến ông Trọng có thể phải tự buông bỏ nếu muốn bảo toàn tính mạng. Đây là những thủ đoạn thường được các phe nhóm áp dụng tại những quốc gia độc tài. Quả thật là không ai ngờ chuyến đi Kiên Giang hôm 13-14 tháng 4 lại trở thành chuyến đi định mệnh không chỉ đối với ông Trọng mà cho cả tương lai của đảng CSVN. Thứ nhất, trong tình trạng sức khỏe hiện nay, ông Trọng sẽ cần tới sự giúp đỡ của hai nhân vật thân tín, đó là Trần Quốc Vượng và Phạm Minh Chính cả về đường lối và chỉ đạo trong nội bộ đảng, đặc biệt là các chuẩn bị về nhân sự, đường lối và tổ chức đại hội 13. Vô hình chung, hai ông Vượng và ông Chính sẽ thao túng quyền lực ở trong đảng với dự kiến là ông Vượng sẽ nắm ghế Tổng bí thư và ông Chính sẽ là thường trực Ban bí thư trong đại hội 13. Ông Trần Quốc Vượng sinh năm 1953 (tuổi về hưu) trong khi ông Phạm Minh Chính sinh năm 1958 cho nên ông Chính sẽ giúp ông Vượng ở lại ghế Tổng bí thư để sau đó giúp ông Chính nắm ghế Tổng bí thư ở đại hội 14. Thứ hai, với vai trò Thủ tướng, ông Nguyễn Xuân Phúc sẽ cùng lúc đóng vai trò Chủ tịch nước và Thủ tướng chính phủ trong các quan hệ đối ngoại cũng như tham dự các Hội nghị quốc tế. Nói cách khác, khi ông Trọng vô năng, ông Nguyễn Xuân Phúc nghiễm nhiên trở thành nhân vật lãnh đạo có tầm vóc duy nhất trong con mắt của quốc tế. Ông Nguyễn Xuân Phúc sinh năm 1954 là tuổi sẽ về hưu vào tháng 1/2021, nhưng với lợi thế bất ngờ hiện nay sẽ giúp cho ông Phúc có thể được Bộ chính trị và Trung ương đảng khóa 12 giới thiệu làm Tổng bí thư của khóa 13. Với kịch bản nói trên, sự vô năng của ông Trọng sẽ dẫn đến cuộc chạy đua ghế Tổng bí thư cho nhiệm kỳ 13 (2021-2026) giữa phe ông Trần Quốc Vượng và phe ông Nguyễn Xuân Phúc. Cuộc chiến sẽ bùng nổ lớn trong những ngày tháng trước mặt, và sẽ còn gay gắt hơn những gì đã xảy ra giữa hai phe Trọng-Dũng năm 2016./.
......

Việt Nam Quốc tang: Ông Trọng ‘‘biến mất’’, ‘‘tranh đoạt quyền lực’’ bắt đầu ?

Phạm Chí Dũng - RFI|   Điều gây chú ý nhất trong lễ Quốc tang tướng Lê Đức Anh, nguyên chủ tịch nước Việt Nam, hôm 03/05/2019, là sự vắng mặt của lãnh đạo Việt NamNguyễn Phú Trọng. Sự vắng mặt này có ý nghĩa như thế nào đối với chính trường Việt Nam ? Nhà báo Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn phân tích. Những điều gì đáng chú ý trong lễ tang ông Lê Đức Anh ? Điểm đáng chú ý nhất trong lễ tang này, đó là không phải sự quan tâm đối với người đã chết, mà là sự hiện diện hay không của người còn sống - ông kiêm hai chức, tổng bí thư và chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng. Điều đặc biệt nhất trong lần này ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện, mặc dù trước đó khoảng một tuần, bộ Ngoại Giao đã chính thức thông báo là ông Nguyễn Phú Trọng sẽ làm trưởng ban Tang lễ. Và sau đó, chủ tịch Quốc Hội là Nguyễn Thị Kim Ngân cũng thông báo là sức khỏe của đồng chí tổng bí thư, chủ tịch Nước đang hồi phục nhanh chóng. Và người ta trông chờ sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng với một sự quan tâm chưa từng có. Tôi nhớ rằng, đã lâu lắm rồi, mà có thể là chưa từng có một lễ tang nào mà người dân – khối cán bộ, công chức lại quan tâm đến mức như thế. Và điểm thứ hai là khi ông Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện, thì trưởng ban Lễ tang lại rơi vào một người khác. Đó là quan chức, phó thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, cũng là một ủy viên Bộ Chính Trị. Tuy nhiên, sự xuất hiện của ông Trương Hòa Bình, với tư cách trưởng ban Tang lễ tướng Lê Đức Anh dường như có một sự mâu thuẫn rất lớn với một nghị định của chính phủ số 105, quy định phải là tổng bí thư hoặc chủ tịch Nước làm trưởng ban Lễ tang (1). Từ việc ông Nguyễn Phú Trọng không có mặt trong lễ tang có thể suy ra những gì đang hoặc sắp diễn ra trong chính trường Việt Nam ? Trước mắt là vấn đề cá nhân, vấn đề sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng. Và sau đó vấn đề thứ hai là những người có thể kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng, và những thay đổi có thể dẫn đến đảo lộn trong chính trường Việt Nam trong thời gian tới, có lẽ là không bao lâu nữa. Về sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng, mặc dù có những thông tin tích cực về việc điều trị của ông ta. Có những thông tin trước đó một tuần là ông ấy đang phục hồi, rồi tập xe lăn, cũng như tập nói, tập phát âm. Nhưng mà cho tới nay, đã hơn nửa tháng, từ khi ông Trọng bị một biến cố về sức khỏe ở Kiên Giang, nơi được gọi là « căn cứ địa cách mạng » của gia tộc Nguyễn Tấn Dũng, đã không có bất kỳ hình ảnh nào của ông Trọng. Mặc dù, báo chí, báo Đảng, hệ thống tuyên giáo vẫn ra rả đưa tin về chuyện ông Trọng, hôm nay gửi thư, điện chúc mừng giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên, ngày mai gửi thư điện mừng đến một số quốc gia khác. Thậm chí là kể cả hình ảnh ông Trọng ngồi trên giường bệnh cũng không có nổi. Điều đó cho thấy là vấn đề sức khỏe của ông Trọng không thể là vấn đề nhỏ, mà là vấn đề rất lớn. Trong khi đó, chúng ta thấy chính trường Việt Nam đã bắt đầu có những xáo trộn ngầm. Dường như mọi chuyện đang ngưng trệ về nhiều mặt, khi ông Nguyễn Phú Trọng phải điều trị. Đang điều trị hay là biến mất khỏi chính trường ? Nếu nói là « biến mất » khỏi chính trường, thì người ta lại cho rằng tôi nói theo « thuyết âm mưu ». Nhưng thực sự là, trong nhiều trường hợp, thuyết âm mưu ở Việt Nam (hay cũng có thể gọi là các suy đoán, hay « tin đồn ») lại khá là gần với thực tế. Nếu kể đến trường hợp của trưởng ban Nội Chính Nguyễn Bá Thanh cuối 2014, đầu 2015, của bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh giữa năm 2015, hay Trần Đại Quang, chủ tịch Nước vào năm 2017, 2018, thì có khá nhiều thuyết âm mưu, các thông tin đồn đoán bên ngoài, liên quan đến thuyết âm mưu đó lại được xác thực sau đó. Cũng cần phải nhắc lại một hoàn cảnh của ông Trần Đại Quang. Trước khi chết chỉ có một, hai ngày ông Trần Đại Quang còn gửi thư, điện đến một số nước, và còn tiếp đoàn Trung Quốc. Sau đó thì ông ta lăn ra chết. Nói như vậy, để cho thấy rằng, ở góc độ nào đó, khách quan mà nói, thuyết âm mưu (hay tin đồn) nó sẽ có tính xác thực, nếu như được thực tế chứng minh là đúng. Trong trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng, có thể nói rằng, dùng từ ông ta « mất tích » hay « biến mất » khỏi chính trường Việt Nam, trong trường hợp này, vẫn có thể được. Chúng ta có thể so sánh, khi ông Trọng còn bình thường, chưa gặp vấn đề về sức khỏe, ít nhất trên mặt công luận, báo chí, thì tần suất xuất hiện là từ 2 đến 4 ngày, chậm lắm là 5 ngày. Có những giai đoạn, hàng ngày xuất hiện đều đặn. Nhưng từ 14/04/2019, khi xảy ra sự biến Kiến Giang, thì đã hơn nửa tháng rồi. Mà không xuất hiện, thì có thể dùng từ biến mất, hoặc mất tích Xin giải thích rõ hơn về cái gọi là « thuyết âm mưu » ? Với Nguyễn Phú Trọng, hiện nay có hai thuyết âm mưu, hay cũng có thể gọi là « suy đoán ». Một là ông Trọng cố ý, để né tránh việc đi « chầu Thiên tử ở phương Bắc », liên quan đến hội nghị BRI - thượng đỉnh Sáng kiến Một vành đai, Một con đường, do Trung Quốc tổ chức lần thứ hai. Thay vào đó là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Đó là thuyết âm mưu thứ nhất. Và thuyết âm mưu nữa là ông Nguyễn Phú Trọng có thể là rơi vào tình trạng bệnh tật chủ ý như vậy, là một thủ đoạn chính trị, mang tên là « giả chết bắt quạ », thường được các triều đại Trung Quốc trong lịch sử sử dụng. Hai suy đoán này có cơ sở không ? Về thuyết âm mưu thứ nhất, để tránh đi hội nghị BRI ở Trung Quốc, có một cơ sở trước đó. Nguyễn Phú Trọng đã có một số động tác giãn Trung, và song song với giãn Trung là ngả về Mỹ. Biểu hiện chứng minh rõ ràng nhất, cho việc ngả về Mỹ, là cuộc gặp tổng thống Mỹ Donald Trump ở Washington sắp tới, nếu ông ta kịp phục hồi sức khỏe. Và trong cuộc gặp đó hai bên sẽ bàn về vấn đề tăng cường và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác quốc phòng, và đặc biệt là vấn đề Biển Đông. Và kể cả sự hiện diện của một tàu sân bay thứ hai của Mỹ tại Biển Đông, có thể ngay tại cảng Cam Ranh. Và có thể bàn tiếp vấn đề hợp tác cấp chiến lược Việt – Mỹ. Đó là cơ sở cho thuyết âm mưu về việc Nguyễn Phú Trọng tránh đi Trung Quốc. Tuy nhiên, để thuyết âm mưu này đúng, thì nó phải diễn ra một việc khác : Nếu Nguyễn Phú Trọng chủ động tạo ra tình trạng bệnh tật của mình đủ nặng, để khỏi phải đi Trung Quốc, thì ông ta đã phải tìm cách thông tin, bắn tin cho Trung Quốc, đặc biệt cho các cơ quan tình báo Trung Quốc nắm được việc này, tình trạng bệnh tật của ông ta như thế nào. Nếu như vậy, thì ông ta phải thông qua một cái kênh rất ưa thích : báo Đảng. Vấn đề là, làm sao để lý giải được : Vì sao từ ngày 14/04 ở Kiên Giang đến nay, đã không có bất cứ một dòng một chữ nào từ báo Đảng, về tình trạng bệnh tật thực chất của Nguyễn Phú Trọng, mà chỉ nói theo Tuyên giáo, có vấn đề gì đó. Còn dư luận viên thì nói là ông ta chỉ bị choáng nhẹ. Thế thì việc Nguyễn Phú Trọng không sử dụng kênh báo Đảng, cho thấy, cũng giống như các trường hợp đã xảy ra của Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang : Đảng giấu thông tin, bưng bít thông tin, ém nhẹm thông tin, chủ ý là không thông tin ra ngoài. Mà không thông tin ra ngoài, thì làm sao Trung Quốc có thể nắm được ? Mà nếu Trung Quốc không nắm được, thì làm sao có cơ sở để tin là bệnh thật. Chuyện thứ hai là, nếu Nguyễn Phú Trọng chủ ý tạo ra bệnh của mình để « giả chết, bắt quạ », để thanh trừng trong nội bộ Đảng, thì ta lại vướng ngay phải điều mà dân gian gọi là « gậy ông, đập lưng ông ». Cái bẫy mà ông ta giăng ra với các đối thủ chính trị (bị sử dụng ngược lại). Quy định đưa ra năm 2018 : ủy viên Bộ Chính Trị, các ứng cử viên tổng bí thư phải bảo đảm được sức khỏe, có nghĩa là phải được sự xác nhận của ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, hàng tuần, hàng tháng, và thậm chí hàng ngày…. Nếu như người ta nghĩ là ông ta bị bệnh (thật), thì sẽ có những phản ứng thậm chí mạnh mẽ. Vì thế, cả hai thuyết âm mưu đều không đủ cơ sở thuyết phục. Mà giả thuyết thực tế nhất, gần gũi nhất, dễ cảm nhận được nhất, là ông ta ở cái tuổi này, đã bị một căn bệnh hành hạ. Nếu không cẩn thận, thì ông ta sẽ đi theo Trần Đại Quang và tướng Lê Đức Anh. Một số dấu hiệu khác trong lễ tang có thể cho phép nhận định về những gì diễn ra trong chính trường Việt Nam ? Tôi không nghĩ rằng có những dấu hiệu, dù là đặc biệt chăng nữa, trong lễ tang ông Lê Đức Anh lại đủ lớn, đủ sâu, để có thể cho thấy xu hướng, hoặc sự thay đổi lớn trong chính trường Việt Nam, ngoài yếu tố duy nhất như tôi đã nêu. Và nhiều người khác cũng đã biết. Đó là Nguyễn Phú Trọng không thể xuất hiện, và ông ta đang nằm nguyên trong tình trạng khó khăn về sức khỏe. Khi Nguyễn Phú Trọng rơi vào tình trạng sinh, lão, bệnh, tử, như một quy luật không thể bác bỏ, thì ông ta buộc phải để lại một khoảng trống quyền lực rất lớn. Bây giờ có đến hai ghế (bị khuyết), chứ không phải một, là tổng bí thư và chủ tịch Nước. Khoảng trống quyền lực càng lớn thì chỗ trũng càng sâu, và nước chảy càng mạnh. Có nghĩa là sẽ dâng lên một làn sóng, các quan chức cấp dưới của Nguyễn Phú Trọng, nổi lên để tranh đoạt quyền lực với nhau. Đang diễn ra một làn sóng ngầm, phân chia lại quyền lực. Giữa ba khối, khối Đảng, khối hành pháp và khối lập pháp. Trước đây, khối Đảng chỉ huy tất cả, theo nguyên tắc là Đảng lãnh đạo toàn diện. Và gần đây nhất, từ năm 2017 đến nay, xuất hiện một quan điểm rất phổ biến trong nội bộ trong Đảng, là Đảng không làm thay, mà Đảng làm luôn. Vào lúc cơ chế độc tôn, tập trung quyền lực vào tay Nguyễn Phú Trọng suy giảm, thì sẽ kéo theo việc cơ chế tập trung quyền lực về cấp trung ương cũng suy giảm theo. Tôi nghĩ rằng sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là : Khối hành pháp và khối lập pháp sẽ dần dần tách ra khỏi khối Đảng, tăng cường tiếng nói của mình. Một cách độc lập tương đối, hơn là phụ thuộc gần như tuyệt đối vào khối Đảng trước đây. Không biết có phải là ngẫu nhiên hay không, mà trong thời gian ông Trọng bị bệnh, bị « mất tích », thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có một đề nghị đáng chú ý với Quốc Hội, là tăng quyền cho thủ tướng, một số quyền không quá quan trọng, nhưng có một động thái như vậy. Tôi cho rằng mọi chuyện bắt đầu, và sắp tới sẽ diễn ra hai khuynh hướng. Khuynh hướng phân chia lại quyền lực giữa ba khối, và khuynh hướng ly tâm giữa khối địa phương với cấp trung ương. Và song song là xu hướng hình thành gần như chắc chắn một số « sứ quân » quyền lực hành chính và một số sứ quân lợi ích riêng, mà chúng ta thường gọi là « nhóm lợi ích ». Nhiều người ghi nhận ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư, tức nhân vật số hai của Đảng, trong một số bức ảnh cho thấy đi một mình đến viếng, trong khi hai phái đoàn, của chính phủ và của Đảng, lại đều do thủ tướng đứng đầu. Phải chăng sự phân hóa, như nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định, đã bắt đầu trong chính lễ tang này ? Đúng là ông Trần Quốc Vượng lẻ loi, cô độc. Ông ta không nằm trong một đoàn nào cả, một đám đông nào cả. Tôi đặt câu hỏi là : Phải chăng đã có một sự sắp xếp cố ý ? Tôi cho đó đã là một thủ thuật chính trị, để chơi xấu lẫn nhau. Nếu đúng như vậy, thì đó quả là một sự phân hóa không nhỏ đâu. Sau đám tang Lê Đức Anh, sắp tới vào giữa tháng Năm này sẽ diễn ra hội nghị trung ương 10. Nếu không có Nguyễn Phú Trọng, hoặc có Nguyễn Phú Trọng mà không có những nội dung đặc sắc theo ý của Nguyễn Phú Trọng, thì tôi nghĩ là ngay trong hội nghị đó sẽ diễn ra những phân hóa còn lớn hơn nữa, giữa khối Đảng, hành pháp và lập pháp. Và lúc đó, người ta sẽ chứng kiến vai trò của ông Trần Quốc Vượng, nếu không cẩn thận sẽ trở nên mờ nhạt đáng kể, không kém thua hình ảnh mờ nhạt của ông ta tại lễ tang của tướng Lê Đức Anh. *** 1. Nhà báo Phạm Chí Dũng đã ghi nhận chính xác về việc có một mâu thuẫn « rất lớn » giữa vai trò « trưởng ban Lễ tang » trong Nghị định 105 về « Tổ chức lễ tang với cán bộ, công chức, viên chức » với diễn biến của buổi lễ ngày hôm qua. Trên thực tế, phụ trách Quốc tang có hai chức « trưởng ban ». Trưởng ban Lễ tang Nhà nước phải là nguyên thủ, hoặc tổng bí thư, và trưởng ban Tổ chức Lễ tang là một phó thủ tướng. Có trách nhiệm đọc điếu văn là trưởng ban Lễ tang Nhà nước. Như vậy, người làm thay vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng không phải là phó thủ tướng Trương Hòa Bình, mà là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đọc điếu văn hôm 03/05.    
......

Nghĩ gì khi cô Đoàn Thị Hương trở về được đón tiếp như một anh hùng

Đoàn Thị Hương về đến sân bay Nội Bài tối ngày 3/5/2019. Ảnh: Reuters   Khi kẻ bán nước được tôn vinh như danh nhân. Khi kẻ ngu muội được tôn thờ như một thiên tài. Khi kẻ giết người được tôn sùng như một anh hùng. Khi những tay du đãng hè phố trở thành thần tượng của giới trẻ. Xã hội đó sẽ chẳng còn luật pháp, thể chế đó chẳng còn cần hiến pháp bởi mọi giá trị của xã hội đã bị đảo lộn, mọi đạo lý đã bị chà đạp và những quy tắc đạo đức chỉ còn là miếng giẻ rách. Đỗ Duy Ngọc Xã hội hôm nay mọi giá trị đều bị đảo lộn. Đạo lý, đạo đức nháo nhào chẳng còn biết đâu là giá trị thật của cuộc sống. Kẻ bán nước được tôn sùng như thánh nhân. Tên trùm xã hội đen cho vay nặng lãi, đâm thuê chém mướn thành thần tượng của tuổi trẻ. Kẻ giết người được tung hô như một anh hùng. Những người còn chút lương tri, còn chịu suy nghĩ, ngơ ngác trước những biến đổi khôn lường của một xã hội bát nháo, những lối sống ngàn đời truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, trở thành nếp nhà của một gia đình, đến kỷ cương của một xã hội, giềng mối của một quốc gia chỉ trong một thời gian ngắn bị đảo lộn tất cả, thay đổi tất cả để lộ ra một đống đổ nát không còn cách cứu vãn. Chúng ta đang ngộ nhận về mọi giá trị và từ đó tạo ra một loại người ảo tưởng về giá trị của mình. Cô Đoàn Thị Hương tuy đã bị kết án và được tha trước thời hạn, nhưng cô ấy vẫn là kẻ có tội. Ca ngợi hoặc tôn vinh kẻ phạm tội là hành động nghịch lý và ngu muội. Cô ấy dù cố ý hay vô tình cũng là kẻ tham gia một vụ giết người. Kẻ bị giết không có thù hận với đất nước này, cô ấy giết một người không phải là kẻ thù của dân tộc thì hà cớ gì tung hê cô ấy như là một anh hùng lúc trở về.   Cô ấy được tha tội chết vì lòng nhân đạo, nhờ sự can thiệp của các luật sư, của ngành ngoại giao xứ Việt chứ không phải vì cô ấy vô tội. Xét cho cùng, cô ấy có tham gia tác động vào cái chết của nạn nhân. Chúng ta cám ơn toà án, cám ơn những người bênh vực cô ấy thoát tội tử hình nhưng chúng ta không thể tôn vinh cô ấy được. Chúng ta mừng cho cô ấy thoát chết trở về với gia đình, với quê hương nhưng không thể đề cao cô ấy như một chiến binh trở về sau chiến thắng. Báo chí, truyền thông đã làm một việc vô lý như một trò hề khi xúm vào để biến thành một hiện tượng truyền thông, biến cô ấy thành anh hùng và trở thành một tấm gương như Khả Bảnh, Dương Minh Tuyền để tuổi trẻ làm theo. Hiện tượng này đặc biệt nguy hiểm ở chỗ, các học sinh thần tượng những nhân vật này có thể nói là một trong những nguyên nhân khiến bạo lực học đường gia tăng. Không chỉ có bạo lực, những hành vi vi phạm pháp luật sẽ được cổ vũ và coi trọng như hành vi anh hùng. Từ đó các vụ án nghiêm trọng sẽ tăng lên tác động đến xã hội không nhỏ. Từ một cô gái bỏ nhà đi hoang, trôi giạt qua xứ người rồi phạm tội giết người, được tha tội trở về lại được các viên chức nhà nước, liên đoàn luật sư, báo chí tiếp đón như một diễn viên tầm cỡ thế giới. Một đoàn học sinh giỏi đi thi quốc tế mang về một đống huy chương lúc về nước lơ thơ người ra đón, báo chí cũng không thèm đưa tin. Hay là những học sinh giỏi này không giá trị bằng một cô gái phiêu bạt phạm tội. Tởm lợm cho báo chí hiện nay. Chính báo chí tiếp tay cho sự lẫn lộn mọi giá trị hiện nay. Họ cũng là thủ phạm khiến cho xã hội càng ngày càng sa đoạ, đạo đức xuống dốc. Loạn hết cả rồi. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới, rất nhiều công dân Việt đang bị tù đày, bị bóc lột, bị ức hiếp nhưng tiếng kêu cứu của họ lạc vào vô vọng và họ chịu nỗi đau cho qua một kiếp người. Không có lãnh đạo nào, tổ chức nào, luật sư nào đoái hoài đến thân phân và kiếp tha hương của họ thì hà cớ gì ca ngợi một kẻ giết người vừa thoát tội. Khi kẻ bán nước được tôn vinh như danh nhân. Khi kẻ ngu muội được tôn thờ như một thiên tài. Khi kẻ giết người được tôn sùng như một anh hùng. Khi những tay du đãng hè phố trở thành thần tượng của giới trẻ. Xã hội đó sẽ chẳng còn luật pháp, thể chế đó chẳng còn cần hiến pháp bởi mọi giá trị của xã hội đã bị đảo lộn, mọi đạo lý đã bị chà đạp và những quy tắc đạo đức chỉ còn là miếng giẻ rách.    
......

Hòa giải và hòa hợp dân tộc: CSVN không thể chỉ kêu gọi suông.

nguyentuongthuy’s blog – RFA| Không có chuyện tránh từ “giải phóng” Hoạt động cuối cùng của đợt “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” là màn bắn pháo hoa tại 3 điểm ở Sài Gòn vào lúc 9 giờ tối ngày 30/4/2019 với mô tả “mãn nhãn”, “thắp sáng bầu trời tp HCM”. Cụm từ “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam” tràn ngập trên các trang báo mạng. Nếu gõ câu “kỷ niệm 44 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” vào google có thể tìm thấy ít nhất khoảng 160 tin bài. Chỉ có trang “Nhân dân” của đảng CSVN thêm chữ “hoàn toàn” – giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Dùng chữ “hoàn toàn”, hẳn họ quên mất rằng, ở thời điểm 30/4/1975, quần đảo Hoàng Sa thuộc miền Nam quản lý đã mất vào tay Trung quốc từ hơn 1 năm trước đó, mà những người lãnh đạo của Việt Nam dân chủ cộng hòa khi đó vẫn cứ tin là TQ “giải phóng và giữ hộ” Còn nếu bỏ mấy chữ “giải phóng miền Nam” đi, gõ cụm từ “kỷ niệm 44 năm thống nhất đất nước” vào công cụ tìm kiếm thì chỉ thấy vài tin, nhưng là nói về màn bắn pháo hoa. Như vậy, không có chuyện chính quyền Việt Nam tránh nói từ “giải phóng” trong dịp kỷ niệm 30/4 năm nay như một bài viết của RFA đã đặt dấu hỏi. Đừng khoét thêm vào nỗi đau tháng Tư Việc tuyên truyền, khuếch trương chiến thắng của bên thắng cuộc chỉ khoét sâu thêm vào nỗi đau của bên thua cuộc. Phân tích kỹ thì bên thua cuộc không chỉ là miền Nam mà bao gồm tất cả những người phải chịu tổn thất trong chiến tranh. Với khái niệm này, bên thua cuộc còn bao gồm hàng triệu người lính miền Bắc và dân thường đã ngã xuống trong nỗi đau đớn của gia đình họ. Bên thua cuộc còn bao gồm những người kỳ vọng vào một đất nước thống nhất cường thịnh nhưng lòng tin ấy đã đổ vỡ Tóm lại, bên thua cuộc là nhân dân VN, còn bên thắng cuộc là những người phát động chiến tranh, giành thắng lợi và hưởng lợi từ chiến thắng ấy. Nghĩ cho cùng Mọi cuộc chiến tranh Phe nào thắng thì nhân dân đều bại… (Đá ơi – Thơ Nguyễn Duy) 44 năm đã quá đủ thời gian để nhìn nhận lại cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Người ta ngày càng rõ hơn các vấn đề như bản chất của cuộc chiến tranh, tại sao phe cộng sản thắng? Đất nước thống nhất đem lại cho nhân dân những gì? Có ý kiến đặt ngược vấn đề “ai giải phóng ai?”. Đây là một góc nhìn mới và nghiêm túc. Có lẽ trong hiện thực xã hội mục ruỗng và bế tắc hiện nay, trước tương lai mù mịt của đất nước, phe thắng cuộc không còn gì hơn là bấu víu vào quá khứ mà người ta gọi là ăn mày dĩ vãng. Oái oăm thay, quá khứ ấy càng vén lên, càng đánh thức nó dậy thì càng bất lợi cho họ. Họ phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Chỉ cần đặt ra mấy câu hỏi mà ai cũng trả lời được là sẽ rõ vấn đề: – Bên nào đem quân vượt vĩ tuyến 17 vào miền Nam? – Gọi là chống Mỹ xâm lược, tại sao khi quân đội Mỹ chưa tham chiến hoặc sau khi họ rút quân, chiến tranh vẫn tiếp diễn? – Tại sao miền Nam cần phải giải phóng và giải phóng khỏi cái gì? – Tỉ lệ tử sĩ trong chiến tranh (tạm lấy số liệu của wikipedia) giữa CSVN & đồng minh / VNCH / Mỹ & đồng minh là 13,2/4,7/1 nói lên điều gì? Có phải đấy là cách để làm nên chiến thắng của phe cộng sản? v.v… Việc khuếch trương chiến thắng, sỉ nhục bên bại trận là môt sai lầm mà bên thắng cuộc cố tình không nhận ra do bản chất kiêu ngạo của họ. Nó không có tác dụng gì trong việc nâng cao tầm vóc cho họ mà chỉ làm tổn thương cho phía bên kia, duy trì và khoét sâu sự hận thù. Trong khi luôn miệng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc thì 44 năm qua, cứ vào dịp 30/4, họ lại tưng bừng kỷ niệm chiến thắng, xoáy vào nỗi đau tháng Tư của đồng bào phải chịu tổn thất trong chiến tranh. Là bên thắng cuộc, họ không những không có lòng khoan dung, cao thượng mà vẫn còn đó sự căm thù chế độ Việt Nam cộng hòa mặc dù nó đã đi vào quá khứ. Xóa sổ một chính thể, hàng triệu đồng bào bỏ chạy khỏi đất nước, hàng trăm nghìn người bỏ xác nơi biển cả, sa vào tay hải tặc, đày đọa hàng trăm nghìn cán binh VNCH trong các trại cải tạo chưa đủ làm họ thỏa mãn sao? Không thể tưởng tượng được, chỉ từ cử chỉ cầm lá cờ Việt Nam bé xíu vẫy của tổng thống Mỹ khi sang thăm Hà Nội mà ông thủ tướng lập tức nghĩ ngay đến “bọn phản động lưu vong người Việt”, và tưởng tượng ra “bọn” này “rã rời chân tay”. Năm 2005, kỷ niệm 60 năm quốc khánh, ông Võ Văn Kiệt phát biểu: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…” Phát biểu của ông Kiệt được nhắc lại với tần suất rất cao mỗi khi nói về hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cho đến nay, không có một lãnh đạo cấp cao nào nói ra được một ý tương tự. Tiếc rằng, vì quan điểm tiến bộ, cởi mở của ông mà sau đó ông bị đồng chí của mình nghi kỵ, cảnh giác. Đã có những ý kiến nghi ngờ rằng cái chết của ông có uẩn khúc. Lối cư xử với bên bại trận ở VN, làm người ta nghĩ đến cách giải quyết trong quan hệ Mỹ – Nhật sau khi Nhật Bản đầu hàng, để có được một nước Nhật ngày nay. Xa hơn nữa là cách giải quyết trong nội bộ nước Mỹ khi Liên bang miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến cách đây 1,5 thế kỷ để có một siêu cường Hoa Kỳ ngày nay. Nó khác hẳn với tư duy hẹp hòi, thiển cận và những hành động trả thù hèn hạ sau cuộc nội chiến kéo dài 20 năm ở VN của bên thắng cuộc và dai dẳng đến tận bây giờ Không thể chỉ kêu gọi suông Tác giả và một quân nhân Việt Nam cộng hòa. Ảnh Ngô Chí Thiềng Về vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc, trái bóng luôn ở chân nhà nước cộng sản VN, đơn giản vì họ là bên thắng cuộc, ngoài ra họ là bên phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Họ có đủ quyền hành, lực lượng để chủ động trong việc ấy. Để hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần phải thể hiện bằng những việc làm cụ thể chứ không chỉ kêu gọi suông. Người ta nhìn vào hành động để biết nhà cầm quyền có thực tâm hòa giải không. Những hành động cụ thể cần phải làm, trước hết cần dùng một tên gọi chính xác cho cuộc chiến tranh 1955 – 1975. Nếu ngại những từ “nhạy cảm” như “thôn tính”, “cưỡng chiếm”, có thể gọi là cuộc nội chiến hay chiến tranh Nam Bắc, chứ không gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” hay chiến tranh “giải phóng miền Nam”.  Cần loại bỏ vĩnh viễn những cụm từ “giải phóng miền Nam”, “đế quốc Mỹ và tay sai”, “ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi đời sống xã hội. Phải bỏ ngày 30/4 ra khỏi ngày nghỉ lễ. Ngày 30/4 là một biến cố lịch sử. Chỉ nên tổ chức những buổi hội thảo tự do không định hướng, không kén chọn thành phần để làm rõ hơn mọi khía cạnh cuộc chiến tranh 1955 – 1975, giai đoạn đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Cần chấm dứt việc gây khó dễ khi xét lý lịch đi học, đi làm đối với con cháu quân cán binh VNCH. Phải loại bỏ sự phân biệt đối xử đối với những người có liên quan đến chế độ cũ. Không được gây cản trở mọi hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ những người có liên quan đến chế độ cũ, ví dụ hoạt động tri ân thương phế binh VNCH được nhà thờ Kỳ Đồng tổ chức hàng năm. Các nghĩa trang quân đội VNCH cần được chăm sóc chu đáo như những nghĩa trang liệt sĩ khác. Đừng làm cho nỗi đau của đồng bào miền Nam kéo dài thêm, cứa mãi, đau day dứt, dai dẳng như xẻo thịt bằng con dao cùn và lấy sự đau đớn ấy làm niềm vui, niềm tự hào, kiêu hãnh của mình. Những người được coi là thắng cuộc liệu có biết họ đang thua cuộc. Có trong tay cả một đất nước để rồi không biết làm thế nào cho “đất nước đứng lên”. Họ đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn diện với những thách thức về lý luận, về phương pháp, về lòng tin, về sự thối nát của hệ thống chính trị và phải tìm cách thoát khỏi bế tắc. Việc thực tâm hòa giải bằng những việc làm cụ thể cũng là một cách khai thông bế tắc ấy.   2/5/2019 NTT – Cựu chiến binh miền Bắc nguyentuongthuy’s blog
......

Ông Trọng đâu rồi?

Paulus Lê Sơn! Kể từ ngày ông Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ hôm 14 tháng 4 vừa qua tại tỉnh Kiên Giang, tính đến nay đã hơn 3 tuần lễ. Dư luận hết sức quan tâm đến tình trạng sức khỏe và nhất là mức độ an nguy tính mệnh của người “đốt lò vĩ đại”. Mặc dù vậy, nhà cầm quyền Hà Nội vẫn im lặng trước đòi hỏi công khai hiện tình sức khỏe của ông Trọng. Cho tới hôm 25/4, Bộ Ngoại Giao Việt Nam xác nhận Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng không khỏe, nhưng sẽ “sớm trở lại làm việc bình thường.” Sự đời không ai lường trước được việc gì sẽ xảy ra. Ông Lê Đức Anh – nguyên Chủ tịch nước ra đi ở tuổi 99 hôm 22 tháng 4 cũng là điều dễ hiểu. Báo chí thuộc sự kiểm soát của Đảng Cộng Sản đồng loạt đưa tin tang lễ Đại tướng Lê Đức Anh, được tổ chức với nghi thức Quốc tang, diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 5, do ông Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban lễ tang. Đây là một sự kiện buộc ông Trọng phải ra mặt sau thời gian bị đồn đoán là “đột qụy”. Theo báo Dân Trí, “quy định về việc tổ chức lễ Quốc tang, Trưởng Ban lễ tang là Tổng Bí thư hoặc Chủ tịch nước sẽ là người chủ trì lễ viếng, lễ truy điệu. Trưởng ban lễ tang tại lễ Quốc tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng sẽ trình bày điếu văn tưởng nhớ vị cán bộ lão thành thế hệ trước.” Tuy vậy, hôm nay tang lễ của ông Lê Đức Anh, được truyền hình trực tiếp, có người viết một cách châm biếm trên Facebook “soi kính lúp tìm cụ Tổng mà không thấy ở đâu.” Có người thì mỉa mai hơn, sâu cay hơn “Dự đám tang mà mặt mày hớn hở, miệng cười nụ cười hoa hát ‘Giờ này anh ở đâu?’ và ‘Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay!’ Thiệt là tinh thần cộng sản thắm thiết!” Trong không khí quốc tang, lẽ thường phải sầu não, tiếc thương người khuất núi. Thế nhưng người dân lại không quan tâm đến kẻ đã chết, chúng sinh không gọi vong hồn vừa lìa khỏi xác của kẻ đã nằm yên trong quan tài. Họ chỉ chăm chăm nhìn, soi, ao ước được ngắm nhìn hình hài, dung nhan của ông tổng bí thư kiêm chủ tịch nước, họ thi đua nhau gọi tên Nguyễn Phú Trọng y như gọi hồn ma ám ảnh. Ông Trọng đâu rồi, ông có nghe thấy thiên hạ gọi tên mình? “Có ai thấy Trọng đứng đâu không? nhìn hình cứ tưởng đám ma của Trọng”. Đời thế nó mới đểu. Thiên hạ dường như đang quy hướng về ông Trọng. Sự ‘vắng mặt’ của ông Trọng khiến cho lòng dân “rã rời”. Người dân đặt câu hỏi về sự vắng mặt hay gọi tên ông Trọng không phải là một chỉ dấu cho thấy sự yêu quý của họ đối với ông ta, mà chỉ vì tò mò muốn biết ông Trọng “bây giờ”… ra sao? Họ cũng thể hiện sự mỉa mai và bóc trần sự dối trá trơ trẽn của ông Trọng cùng hệ thống tuyên truyền lừa bịp của Đảng Cộng Sản. Đằng sau sự mập mờ, nhập nhằng về tình hình sức khỏe của ông Trọng là một ván bài chính trị hay cán cân quyền lực chưa được định vị rõ ràng? Dù động cơ, mục đích của nó là gì chăng nữa thì chưa bao giờ lợi ích đạt được thuộc về tay nhân dân. Phải chăng để giải bài toán trong nội bộ Đảng Cộng Sản đang đấu đá, tranh quyền đoạt vị là bài toán chưa bao giờ dễ dàng đối với ông Trọng? Có thể qua lễ tang ông Lê Đức Anh, nhiều người đã có câu trả lời cho riêng mình. Mục đích tính toán của từng cá nhân, phe nhóm sẽ được thi triển trong nay mai. Và cũng có thể, trong bức màn phủ sức khỏe không được tốt của ông Trọng sẽ nhìn thấy những ảo ảnh dần dần tỏ hiện trong cuộc đấu đá thanh trừng đang diễn ra hết sức gây cấn? Trong bối cảnh chính trị 4.0 thời nay, sự giấu diếm về tình trạng sức khỏe của ông Trọng đem đến ích lợi một nhưng thiệt hại gấp cả chục lần. Nếu đó là chiêu trò của ông Trọng cùng phe nhóm để tìm hạ và triệt hạ đối thủ thì người ta sẽ rẻ mạt cái triết lý chính trị của ông ta. Còn nếu thực sự ông Trọng sức kiệt, lực tàn, bại liệt toàn thân nơi giường bệnh mà vẫn cố duy trì quyền lực thì quả là bạc phúc, đại họa cho dân tộc. Sự khôn ngoan chính trị không đến từ não trạng già cỗi, lệ thuộc ngoại bang hay trái tim héo úa của kẻ cầm quyền độc tài sắt máu. Nhưng sự khôn ngoan ấy đến từ lòng tin, tình yêu và nền minh triết của dân tộc, biết tôn trọng và lắng nghe nhân dân, biết gìn giữ, bảo vệ non sông xã tắc trước ngoại bang. Ông Nguyễn Phú Trọng và đảng của ông ta chọn sự khôn ngoan nào đây? Portland, OR 5/2/2019 Paulus Lê Sơn
......

‘Trọng bệnh’ và tương quan quyền lực ở Ba Đình

Phạm Chí Dũng/Người Việt| Một thách thức khủng khiếp Cú đổ bệnh đột ngột của ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng ngay tại vùng ‘căn cứ địa cách mạng gia tộc Nguyễn Tấn Dũng’ vào ngày 14 Tháng Tư 2019 (trùng với ngày sinh nhật) có thể được xem là một bước ngoặt lớn về thế tương quan quyền lực trong chính trường Việt. Trước cú đổ bệnh đúng quy trình ‘sinh lão bệnh tử’ trên, quyền lực không chỉ được phân bổ theo chế độ trung ương tập quyền vào tay Hà Nội mà còn là cá nhân độc tài – biểu hiện qua chủ trương ‘nhất thể hóa’ từ cấp trung ương xuống các địa phương được đảng cầm quyền rốt ráo triển khai từ năm 2017 mà đã mang lại quyền lực cho ‘đảng không làm thay mà đảng làm luôn.’ Nhưng đặc biệt, ngoạn mục và gây tai tiếng nhất là Nguyễn Phú Trọng đã tự biến ông ta thành nhân vật quyền lực nhất khi ‘nhất thể hóa’ cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch nước ngay sau khi Trần Đại Quang lìa đời. Nhưng cho dù quyền lực có thể được kéo dài vĩnh viễn bằng cách sửa đổi hiến pháp, theo cái cách mà Tập Cận Bình đã áp đặt quốc vụ viện Trung Quốc ‘cải tạo’ hiến pháp để không giới hạn nhiệm kỳ của chủ tịch nước, mà về thực chất đã cho Tập cái quyền trở thành ‘hoàng đế suốt đời’, chẳng kẻ nào chống lại được quy luật lão hóa, bệnh tật và tử thần nhòm ngó. Cơn bạo bệnh xảy đến với Nguyễn Phú Trọng, đúng vào lúc ông ta đang ở đỉnh cao quyền lực, xứng đáng là một thách thức khủng khiếp đối với ông Trọng là có nên hoặc có buộc phải rời bỏ quyền lực để giữ sinh mạng hay không? ‘Lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’ Từ tháng 10 năm 2018, khối lượng công việc của Nguyễn Phú Trọng đã tăng lên gần gấp đôi khi phải điều hành cả hai văn phòng tổng bí thư và văn phòng chủ tịch nước, chưa kể hàng núi vụ việc phát sinh hàng ngày hàng tuần từ chiến dịch ‘đốt lò’ do ông ta khởi tạo. Nhưng trước đó ít tháng và trùng với khoảng thời gian hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn đổ xuống đường phản đối ‘Luật bán nước’ (một tục danh mà dân gian đặt cho Luật Đặc khu), đã có những đồn đoán ngoài lề về việc sức khỏe của Tổng bí thư Trọng ‘không được tốt lắm’. Cụ thể hơn là hai bệnh huyết áp và tim mạch. Một quan chức có ‘tham vọng quyền lực’ luôn có thể từ chối lời khuyên hay cảnh báo từ những người đồng nhiệm và giới cận thần về sự cần thiết phải tiết chế công việc nhằm bảo toàn những gì còn lại của thể trạng, nhưng không thể bỏ qua tâm trạng lo lắng và lời can gián từ những người thân ngay trong gia đình mình. Một điều rõ ràng là sau cú bạo bệnh vào Tháng Tư 2019, ông Trọng – người đã sáng tác ra khái niệm ‘lãnh đạo không được tham vọng quyền lực’ – sẽ được gia đình ông ta quyết liệt can ngăn để tránh bớt tình trạng ‘thân này ví xẻ làm đôi’ và không thể kéo dài nhiệm vụ ‘lo cho dân cho nước’. Việc, mà có thể khiến ông ta bị tái đột quỵ bất cứ lúc nào, chắc chắn nặng hơn nhiều và khiến ông ta gần với lòng đất hơn bao giờ hết. Khi đó cũng là bối cảnh của bầu không khí ‘toàn đảng, toàn quân lập thành tích chào mừng đại hội 13’. Đại hội này sẽ diễn ra vào năm 2021, mà ngay vào lúc này đã bắt đầu âm thầm nhưng sôi sục một cuộc đua quyết liệt và cả máu lửa cho những chức vị tối cao. ‘Cán bộ cấp chiến lược’ – một khái niệm mới mà những Nguyễn Phú Trọng và Trưởng ban tổ chức trung ương Phạm Minh Chính nghĩ ra, đang là mục tiêu quyến rũ với biết bao ‘đồng chí’ khác. ‘Giả chết bắt quạ’ hay sắp ‘đi’? Phạm Minh Chính lại là một trong những ứng cử viên cho chức tổng bí thư đảng tại đại hội 13, với điều kiện là Trọng chịu nghỉ. Từng là tướng công an và bí thư Quảng Ninh, Chính cũng được biết là tác giả rất nhiệt thành của ‘Luật bán nước’ từ lúc bản thảo của luật này còn phôi thai cho đến khi nó gây ra một phong trào biểu tình không lồ và căm phẫn của dân chúng. Từ khoảng cuối năm 2018, bắt đầu xuất hiện một thông tin ngoài lề đầy gợi cảm và biến động: có một khả năng là Nguyễn Phú Trọng sẽ chuyển giao quyền lực tổng bí thư cho một người thân tín, chẳng hạn như Trần Quốc Vượng, mà chỉ ngồi ghế chủ tịch nước. Và cùng với ‘nhân sự cấp chiến lược Trần Quốc Vượng’, còn một cái tên ‘chiến lược’ khác cũng được nêu ra như một phương án thay thế vị trí thủ tướng hiện thời: Vương Đình Huệ. Nhưng dù gì, thông tin trên vẫn chỉ là một thứ tin đồn mà chẳng có gì bảo đảm là sẽ xảy ra. Cũng không loại trừ cái tin Nguyễn Phú Trọng ‘nghỉ tổng bí thư’ chỉ là một thủ thuật chính trị theo kiểu ‘giả chết bắt quạ’ và bắt chết những tay mơ non choẹt kinh nghiệm nhưng ham hố ghế và háu đá. Còn giờ đây, ai cũng nhìn thấy ‘Cụ tổng’ không còn hồng hào như trước và khó còn có thể đi đây đi đó hô hào về ‘không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện không’, thậm chí ngay cả thói quen tiếp xúc ‘cử tri trung thành’ cũng có thể bị vấn đề sức khỏe của ‘cụ’ khiến cho lơi lỏng không ít. Và ai cũng nhìn thấy trước là ‘sinh lão bệnh tử’ sẽ chẳng chừa ai, cho dù có là ‘hoàng đế’ chăng nữa. Bất cứ một chính trị gia nào một khi bị cơn đột quỵ quật ngã thì quyền lực sẽ tự nhiên biến mất. Thay vào đó là hình ảnh quyền lực bị phân ly, hoặc tản quyền, hoặc một cái tên mỹ miều nào đó nhưng thực chất phải là chia quyền cho những kẻ khác. Hẳn nhiều người đang muốn được thừa kế một mảnh quyền lực, hoặc tham vọng hơn hẳn là thay thế ‘cụ’. Trái tim nóng và cái đầu lạnh toát Nếu đến một lúc nào đó Nguyễn Phú Trọng không chỉ có ý định mà còn buộc phải tự nguyện nhường lại cái ghế tổng bí thư cho người khác, hai ứng cử viên hàng đầu đã hoặc được sắp sẵn, hoặc cố ngoi lên vị trí sắp sẵn đó: Trần Quốc Vượng và Nguyễn Xuân Phúc. Nhưng ba dấu hiệu mà Trọng phải dần chuyển giao quyền lực cho cấp dưới trong thời gian ông ta bị ‘đột quỵ’ – cho Trần Quốc Vượng điều hành về mặt đảng và tiếp đoàn thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho Đặng Thị Ngọc Thịnh để thay chủ tịch nước tiếp khách quốc tế, và cho Nguyễn Xuân Phúc thay Trọng đi dự Hội nghị BRI (hội nghị thượng đỉnh sáng kiến một vành đai, một con đường) ở Bắc Kinh – đã cho thấy dù muốn hay không, quyền lực của ‘Tổng tịch’ đang phải tự suy giảm như một quy luật tất yếu. Không biết vô tình hay hữu ý, trong thời gian đó đã xuất hiện một biểu hiện rõ rệt về ‘tăng quyền cho thủ tướng’ – được đề xuất từ khối chính phủ. Cũng trong thời gian đó, phía Quốc hội của Nguyễn Thị Kim Ngân có vẻ vang vọng tiếng nói hơn là thói ‘gật’ trước đây theo ý chỉ của đảng. Một cách không tuyên bố, thế cục bàn cờ chính trị Việt Nam đang lặng lẽ chuyển sang ‘tam quyền phân lập’. Nhưng không phải tam quyền phân lập theo cách của nền dân chủ và kỹ trị phương Tây, một sự phân công quyền lực và giám sát quyền lực lẫn nhau và khoa học giữa ba khối lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mà cái được xem là ‘tâm quyền phân lập’ ở Việt Nam sẽ là khuynh hướng giãn cách hóa và khu biệt hóa giữa khối hành pháp, lập pháp với khối đảng. Não trạng và thói hành xử ‘đảng quyết định tất cả’ và sau này là ‘đảng không làm thay mà làm luôn’ sẽ dần bị phản ứng từ kín đáo đến lộ liễu và quyết liệt. Trong trường hợp căn bệnh ‘đột quỵ’ chỉ ở mức nhẹ nhàng và ‘được sự chăm sóc tận tình của đội ngũ bác sĩ y tá và gia đình,’ Nguyễn Phú Trọng vẫn phải mất tối thiểu vài ba tháng mới có thể quay trở lại điều hành tại vị trí ‘tổng tịch’. Nhưng ngày càng lộ ra rõ hơn nguy cơ cảnh báo chứng xuất huyệt não rất có thể sẽ tái diễn một cách tàn tệ nếu Trọng phải động não quá mức. Có quá nhiều điều kiện tiếp xúc với Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương, hẳn các quan chức còn lại trong ‘tam trụ’ và những ủy viên bộ chính trị khác đều cảm nhận về thời của Nguyễn Phú Trọng đã sang bên kia núi. Bên này núi, cuộc chạy đua máu lửa bắt đầu, cả bề nổi lẫn bề chìm… Ngay cả khi Nguyễn Phú Trọng còn tập quyền cá nhân, vẫn diễn ra những trận sát phạt khá ác liệt cho vị trí ‘lãnh đạo chiến lược’. Còn khi Trọng bắt đầu có dấu hiệu ‘xuôi tay’, chẳng còn gì có thể kềm giữ những trái tim nóng nảy và cái đầu lạnh toát nữa. Ngay trước mắt là thế ‘tam quyền phân lập’, hoặc còn có thể được xem là ‘tam quốc’, trước khi tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào thời loạn ly chính trị, cát cứ quyền lực và sứ quân địa phương./.  
......

Những con bệnh Stockholm

Ảnh minh họa Pham Doan Trang Cách đây hai năm, vào tháng 4/2017 khi đông đảo làng báo Việt Nam hân hoan, cảm kích… vì Chủ tịch Hà Nội đi xe “xuống” địa bàn đối thoại với dân Đồng Tâm, tôi từng viết rằng: “Đa số nhà báo Việt Nam, nhất là trong mảng nội chính, có biểu hiện của hội chứng Stockholm ở thể nhẹ. Xin nhấn mạnh là “thể nhẹ”, bởi vì (…) tâm lý phổ biến của họ chỉ mới ở mức thông cảm với chính quyền, với các quan chức, cán bộ Đảng và Nhà nước mà họ thường xuyên tiếp xúc do yêu cầu công việc”. Đến nay, tôi phải đau lòng mà nhận ra rằng tôi viết như thế vẫn sai. Rất đông nhà báo Việt Nam mắc chứng Stockholm nặng đến nỗi họ không chỉ dừng ở mức thông cảm với chính quyền, với các quan chức, cán bộ, mà họ đi xa hơn: Họ thậm chí đã coi mình đứng cùng hàng ngũ với chính quyền, quan chức, cán bộ lãnh đạo, trở thành một người trong số “các đồng chí” ấy, một vị trí quan trọng trong bộ máy ấy. KHI BỆNH Ở THỂ NHẸ Tác nghiệp trong mảng nội chính (chính trị trong nước – pháp luật – xã hội), các nhà báo “có điều kiện” gặp gỡ thường xuyên, gần gũi, tiếp xúc trực tiếp với bộ máy quan chức của Đảng và Nhà nước. (Trong ngôn ngữ tuyên giáo, cụm từ “có điều kiện” nghĩa là “có cơ hội”, “có đặc ân”). Khi đó, khác hẳn với “dân” (tức những người không ở trong giới báo chí), nhà báo được chứng kiến những gì lãnh đạo làm, nghe những lời lãnh đạo nói, tận mắt nhìn nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của lãnh đạo. Thế là từ đó, nhà báo Việt Nam bắt đầu thấy và suy nghĩ những điều khác dân. Ví dụ như họ thấy Nguyễn Phú Trọng không phải “đảng trưởng”, “tổng bí lú”, mà chỉ còn là một ông giáo tóc bạc kính trắng, một trí thức hiền lành nho nhã, một cán bộ cao cấp mà trong sạch, không tham nhũng. Tiếp xúc sâu hơn nữa, nhà báo xúc động thấy những giây phút các nhà lãnh đạo căng thẳng lo “đàm phán với Trung Quốc, quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước”, ngặt nỗi “Trung Quốc mạnh quá, rắn quá, mà chúng ta thì nội lực yếu”, “muốn chống Trung Quốc thì phải có nội lực vững mạnh, phải chống tham nhũng, kinh tế-chính trị phải ổn định”, mà nếu như thế thì phải dập tắt ngay ba cái chuyện gây rối, phá phách của các thế lực thù địch, phản động… Và rồi nhà báo sẽ thấy khinh ghét đám phản động hằn học, bất mãn, không có thông tin, chẳng biết gì, chỉ chửi đổng là giỏi. HỘI CHỨNG STOCKHOLM THỂ NẶNG Giờ thì nhiều nhà báo Việt Nam mắc chứng Stockholm ở dạng nặng lắm rồi. Nghĩa là, họ không chỉ thông cảm với lãnh đạo Đảng và Nhà nước nữa, họ còn tin rằng chính mình cũng giữ một cương vị quan trọng trong hàng ngũ ấy, ngang hàng với các đồng chí lãnh đạo và giữ một nhiệm vụ rất quan trọng, ấy là nhiệm vụ tuyên truyền, giải thích đường lối của Đảng và Nhà nước cho dân. Dân chưa hiểu thì phải giải thích cho họ chứ. Tiếp xúc với lãnh đạo nhiều, có nhiều thông tin, nhất là những chuyện “cung đình”, “thâm cung bí sử”, nhà báo ta bỗng thấy mình cao hẳn lên, sang hẳn lên, quan trọng hẳn lên, ít nhất là vượt hẳn khỏi đám quần chúng dốt nát, “không có thông tin”. Tôi từng (nhiều lần) nhìn thấy vẻ mặt khinh khỉnh của những viên công an đi trấn áp biểu tình chống Tàu. Luận điệu ưa thích của chúng để hạ nhục những người bị bắt về đồn luôn là: “Đảng và Nhà nước vẫn đang xử lý vấn đề chủ quyền biển đảo, quan hệ với Trung Quốc hết sức linh hoạt, khéo léo. Các anh các chị không có thông tin nên cứ phá phách lung tung, đi biểu tình gây rối trật tự công cộng, chẳng được việc gì, khéo lại còn hại thêm nước mình”. Có công an còn bịa thêm chuyện “sinh viên Việt Nam mình du học bên Trung Quốc đến khổ vì các anh các chị đi biểu tình ở đây, hơi một tí là bị dân Trung Quốc đốt cờ”. Tôi vặn lại: Sinh viên nào, học ở đâu, chính tôi từng gặp du học sinh Việt Nam ở Trung Quốc và cả đồng nghiệp báo chí Trung Quốc đây, tôi chưa bao giờ nghe chuyện đó. Viên công an bơ đi rồi bảo tôi nghe “thông tin sai sự thật”. Cách xử lý của nhà nước công an trị với dân là như vậy đó, nhất quán từ trên xuống dưới: Chúng bưng bít, giữ dân trong tình trạng không có thông tin; và khi dân đưa thông tin ra thì chúng rống lên là “sai sự thật”, “xuyên tạc”. Cái nhà nước ấy tất yếu đẻ ra, và tồn tại nhờ một đám cán bộ công an, quân đội, nhà báo… nghiễm nhiên coi mình cao hơn dân, mình có thông tin, mình có tầm nhìn xa, có chiến lược này nọ. Công an và quân đội vốn là hai cột trụ bạo lực của đảng Cộng sản bạo lực, khủng bố, nên cách hành xử khệnh khạng, ở trên dân, của hai lực lượng này không có gì lạ. Thế nhưng, nhà báo vốn dĩ là nạn nhân của chế độ độc tài mà lại có thể đồng nhất mình với thủ phạm, thì là một điều hơi lạ, hay nói đúng hơn, một sự bệnh hoạn. * * * Tôi cũng là nhà báo. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất giữa tôi và nhiều nhà báo khác (không phải tất cả báo giới) là: Khi chứng kiến lãnh đạo họp hành, công du, ra chủ trương này quyết sách kia, họ sẽ thành kính chiêm ngưỡng và lặng lẽ suy tư, chiêm nghiệm, tất nhiên sẽ không bao giờ tiết lộ bừa bãi thông tin mà “chỉ nói cho người cần được biết”, hoặc đôi khi khề khà nơi quán nhậu, cùng lắm là bóng gió đôi câu trên facebook. Còn tôi thì chỉ thích tầm thường hoá bọn người ấy thôi, đánh tụt đám ấy xuống thay vì nâng chúng lên bàn thờ, và làm cho ai ai cũng biết về bộ mặt thật của chúng. Chẳng hề sang trọng, cao quý, bậc nhân kiệt... gì như người ta tưởng. Tôi sẽ reo ầm lên: “Ối giời ơi, bà con ra mà xem bọn ngu lãnh đạo đất nước này”, “sao chúng ta lại phải làm dân cho cái lũ này lãnh đạo?”.
......

30/4 - 44 Năm Nhìn Lại - Nguy cơ mất nước

Đối với đại đa số người miền Nam ngày 30 Tháng 4, 1975 là ngày mất nước. Không chỉ mất miền Nam mà cả toàn thể đất nước ở hai miền Nam và Bắc vào tay những người Cộng Sản. Có nhiều người đã không đồng ý và cho rằng đất nước vẫn còn đó, vẫn do người Việt làm chủ, chỉ khác là do những người Cộng Sản thống trị bằng những quy luật mới của kẻ chiến thắng. Những cảm nhận nói trên, đa số xuất phát từ những cảm nhận chủ quan. Trong thực tế, người dân cảm nhận sự “mất nước” khi chính họ không còn bất cứ quyền gì trên phần đất mà họ đã sống. Mọi sự vận hành của xã hội và ngay cả tương lai của chính họ và gia đình đang nằm trong tay của một thiểu số đang phục vụ cho quyền lợi của ngoại bang chứ không phải quyền lợi của dân tộc. Do đó, ý nghĩa của sự “mất nước” không đến từ thái độ chính trị – Cộng Sản hay Quốc Gia – mà chính là quyền lực của nhân dân đối với chủ quyền quốc gia. Trong 4.000 năm dựng nước, dân tộc Việt đã bị mất nước 5 lần: 4 lần vào tay người Tàu và 1 lần vào tay người Pháp mà chúng ta gọi là các thời kỳ Bắc thuộc và Pháp thuộc. Thế thì ngày nay, điều gì đã khiến cho dân tộc ta có cảm nhận rằng tập đoàn lãnh đạo CSVN không còn là người Việt Nam nữa? Ông Hồ Chí Minh mê say chủ nghiã cộng sản quốc tế, đã đem chủ nghĩa này vào Việt Nam vào năm 1930, và từ đó tới năm 1975, chủ nghĩa cộng sản đã được áp dụng tại miền Bắc Việt Nam, và từ năm 1975 thì trên toàn đất nước. Ngược với “quốc gia”, cộng sản là “quốc tế”. Giấc mơ của người cộng sản là một “thế giới đại đồng”. Ông Hồ, từ khởi thủy, và những hậu duệ của ông ta về sau này, luôn là những con người “quốc tế”, sẵn sàng vứt bỏ quyền lợi của người dân và đất nước, chỉ mê say một chủ nghĩa, một thế giới cộng sản ảo tưởng mà họ điên cuồng xây dựng với bất cứ giá nào, bất kể xương máu của người dân. Câu nói của Tổng Bí Thư Đảng CSVN Lê Duẩn khi gây chiến tranh hao tổn xương máu của bao triệu người Việt ở cả hai miền Nam và Bắc: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta”, là một biểu hiện rõ rệt nhất của tinh thần “quốc tế” của những người CSVN từ thời ông Hồ cho đến tận ngày hôm nay. Trong suốt quá trình của Đảng CSVN, mặc dù đôi lần có những xung đột, cá nhân ông Hồ và Đảng CSVN của ông ta luôn giữ vai “học trò”, với tư cách cá nhân, và “chư hầu”, với tư cách quốc gia, đối với các nhà lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, … Tập Cận Bình và Trung Cộng, và luôn coi nhẹ sinh mạng của người Việt và đất nước Việt Nam. Điều nghịch lý của những người lãnh đạo CSVN là trong khi lý tưởng cộng sản, ngày càng phai nhạt đến độ gần như triệt tiêu không còn gì (được thể hiện qua câu nói của Tổng Bí Thư CSVN Nguyễn Phú Trọng “… xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa …”), thì vì quyền và lợi cá nhân, sự lệ thuộc của những lãnh đạo CSVN vào những lãnh đạo cộng sản Trung Cộng ngày một gia tăng tới mức hèn hạ, nhục nhã (một lần nữa được biểu hiện qua câu phát biểu nịnh bợ trơ trẽn của Nguyễn Phú Trọng với Tập Cận Bình “Trà Việt Nam không ngon bằng trà Trung Quốc.”) Nước Việt ta đã từng có những kẻ lãnh đạo vì sợ hãi sức mạnh của giặc phương Bắc, nhất là vào thời gian mà thế giới còn biệt lập, nước mạnh dễ dàng bắt nạt nước yếu, sự can thiệp bênh vực của thế giới chưa hề được biết đến. Nhưng những người CSVN sống ở thế kỷ 20 và 21, khi thế giới đã trở thành một “ngôi làng nhỏ”, những nước nhỏ và yếu đã biết kết thành một khối và các nước mạnh không còn có thể tự tung tự tác ăn hiếp họ như nhiều trăm hay ngàn năm về trước, lại không biết sống theo thời đại để tự bảo vệ mình mà chỉ vì quyền và lợi riêng tư, đem đồng bào và đất nước bán cho giặc. Kể từ cái gọi là Mật Ước Thành Đô mà các lãnh đạo CSVN ký kết với Trung Cộng vào năm 1990, khi thì âm thầm, khi thì lộ liễu, các đời lãnh đạo Đảng CSVN kiên trì xúc tiến thực hiện điều họ đã cam kết là biến nước Việt Nam thành một tỉnh lỵ của Trung Cộng vào năm 2020. Cách nay 592 năm, kể từ khi bị Vua Lê Thái Tổ đánh đuổi ra khỏi Việt Nam vào năm 1427, nước Tàu chưa bao giờ từ bỏ ý định xâm lăng nước ta một lần nữa. Ý thức rằng việc đánh chiếm Việt Nam bằng vũ lực quân sự là khó khăn và tốn kém nên Trung Cộng lần này đã chủ định chiếm Việt Nam qua một kế hoạch và tiến trình tiệm tiến tinh vi với sự tiếp tay tận tình và đắc lực của đám lãnh đạo CSVN hèn nhược tham lam. Trước tiên là kế hoạch cài người, cài quân và dân vào Việt Nam, qua các kế hoạch trá hình như khai thác bauxite ở Tây Nguyên, kế hoạch mua rừng đầu nguồn, xây dựng các nhà máy điện, vô số các công ty sản xuất, cho phép “du khách” người Hoa đi vào Việt Nam dễ dàng, … và khủng khiếp hơn cả là các dự án đặc khu cho thuê đất tới 99 năm tại Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc. Cho tới giờ phút này không ai có thể biết được Trung Cộng đã cài bao nhiêu binh lính và vũ khí vào Việt Nam vì chính giới chức trách CSVN cũng không được phép bén mảng tới các đặc khu đó. Trung Cộng cũng sửa soạn đánh Việt Nam về nhiều lãnh vực và khía cạnh khác, mà quan trọng nhất, qua sự tiếp tay của Đảng CSVN, là hủy diệt khả năng chống trả của người dân khi biến Việt Nam thành một xã hội suy đồi về đạo đức, đánh mất tinh thần và niềm tự hào dân tộc, nghèo về kinh tế, hỗn loạn về chính trị, yếu nhược về quân sự, bưng bít với thế giới bên ngoài … Và để hỗ trợ cho sức mạnh và hiệu quả quân sự, gần đây nhất, Trung Cộng đã ép CSVN xúc tiến thực hiện dự án đường cao tốc Bắc Nam, chạy dọc từ Bắc xuống Nam nước Việt, mà một khi hoàn tất thì việc chuyển và điều động quân của Trung Cộng tại Việt Nam sẽ cực kỳ dễ dàng, và nếu xung đột có xảy ra thì quân đội Việt Nam không còn cách nào chống đỡ. Làm tất cả những điều kể trên cho Trung Cộng, chẳng khác nào các lãnh đạo Đảng CSVN đã trói tay Quân Đội và toàn dân Việt Nam để tùy tiện quỳ hai gối hai tay dâng đất nước của Tổ Tiên cho giặc. Họ thực sự là những kẻ tội đồ đáng ghê tởm nhất trong lịch sử dân tộc. Ngày lãnh đạo CSVN sẽ “giao hàng” cho Trung Cộng, theo Mật Ước Thành Đô, là năm 2020, nghĩa là chỉ còn không đầy một năm nữa. Để cứu đất nước Tổ Tiên khỏi rơi vào tay giặc, chỉ còn một giải pháp duy nhất là loại bỏ tức khắc Đảng CSVN và chế độ bán nước. Thời giờ còn rất ít nhưng việc cứu nước không bao giờ quá muộn. Nếu thờ ơ không hành động thì đất nước chúng ta sẽ thật sự mất, và lần này thì không chỉ là mất riêng đối với những người Quốc Gia mà là mất đối với tất cả mọi người Việt Nam, kể cả những người lãnh đạo CSVN bán nước, là những người mà giặc Trung Cộng sẽ loại bỏ đầu tiên! Đỗ Đăng Liêu Bầy ngựa thành Troie của Đảng Cộng Sản Việt Nam Cao Tốc Bắc Nam và kế Giả Đồ Diệt Quắc Ác mộng xây cao tốc Bắc – Nam  
......

30/4 - 44 Năm Nhìn Lại - Niềm tin

Đã 44 năm trôi qua kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975, cộng sản Hà Nội tiến chiếm miền Nam, và đặt sự cai trị độc tài man rợ của mình trên toàn cõi Việt Nam. Ngày nay đất nước này có những gì? Có đạt được như lời mị dân của Hồ Chí Minh năm 1969 “Xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”? Và trong niềm tin mơ hồ đó, hàng triệu người dân miền Bắc đã tham gia cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Trước 1975, miền Nam Việt Nam là một Quốc gia dân chủ, thịnh vượng đến nỗi mà nhiều nhà lãnh đạo của thế giới phải trầm trồ thán phục và ao ước đất nước của họ cũng được phát triển như vậy. Ông Lý Quang Diệu, Tổng thống Singapore từng ví von Sài Gòn như Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhiều người dân xứ Hàn, Thái Lan, Philippines phải sang Việt Nam làm thuê vào thời đó. Ngày nay, sau 44 năm đổi đời từ ngày 30 tháng 4, nhìn vào trật tự xã hội đang diễn ra trong đất nước Việt Nam, ta thấy có một sự mâu thuẫn vô cùng lớn lao giữa lời nói, ý chí và hành động của người cộng sản. Đó là những gì? Việt Nam có một nền kinh tế đi xin viện trợ, đi vay vốn ODA của nước ngoài và khai thác, bán sạch tài nguyên khoáng sản từ trên rừng cho đến ngoài biển khơi. Mặt khác, hệ thống kinh tế Việt Nam bị dẫn dắt, điều khiển bởi các tập đoàn lợi ích nhóm do các phe phái trong nội bộ đảng cộng sản thao túng. Thế nên, người cộng sản dễ dàng tham nhũng với những khối tài sản khổng lồ của quốc gia một cách vô tội vạ. Kết quả thì người dân phải lãnh nhận hậu quả, nợ công tăng cao. Số liệu cũ của Bộ Tài chính cho biết vào ngày 17 tháng 8 năm 2017 thì “Mỗi người dân Việt Nam phải gánh 35 triệu đồng nợ công quốc gia vì các dự án thua lỗ, và hàng loạt các dự án vay vốn ODA bị điều chỉnh tổng mức đầu tư so với ban đầu”. Nhiều người đưa ra lý do biện minh cho đất nước vẫn còn nghèo như “mới trải qua chiến tranh… gần nửa thế kỷ”, hay Việt Nam cũng có khá lên nhờ kinh tế thị trường với đầu tư ngoại quốc gia tăng. Tuy nhiên, chúng ta đã tụt hậu so với Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… từ vài chục năm cho đến cả một thế kỷ. Dường như những năm gần đây là giai đoạn bùng phát của căn bệnh không thuốc chữa trong hệ thống Giáo dục mà nó đã âm ỉ hàng mấy thập kỷ qua. Bạo lực học đường mỗi ngày gia tăng và trầm kha hơn. Những cảnh nam, nữ học sinh đánh đập hội đồng, thậm chí chém giết lẫn nhau hết sức đau lòng tái diễn khắp hang cùng ngõ ngách. Diễn biến một xã hội đảo điên được trình diễn với nạn mua bán bằng cấp, đổi tình lấy điểm, lạm dụng tình dục, chạy chức chạy quyền lan tràn mọi miền đất nước. Sinh viên sau khi được đào tạo đại học thì làm cu ly hay đi làm công nhân, hoặc chạy ra nước ngoài tìm cơ hội mới. Chưa có thời đại nào rực rỡ hơn dưới triều đại của cộng sản khi người dân xứ mình phải lũ lượt đi làm cu ly nơi xứ người. Hàng trăm ngàn người phụ nữ chấp nhận như một món hàng trao đổi để được làm vợ ngoại quốc, và xót xa hơn nữa có hàng ngàn phụ nữ tìm kiếm cuộc sống tốt hơn bằng nghề bán thân trên khắp thế giới. Thực trạng đau lòng của hệ thống y tế tại Việt Nam hiện nay đều quá tải, chất lượng khám chữa bệnh rất thấp. Mối quan hệ giữa y bác sĩ và bệnh nhân nằm trong trạng thái căng thẳng, đó là chưa nói đến vấn đề đầu tiên – tiền đâu. Nếu người bệnh không có tiền thì sự thờ ơ, vô cảm thấy rõ nơi bệnh viện. Ngày hôm nay ung thư trở thành căn bệnh mang tầm mức quốc gia, giết chết hàng chục ngàn người mỗi năm. Thật ra, niềm tin vào cộng sản đã từng bước bị mất mát, hụt hơi ngay trong lòng những người lính Bắc Việt khi tràn vô Sài Gòn. “Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam” có lẽ là câu nói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong không chỉ trong quân lính mà ngay cả lãnh đạo cộng sản. Nhiều câu chuyện truyền tai hay trong hồi ký của họ viết đại ý như thế này “Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đã xảy ra tại miền Bắc. Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ”. Thực tế, đảng cộng sản đã hoàn toàn bị mất niềm tin từ nhân dân ngày càng rõ nét. Tùy từng mức độ khác nhau, từ mất niềm tin tuyệt đối này thì có nhiều bộ phận người khác nhau có thái độ chán ghét chế độ, thậm chí chế độ trở thành mối thù của nhiều tầng lớp dân oan. Hoặc muốn thay đổi chế độ như các thành phần trí thức cộng sản, sinh viên, công nhân, nông dân. Niềm tin của nhân dân là bệ vững chắc cho mọi chế độ tồn tại, ngược lại khi niềm tin đã hết thì sự sụp đổ ắt sẽ đến dù chế độ đó có dùng nhà tù, súng đạn, đàn áp để chống đỡ, để tồn tại. Portland 28/4/2019 Paulus Lê Sơn
......

Có "Đảng" là có tất cả

Nguyễn Việt Nam |   Báo chí cộng sản tung hô thắng lợi tùm lum của đảng cộng sản làm người đọc không khỏi phì cười. Nhiều cái công nhận là cũng đúng. Ví dụ như mấy chục năm nhân dân phải ăn cơm độn, bo bo, cháo loãng...nay có miếng ăn đầy đủ dù ở nhiều nơi còn phải chịu cảnh đói rét như nhiều tỉnh vẫn phải trợ cấp lúa gạo, quần áo, thực phẩm vào mùa giáp hạt, mùa đông hay mùa thiên tai bão lũ. Tuy nhiên báo chí cộng sản không hề mảy may đề cập đến một số thực tiễn như sau. Kể từ khi có " đảng" : +) Là có cải cách ruộng đất, là đấu tố, là đâm cha chém chú, bóp vú chị dâu...là chạy trốn khỏi quê hương vào Miền Nam lánh nạn. Là hàng trăm ngàn người đã thiệt mạng để rồi cuối cùng đất đai, nông cụ, sức người, sức của về tay đảng hết sau cú lừa cải cách ruộng đất ngoạn mục này. +) Có đảng là lại có tiếp cảnh nồi da xáo thịt. Trước đây Nam- Bắc phân tranh mãi thời phong kiến. Sau này có đảng thì còn đánh nhau to hơn, máu chảy nhiều hơn với cái lý do" giải phóng" vì Miền Nam khổ lắm, lãnh đạo trong đó tàn ác lắm...Nhưng thực tế hoàn toàn khác. Khác đến nỗi quân giải phóng thi nhau rửa chân, rửa mặt ở đài phun nước tròn Sài Gòn, khác đến nỗi quân giải phóng lạ lẫm lắm với những vật dụng, xe hơi, xe gắn máy, đồ gia dụng... +) Có đảng là có nợ nần đầm đìa đổ lên đầu nhân dân ngay. Từ đó sinh ra sưu cao thuế nặng, giá cả tăng vọt mà thu nhập thì không thấm vào đâu. +) Có đảng là mất đi nhiều nhân quyền. Nhân dân không được nói, được làm những điều mà người dân ở các nước tự do bình thường được làm như biểu tình, tham gia phản đối những sai trái của nhà cầm quyền, bỏ phiếu(bỏ cũng như không vì chúng nó cơ cấu hết rồi). Ai phản đối, chống đảng là có công an lao ra sẵn sàng đàn áp, bắt bớ, xử tù... +) Có đảng là có cướp bóc mạnh tay. Cướp từ đường đến chợ. Cướp từ nhà đến đất. Cướp từ thuế đến phí. Cướp từ tự do cho đến nhân quyền... +) Có đảng là nước cứ mất dần vào tay giặc Tàu. Mất thế nào chúng ta đều biết rồi đấy. +) Có đảng là hiến pháp và pháp luật chỉ như tờ giấy chùi đít. Tiền, quyền lực bẻ cong, bóp méo cả hiến pháp và pháp luật. Và người bẻ cong nó không ai khác ngoài đảng và đảng viên, lãnh đạo, cán bộ cộng sản. +) Có đảng là giang sơn tan nát. Đào hết, bán hết, buôn lậu hết, thâu tóm hết. Tất cả chỉ vì một chữ " Tiền". +) Có đảng là có nhục quốc thể. Từ lãnh đạo buôn lậu, ngáo ngơ, gật gù, xạo ke cho đến người dân dưới thời cộng sản với những tai tiếng ở trường quốc tế. +) Có đảng là có oan ức ngút trời, bao trùm khắp mọi miền tổ quốc. Dân oan bị cướp đất, án oan hình sự, khiếu kiện... +) Có đảng là nhân dân được sống với những bánh vẽ, những giấc mơ. Bánh vẽ XHCN, bánh vẽ mục tiêu, nghị quyết...mà cuối cùng chẳng cái nào vào cái nào và đi đến đâu cả. Người dân cày mãi, kéo mãi với những giấc mơ quá đỗi bình thường ở các nước tư bản giãy chết như xe máy, xe hơi, tủ lạnh, điều hòa... +) Có đảng là có những hàng triệu culi, kave, trộm cắp, lưu manh, côn đồ được xuất khẩu đi khắp năm châu bốn biển. Ôi còn nhiều thứ nữa có lắm kể từ khi có đảng. Có đảng là có tất cả. Có luôn cả một nồi cám heo mang tên "Việt Nam "./.  
......

DẤU ẤN CHIẾC XE TĂNG 30/4 SAU 44 NĂM

Manh Kim | “Kỷ niệm” 44 năm sau ngày chiếc xe tăng húc sập cổng Dinh Độc lập, mọi thứ đều tăng. Giá xăng tăng, giá điện tăng, học phí tăng, viện phí tăng, tỷ lệ người xếp hàng xin visa nước ngoài tăng, tỷ lệ đảng viên cộng sản “bỏ của chạy lấy người” tăng… Chưa kể chùa chiền tăng, tỷ lệ mê tín dị đoan tăng, tỷ lệ hiếp dâm trẻ em tăng, tỷ lệ học sinh đánh nhau tăng, tỷ lệ trộm cắp giết người tăng, tỷ lệ tai nạn giao thông tăng, tỷ lệ nữ vị thành niên phá thai tăng… Chưa kể tỷ lệ viên chức phát biểu nhảm nhí tăng, tỷ lệ cướp đất tăng, tỷ lệ phá rừng tăng, tỷ lệ phá biển tăng... Có những thứ “tăng” kỳ lạ nữa. Tỷ lệ bỉ ổi tăng, tỷ lệ trơ trẽn tăng, tỷ lệ mặt dày tăng, tỷ lệ bất lương tăng, tỷ lệ ngụy quân tử tăng… Còn nữa, tình trạng báo chí bị bịt miệng tăng, tỷ lệ tù nhân lương tâm tăng, tỷ lệ người chết trong đồn công an tăng… Chưa hết, tỷ lệ “gia đình trị” cũng tăng! Chiếc xe tăng 30-4 đã thực hiện một “nhiệm vụ lịch sử” không thể nào kinh khủng hơn. Nó đã húc không chỉ sập một cánh cổng. Nó đã phá tan một quốc gia. Nó đã nghiền vụn một nền văn hóa. Và bánh xích của nó, vẫn đang kêu ken két, còn tiếp tục nghiến nát những thứ vốn đã bị nó nghiến banh từng mảnh! Sau 44 năm, nó vẫn cho thấy nó chỉ là cái bánh xích sét gỉ với một sức mạnh thô lỗ. Nó không có trí tuệ. Đến lúc nào đó nhiệm vụ lịch sử của nó sẽ phải khép lại. Nó - không phải hình ảnh đại diện của sự "giải phóng" mà là biểu tượng của sự hủy diệt - phải bị vứt đi. Chỉ sự biến mất vĩnh viễn của nó mới đem lại mùa xuân mới trên quê hương này.  
......

Miền Nam còn giúp miền Bắc

Sài Gòn thanh bình, tự do, dân chủ và nhân quyền trước năm 1975. (Hình: Flickr manhhai) Ngô Nhân Dụng – Người Việt Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, nhiều đồng bào miền Bắc thương họ hàng ruột thịt trong Nam đói khổ, đã đem cả thúng gạo cùng mấy cái bát, đĩa vào cứu giúp. Đến nơi mới thấy dân miền Nam, khá giả giàu có hơn mình nhiều. Có người, như nhà văn Dương Thu Hương, thì ngạc nhiên thấy đời sống trí thức ở miền Nam quá tự do. Trong tiệm bày bán cả những sách về chủ nghĩa Marx! Đó là chưa kể trong đại học Văn Khoa có những lớp dạy triết học cũng giảng tư tưởng của Karl Marx! Từ năm 1975 đến nay, cuộc sống của đồng bào miền Nam và miền Bắc ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn. Chế độ cai trị từ Hà Nội đè lên trên Sài Gòn hết cục cựa; nhưng quần áo, thức ăn, ca nhạc, cho đến cách cư xử của người miền Nam có cơ hội Bắc tiến. Trên báo chí, lớp ký giả miền Bắc vào tràn ngập trong Nam đem theo những ngôn ngữ và lối viết của báo Nhân Dân, nhưng trong dân gian thì tiếng nói miền Nam cũng lan ra Bắc. Có người đã nhận xét dân miền Nam được học miền Bắc những tiếng như “thu phí,” “bao cấp,” “trấn lột”; còn người Bắc bây giờ cũng thích nói những tiếng đặc miền Nam như “hổng sao!” “hổng biết!” và “dễ thương!” Nhưng đồng bào miền Bắc chỉ nhìn thấy đời sống của người miền Nam bây giờ, chớ không biết trước năm 1975 nó như thế nào. Gần đây, người ta hay so sánh cách sống của miền Nam bây giờ khác với trước năm 1975, có lẽ bà con miền Bắc nên biết. Thí dụ, dân miền Nam trọng tình người, ăn ở tử tế với nhau, vì may mắn không phải “học tập căm thù,” căm thù cả đồng bào mình. Nhà văn Tưởng Năng Tiến mới nhắc lại câu chuyện của Lữ Phương, một người Sài Gòn đã trốn “vào bưng” theo Việt Cộng, lên tới chức thứ trưởng. Ông Lữ Phương kể, trong một bút ký đã in, rằng trong khi ông vào trong rừng chống chế độ Cộng Hòa, thì vợ con ở trong thành phố của “Ngụy” vẫn không bị trấn áp. Ông viết, “Vợ tôi ngoài việc đi dạy học còn tìm được việc làm ở một tòa án tỉnh nữa. Những người quen biết đều… hết lòng giúp đỡ, che chở (ngay cả những viên chức cao cấp trong chính quyền Sài Gòn).” Ông giải thích, “chẳng phải vì lý do … là ở đây người ta chưa có thói quen ‘chính trị hóa’ mọi quan hệ xã hội.” Câu chuyện của Lê Hiếu Đằng, kể vào lúc cuối đời sau khi đã từ bỏ đảng Cộng Sản, còn đáng suy ngẫm hơn nữa. Hồi trẻ, ông Lê Hiếu Đằng hoạt động cho Cộng Sản, bị cảnh sát Cộng Hòa bắt. Trong khi ở tù, Đằng vẫn được đem theo sách để tự học. Đến kỳ thi “Tú Tài,” tức là tốt nghiệp trung học, Lê Hiếu Đằng, và một “đồng chí”cùng bị bắt, vẫn nộp đơn xin thi. Và trong ngày thi, cả hai “tù chính trị” được cảnh sát đưa tới trường thi, làm bài, và thi đậu! Trước khi nhắm mắt lìa đời, chính Lê Hiếu Đằng công nhận rằng chế độ Cộng Hòa đối xử với “người bất đồng chính kiến” nhân đạo hơn chế độ Cộng Sản rất nhiều! Nếu đồng bào miền Bắc đọc những câu chuyện của hai người trên mà kết luận rằng ai cũng nên sống theo tinh thần “nhân đạo” của người miền Nam thì rất tốt. Nhưng nhân đạo đó chỉ là một mặt của cuộc sống miền Nam, mặt đạo đức. Mặt thứ hai cần nhìn ra, là một lối sống tôn trọng luật pháp. Bà vợ ông Lữ Phương vẫn làm việc, làm cho tòa án của nhà nước Cộng Hòa; các con ông vẫn đi học, vì luật pháp không cho ai xâm phạm những quyền tự do căn bản của họ; khi chính họ không phạm luật. Ông Lê Hiếu Đằng vẫn có quyền đi thi Tú Tài vì mới chỉ bị bắt để điều tra, chưa có tòa án nào kết tội. Lê Hiếu Đằng theo Cộng Sản, ai cũng biết, nhưng chưa bị kết án thì vẫn còn đầy đủ các quyền công dân. Tinh thần trọng pháp, đó là một điều bà con miền Bắc đáng học hỏi từ cuộc sống miền Nam. Lý do đơn giản, vì từ khi Cộng Sản cướp chính quyền, họ không cai trị mà không cần luật pháp. Trong Nam có những trường đại học luật khoa ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt và Cần Thơ cũng chuẩn bị. Trường Luật ở Hà Nội bị đóng cửa từ năm 1954. Chế độ độc tài toàn trị không dùng đến luật pháp. Năm 1956 ông Nguyễn Mạnh Tường đã giải thích cuộc cải cách Ruộng Đất của đảng Cộng Sản vi phạm các nguyên tắc cơ bản của Công Lý; nhưng các lãnh tụ Cộng Sản nghe như vịt nghe sấm! Bây giờ, đảng Cộng Sản đã “đổi mới,” có trường dậy luật, có cả luật sư đoàn, nhưng cách làm việc vẫn theo lối độc tài chuyên chế! Điều quan trọng nhất là người dân ở miền Bắc vẫn chưa tạo được thói quen đòi người cầm quyền phải tôn trọng luật pháp. Dân miền Nam đã có một thời gian sống trong chế độ dân chủ tự do và nhiễm tinh thần trọng pháp cho nên bây giờ hay lên tiếng trước những cảnh bất công hơn đồng bào miền Bắc. Nhà báo Tuấn Khanh trên mạng mới kể chuyện ba phụ nữ ở Quận Thủ Đức, Sài Gòn, năm 2017 đã tố cáo vụ quan chức Cộng Sản xâm phạm một em bé gái. Nhưng “hàng chục an ninh thường phục, dân phòng, cả cảnh sát địa phương và giao thông đã chặn bắt và hành hung dã man” ba người này. Điều bi đát nhất trong câu chuyện trên không phải là cảnh một bà bị thương đầu phải đi cấp cứu, mà là câu hỏi của công an: “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng?” Ông công an nào hỏi câu đó chắc đã được giáo dục hoàn toàn theo lối “xã hội chủ nghĩa!” Chỉ biết sống cho mình thôi! Phải nhắm mắt trước cảnh đau khổ, bất công mà người khác gánh chịu! Sống trong một chế độ chuyên chế không biết bao nhiêu năm thì con người được đào luyện cái thói quen đó? Sau năm 1975, một người bạn tôi từ Sài Gòn về thăm làng cũ ở Thanh Hóa. Khi trở về, anh viết thư kể khi trò chuyện với họ hàng, người trong làng anh, anh thấy hầu như mọi người không ai phán đoán hành động của mình theo tiêu chuẩn “thiện, ác” nữa. Họ mất thói quen dùng các khái niệm trừu tượng này rồi. Vậy họ dùng tiêu chuẩn nào trong cuộc sống? Anh thấy họ chỉ quan tâm đến câu hỏi “Liệu có bị công an hỏi đến hay không?” “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng?” Đó là một quy tắc luân lý mới của chế độ công an, nhiều người quen sống như vậy dù không bị ai nhồi vào đầu! Ở miền Nam vẫn còn những người giữ thói quen “gánh giữa đàng đem quàng vào cổ.” Như ông Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Ông Đỗ Hồng Ngọc mới so sánh các nhà thương thí ở miền Nam trước 1975 với các bệnh viện trên cả nước bây giờ, sau khi chính quyền Cộng Sản bắt những người đi săn sóc bệnh nhân cũng phải đóng tiền nộp cho bộ y tế. Chắc cả thế giới không nơi nào có thể “lệ phí” như vậy! Đỗ Hồng Ngọc viết, “Ngày xưa ở miền Nam tự do, các bệnh viện công còn gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, còn được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ còn được cung cấp các bữa ăn, do các tổ chức xã hội phân phát… Đó là cách đối xử… nhân đạo giữa con người với nhau.” “Còn bây giờ chúng ta hành xử với nhau như thế nào?” Ông bác sĩ viết tiếp, “Đến các bệnh viện nhà nước mà xem, đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện… Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ… Các ngài cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay…” Khi các ông Cộng Sản cầm đầu Bộ Y Tế bắt bệnh nhân vào “nhà thương thí” phải đóng tiền, người dân miền Nam đã ngạc nhiên. Những người như Lữ Phương, Lê Hiếu Đằng chắc ngạc nhiên nhất. Nhưng đến khi họ bắt ai đi thăm nuôi bệnh người bệnh cũng phải đóng tiền thì ai cũng phải phẫn nộ! Mấy ông Cộng Sản này là cái giống người gì đây không biết? Họ gia nhập đảng Cộng Sản vì những đặc quyền lợi ưu tiên, ưu đãi, quyền ra lệnh cho đám dân đen đóng tiền, quyền được ngồi trên pháp luật. Nếu không thì vào đảng làm cái gì? Như Tuấn Khanh kể, năm 2018 có viên quan chức ở Vũng Tàu phạm tội xâm phạm một em gái, bị tố cáo rồi lãnh mấy năm tù. Tuy tòa án Cộng Sản đã ưu đãi chỉ “giơ cao đánh khẽ,’ nhưng “thủ phạm đã tức giận đến mức đốt thẻ đảng của mình.” Anh ta tưởng đã có cái thẻ đảng làm bùa thì hiếp đáp dân lành chỉ là chuyện nhỏ! Đồng bào miền Bắc đã quen nếp sống trong chế độ như vậy lâu quá rồi. Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, bà con đã dần dần thấy một cách sống khác, có vẻ giống lối sống của ông bà, tổ tiên chúng ta đời trước hơn. Và giống với trào lưu tự do dân chủ của loài người hơn. Sẽ tới lúc người ta thấy thói quen phản kháng, “giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha” khiến con người cảm thấy đáng sống hơn, vì chính mình có giá trị hơn. Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc lên án chính sách tận thu của đảng Cộng Sản là “tàn nhẫn vô nhân đạo.” Nó “đẩy người bệnh đã nghèo càng khổ thêm… Họ lại phải nhịn ăn, bán thêm ruộng vườn để đáp ứng việc tận thu của các ngài. Khốn nạn thật!” Và ông đặt câu hỏi một chính phủ như thế “có còn nên tồn tại không?” Cái chính phủ đó vẫn còn tồn tại, cho đến khi nào người dân cả nước Việt Nam, từ Bắc vào Nam thấy cần phải thay đổi. Có thay đổi thì chúng ta mới sống “cho ra cái giống người” như cụ Tản Đà mong ước vào đầu thế kỷ 20! Ngô Nhân Dụng Nguồn: Người Việt  
......

Bốn mươi bốn năm trước ở Sài Gòn cứ vài hôm là có xuống đường…

Trúc Giang - (VNTB)| “Bí thư Nguyễn Thiện Nhân: TP.HCM hứa với Bộ Chính trị sẽ không có biểu tình” là tít của bài viết đăng trên báo Thanh Niên điện tử phát hành vào cuối giờ chiều ngày 26-4-2019, và chỉ non tiếng đồng hồ, tít tựa này được thay đổi là “Bí thư Nguyễn Thiện Nhân: Nỗ lực làm cho người dân và doanh nghiệp hài lòng”. Câu trích được chọn trình bày là điểm nhấn: “Chúng ta cần phải làm vì TP.HCM có biểu tình thì ảnh hưởng đến cả nước”, sau đó cũng được bài viết trên báo Thanh Niên ‘tháo bỏ’. Sơ sẩy của biên tập viên báo Thanh Niên, hay là…? Đoạn tường thuật sau đây cũng bị rút lại: “Từ đó, ông Nguyễn Thiện Nhân cho biết Thành ủy, UBND TP.HCM yêu cầu Công an TP.HCM phối hợp với Bộ Tư lệnh TP.HCM xây dựng phương án chống biểu tình, trong đó có phương án chống biểu tình bằng xe máy và đưa người từ các tỉnh về TP.HCM biểu tình... Theo ông Nguyễn Thiện Nhân để biểu tình không thể diễn ra, thì chính quyền cần có phương án sẵn sàng ứng phó, truyền thông tiếp cận tuyên truyền người dân không tham gia biểu tình, tách những người dẫn dắt biểu tình và biện pháp xử lý...”. (Hãng Thông tấn của Nga Sputnik, phiên bản Việt ngữ, đã kịp lấy lại toàn văn bản tin trên báo Thanh Niên vụ ‘sẽ không có biểu tình’ đó https://vn.sputniknews.com/politics/201904267434753-bi-thu-nguyen-thien-nhan-tphcm-hua-voi-bo-chinh-tri-se-khong-co-bieu-tinh/). Lời hứa “sẽ không có biểu tình” này được ông Nhân nói với lãnh đạo Quân khu 7 cùng hơn 70 vị tướng đại diện cho 112 vị tướng nghỉ hưu và đang sinh sống ở TP.HCM trong họp mặt vào chiều ngày 26-4-2019 trong chuỗi sự kiện được gọi là ‘mừng chiến thắng 30 tháng tư’. Cam kết nói trên cho thấy đã ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, cụ thể ở Điều 25. “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Ở vế “pháp luật quy định” của Điều 25 nói trên, thì “tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân” được thể hiện tại Điều 167 của Bộ luật hình sự 2015. Điều 167 quy định: Người nào cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình và các quyền tự do, dân chủ khác của công dân (nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều khác của bộ luật này) thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm; Trường hợp phạm tội có tổ chức hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm; Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm; người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ từ một năm đến năm năm. Sợ biểu tình là phủ nhận thành quả đấu tranh cách mạng (!?) Tạm gác qua những viện dẫn trong chuyện ông bí thư Nguyễn Thiện Nhân đang dẫm đạp lên pháp luật, ở góc nhìn khác, cho thấy quả thực nếu cam kết đó là để làm đẹp lòng Bộ Chính trị như lời của ông Nhân, thì có lẽ cả ông Nguyễn Thiện Nhân lẫn ông Nguyễn Phú Trọng cùng bộ sậu trong bộ chính trị, đã phủ nhận những giá trị truyền thống cách mạng có được từ những cuộc biểu tình trong lịch sử; đặc biệt là ở giai đoạn từ tháng 5-1975 đến đầu thập niên 80 thế kỷ trước. Sách giáo khoa hiện đang giảng dạy ở trường trung học có lược thuật, vào ngày 15-5-1975, trên toàn miền Nam đã diễn ra các cuộc mít tinh, diễu hành mừng chiến thắng. Ở Sài Gòn, hàng triệu nhân dân đã xuống đường và tham dự cuộc mít tinh lịch sử… Khi ấy, ‘hàng triệu nhân dân đã xuống đường’ ủng hộ cách mạng, thế thì cớ gì 44 năm sau, tháng tư 2019, những người cộng sản lại sợ hãi biểu tình đến mức Bộ Chính trị buộc các địa phương phải cam kết “sẽ không có biểu tình”? Tháng tư năm 1975, tôi chỉ là đứa học trò trung học. Từng nghe kể chuyện các anh, chị của mình tham gia bãi khóa, xuống đường phản đối chiến tranh diễn ra hà rầm ở Sài Gòn trước năm 1975, tôi đã mang cảm giác tò mò và háo hức đó vào những lần mà nhà trường tổ chức cho học trò cầm biểu ngữ, cờ rồi hô khẩu hiệu ủng hộ chính quyền cách mạng, ủng hộ đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ những bận xuống đường như vậy, các thầy cô dẫn đám học trò đi một vòng lớn từ đường Ngô Tùng Châu đến Phan Văn Trị rồi xuôi Nguyễn Văn Học của quận Bình Hòa về lại khu ngã tư Xóm Gà. Những đứa bạn có cha, anh bị bắt đi học tập cải tạo, tụi nó cũng hồ hỡi trong đoàn người xuống đường ấy. Chỉ đến khi nhà trường bắt đầu tổ chức những buổi xuống đường gọi là “Bài trừ văn hóa phẩm đồi trụy” thì cả thầy và trò chúng tôi linh cảm có gì đó không ổn rồi đây. Tủ sách Tuổi Hoa, từ hoa đỏ cho tới hoa tím của gia đình tôi đều bị những tốp thanh niên mang băng đỏ ở cánh tay áo vào tận nhà để xét và tuyên bố tịch thu sách vở của gia đình tôi. Tôi bắt đầu sống trong cảm giác bị khủng bố từ đó. Những lần buộc phải tham gia xuống đường ủng hộ cách mạng, không còn chút thú vị nào nữa; mà đi vì sợ… Đánh tư sản Hoa kiều Chợ Lớn cùng với những đoàn người xuống đường rầm rộ, đầy vẻ đe dọa đã khiến lứa học trò chúng tôi thời đó bắt đầu oán ghét cụm từ ‘mít tinh’ (meeting), ‘xuống đường’ của chính quyền mới ở Sài Gòn, mà giờ đây đã mang tên là Hồ Chí Minh… Rồi năm tháng đi qua. Lớn lên, được dịp tìm hiểu, tôi nhận ra dường như những lần xuống đường, những cuộc tuần hành trên đường phố sau buổi lễ ‘mít tinh’ mà bọn trẻ ngày ấy của chúng tôi tham gia, đó chỉ là theo kịch bản nhằm phục vụ mục đích của nhà cầm quyền, chứ không phải là từ nhu cầu chính trị, an sinh cần lên tiếng của cộng đồng. Và giờ, sau bốn mươi bốn năm, khi chúng tôi cần thực thi quyền biểu tình, thì đến lượt nhà cầm quyền lại hãi sợ và ra sức cấm đoán, kể cả chuyện đe nẹt trấn áp, bỏ tù bằng mọi giá như tuyên bố của ông Nguyễn Thiện Nhân hôm chiều 26-4-2019.  Như vậy, khi mà  những người đang khoác áo cộng sản còn phủ nhận những thành quả có được từ biết bao cuộc xuống đường của chính họ trong lịch sử, thì liệu họ có tự tin để quản trị đất nước đủ sức ‘sánh vai cùng các cường quốc năm châu’, mà một thời gian dài từng là khẩu hiệu treo đầy ở các lớp học?
......

Pages