Ngày 30 tháng 4

Lý Thái Hùng Thấm thoát biến cố 30 tháng 4 đã bước qua năm thứ 46 năm (1975-2021). Dù có thể gọi bằng nhiều tên khác nhau tùy theo vị trí của từng người liên hệ, nhưng chắc chắn một điều: Đây không phải là ngày vui. Người Cộng sản thì gọi đây là ngày giải phóng. Người Việt Nam thì gọi đây là ngày Quốc hận. Mặc dù đã có rất nhiều tài liệu, sách báo viết về biến cố 30 tháng 4 dưới nhiều góc nhìn khác nhau; nhưng một biến cố đã khiến cho hàng triệu người phải rời bỏ đất nước thân yêu của mình ra đi tìm tự do, không chỉ ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt mà còn kéo dài cả hơn 10 năm sau đó, không thể nào gọi đó là ngày giải phóng. Biến cố 30 tháng 4 không phải là biến cố có “triệu người vui và triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói ở cuối đời, mà đúng ra chỉ có một thiểu số vui mừng, trong khi đại khối dân tộc thất vọng và nhục nhã vì thảm kịch này. Không chỉ có những người dân miền Nam gọi biến cố 30 tháng 4 là ngày quốc hận khi Sài Gòn sụp đổ, mà những năm sau đó ở miền Bắc và kéo dài cho đến ngày hôm nay những người đã từng đi theo đảng Cộng sản “giải phóng” miền Nam đã lần lượt nhìn ra đó là cuộc chiến không có chính nghĩa như họ từng bị nhồi sọ. Nhân danh điều phi nghĩa để áp đặt sự lãnh đạo một cách ngạo mạn và độc tài trên cả nước trong hơn 4 thập niên qua, đã cho chúng ta thấy ngay hệ quả: Đất nước luôn luôn bất ổn vì đại đa số người dân bất phục tùng và tìm mọi cách chống lại. Một đảng cầm quyền mà liên tục phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác trong nhiều năm dài nhưng lại tiếp tục nắm giữ quyền lực trong tay, đã dẫn đến hai hậu quả: 1/ Lãnh đạo và cán bộ liên hệ tạo thành những băng nhóm mafia trong các cơ chế và dùng quyền lực chi phối các sinh hoạt xã hội theo nhu cầu riêng của họ chứ không phải nhu cầu của người dân hay của quốc gia; 2/ Tài nguyên quốc gia lần lượt chạy vào túi riêng của một thiểu số có quyền, có chức, được bảo bọc hay che chắn bởi bộ máy an ninh. Chúng không chỉ cấu kết nuôi dưỡng guồng máy tham ô mà còn ngăn chặn tiến trình phát triển lành mạnh và dân chủ hóa Việt Nam. Vì thế, những kẻ có quyền và có tiền trong tay tại Việt Nam không bao giờ dám thay đổi thật sự vì họ không chỉ sợ mất những quyền lợi đang thụ hưởng mà còn sợ sự thay đổi có thể dẫn đến những nguy hiểm cho chính họ khi xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Đó là lý do tại sao lãnh đạo Hà Nội nói đến đổi mới, cải cách nhưng luôn luôn phải đi theo “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì đó là lằn mức sau cùng mà họ có thể lùi trong an toàn. Muốn phát triển và vươn lên cùng với thế giới bên ngoài, mỗi đất nước phải có một nền tảng chung để tạo sự đồng thuận trong lòng dân tộc. Nền tảng chung của Việt Nam không thể nào là “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì đó chỉ là định hướng của một đảng, một nhóm người; không thể áp đặt lên toàn thể xã hội. Nền tảng chung mà dân tộc Việt Nam theo đuổi, không chỉ mới có trong 46 năm qua mà đã khởi đi từ năm 1858 khi người Pháp bắn phát súng đầu tiên vào cửa biển Đà Nẵng mở đầu cho chính sách thực dân tại Việt Nam. Đó là một Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ và Phú Cường thật sự bằng chính sự chọn lựa của người dân. Không nhìn thấy khát vọng này của dân tộc mà cố tình áp đặt lên người dân những chủ thuyết ngoại lai và dùng bạo lực trấn áp những ai không đồng ý kiến thì chỉ là những kẻ cản đường tiến tới tương lai của dân tộc mà thôi. Mỗi người có những cảm nhận khác nhau khi đối diện ngày 30 tháng 4. Nhưng có một cảm nhận chung là không một ai hài lòng về hiện tình đất nước ngày nay kể từ 30 tháng 4 năm 1975. Tại sao những người Việt tỵ nạn chỉ mất 20 năm từ hai bàn tay trắng đã dựng nên cơ nghiệp rất thành công ở xứ người, trong khi đất nước Việt Nam vẫn lẹt đẹt đi sau nhân loại với đa số người dân vẫn còn ở mức sống nghèo khó? Nhà cầm quyền Hà Nội thường hay đổ lỗi cho hậu quả tàn phá của những năm tháng chiến tranh, rồi lại đổ lỗi cho sự chống phá của các thế lực thù địch. Nhưng họ đã không nhìn ra chính họ mới là nguyên nhân tạo ra tình trạng trì trệ của đất nước hiện nay. Nếu chúng ta cùng tưởng niệm biến cố 30 tháng 4 trên ý thức như vậy, mỗi người sẽ phải là một “cánh bướm dân chủ” để góp phần tạo những chuyển đổi thật sự tại Việt Nam trong những năm trước mặt. Lý Thái Hùng https://viettan.org/ngay-30-thang-4/?fbclid=IwAR3ChOMoKz3USOZooeImzfJO7_iDXXdutbE-g4mFW7bmCpCkJA6e2b5v_X4
......

46 năm nhìn lại còn đau!

  Đỗ Ngà   Cuộc chiến huynh đệ tương tàn 1954 -1975 phía Bắc Việt có 850 ngàn quân chết, phía VNCH có 313 ngàn người chết, 2 triệu dân thường chết và 1,9 triệu người bị thương. Ngày 30/4/1975 ấy được phía thắng cuộc gọi là “mùa xuân đại thắng”. Vâng! Với tổng cộng 3,5 triệu xác đồng bào hai bên đã ngã xuống ấy người CS họ gọi đó là “mùa xuân” của họ. Như bài Quốc ca CS có nói rằng “đường vinh quang xây xác quân thù”, nghĩa là cái 30/4/175 đau thương ấy, CS đã xây “con đường vinh quang” cho họ bằng 2,3 triệu xác đồng bào Miền Nam. 2,3 triệu cái xác của đồng bào ấy, CS gọi là “xác quân thù”.   Hậu cuộc chiến, không chỉ người CS chiếm bệnh viện tống thương phế binh VNCH ra ngoài đường mà họ còn ngược đãi với người đã chết. Nghĩa trang Biên Hòa - nơi chôn cất những người lính của bên thua cuộc bị bên thắng cuộc bỏ hoang phế bằng đủ trò cấm đoán. Với đồng bào thì như kẻ thù, còn với ngoại bang thì “tình như thủ túc”, được biết những người lính Trung Quốc sang giúp CS đã được chính quyền CS trích tiền thuế của dân Việt xây các Nghĩa Trang Liệt Sĩ Người Trung Quốc rất khang trang và được chăm sóc rất cẩn thận.   Chìa khóa hòa hợp hòa giải nằm trong tay kẻ chiến thắng chứ không thuộc về kẻ bại trận. Kẻ thắng cuộc cần có thinh thần thượng võ và lòng bao dung thì mới hòa hợp hòa giải dân tộc được. Còn chiến thắng mà lòng chứa đầy thù hận, ích kỷ, nhỏ nhen thì mãi mãi không thể hòa hợp hòa giải được. Với cách đối xử với bên thua cuộc như vậy, làm sao CS hòa hợp hòa giải dân tộc được đây? Đã 46 năm rồi mà bài toán hoà hợp hoà giải vẫn bế tắc.   -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://www.youtube.com/watch?v=VC4m29JkMF0 https://www.youtube.com/watch?v=V-c0iN636bs https://www.youtube.com/watch?v=6eoT9i2kd8E  
......

Mối liên hệ giữa giáo dục XHCN là tuyên truyền dối trá

Đỗ Ngà     Giáo dục nhồi sọ và tuyên truyền dối trá là chiến lược lớn của đảng để tạo ra cái gọi là con người mới XHCN. Mục tiêu của đảng là làm sao mỗi một con người lớn lên dưới nền giáo dục XHCN thì phải thành con người phục tùng những gì đảng làm, biết sùng bái lãnh tụ. Phục tùng đảng và sùng bái lãnh tụ được ví như hai dây cương thít vào mũi của dân tộc này, mục đích là để đảng điều khiển dân tộc đi theo những gì đảng đã vạch ra. Đảng và dân tộc như là kỵ sĩ và con ngựa, đảng muốn cỡi lên con ngựa thuần chứ không muốn ngồi lên “con ngựa chứng”, đó là lý do mà đảng xây dựng nên giáo dục XHCN và tuyên giáo. Mục tiêu của nền giáo dục XHCN là “vì tổ quốc XHCN, vì lý tưởng bác hồ vĩ đại hãy sẵn sàng”, là “sống chiến đấu lao động và học tập theo gương bác Hồ vĩ đại” chứ hoàn toàn không phải trở thành con người sáng tạo và có đạo đức.   Một nền giáo dục như vậy nó không khác gì ngành tuyên giáo. Ngành giáo dục và ngành tuyên giáo chia nhau ra làm công tác tẩy não. Trong môi trường giáo dục thì Bộ giáo dục tẩy não học trò, trong môi trường xã hội thì ban tuyên giáo sẽ hằng ngày làm công tác tẩy đi tẩy lại bộ não con người để đảm bảo rằng nó không thể nhiễm những gì đảng không muốn. Mỗi một con người lớn lên và thành nhân cách họ chịu tác động 3 môi trường: thứ nhất là gia đình; thứ nhì là môi trường giáo dục; và thứ ba là môi trường xã hội. Trong 3 môi trường đó đảng nắm hết 2, đó là giáo dục và xã hội, còn gia đình thì khi người cha người mẹ cũng là người lớn lên dưới mái trường XHCN thì môi trường gia đình đó cũng nằm trong tầm ảnh hưởng của chiến lược tẩy não của đảng rồi.   Hôm nay trên các trang báo CS có thông báo ông cựu Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục - Phùng Xuân Nhạ được phân về là phó ban tuyên giáo trung ương. Đây là sự khẳng định rằng, định hướng giáo dục của CS là tẩy não. Nền giao dục này lấy mục tiêu tẩy não làm nòng cốt chứ không phải mục tiêu mang lại tri thức và đạo đức cho mỗi con người cho nên với bao sự thối nát của ngành giáo dục, đảng sẽ không có thiện chí sửa đổi. Hiện tượng đạo văn, trò mua bán điểm, trò mua bán bằng, bạo lực học đường, giáo viên làm công tác của gái tiếp viên nhà hàng vv... những cái xấu như thế cứ nhan nhản nhưng điều đó không quan trọng, quan trọng là nền giáo dục này đã hướng tuổi trẻ vào tệ nạn sùng bái. Nếu giới trẻ không sùng bái bác hồ thì nền giáo dục XHCN cũng hướng chúng đến việc sùng bái Khá Bảnh, mê san Hàn vv..., miễn sao không để giới trẻ tìm đến những giá trị tiến bộ mang tính phổ quát như tự do, dân chủ, nhân quyền vv... là đảng thành công rồi.   Giáo dục nhồi sọ và tuyên truyền dối trá là 2 mũi giáp công của một chiến dịch. Đấy là chiến dịch tẩy não dân tộc này để đảng trục lợi, vì vậy việc một ông bộ trưởng bộ giáo dục được chuyển sang làm tuyên giáo không có gì là bất ngờ.   -Đỗ Ngà-   Tham khảo: https://vnexpress.net/ong-phung-xuan-nha-lam-pho-ban...  
......

Tâm tư người trẻ về 30 tháng Tư

Phạm Phú Khải - VOA Nhân ngày 30 tháng Tư năm nay, tôi đã liên lạc sáu bạn trẻ, đều là những người quan tâm sâu xa về các vấn đề Việt Nam. 2 bạn sinh ra và lớn lên từ miền Bắc, 4 sinh ở miền Trung, nhưng có 2 bạn sống phần lớn ở miền Nam. Onyx thuộc thế hệ Z, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, thập niên 2000s; đang sống và học tập tại nước ngoài. Thảo Nguyên sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, thập niên 1990s, học luật; một nhà hoạt động đấu tranh cho tự do, nhân quyền tại Việt Nam. Nguyễn sinh ra tại miền Trung Việt Nam, thập niên 1990s; đang sống và học tập tại nước ngoài. Đặng Quân sinh ra tại miền Trung Việt Nam, thập niên 1970s; một Blogger của Phong Trào Giới Trẻ Thế Giới Vì Nhân Quyền; đang sống và làm việc trong nước. Nhất Tâm sinh ra tại miền Trung Việt Nam, thập niên 1990s; một người hoạt động dân quyền trong nước. Trung Nguyen sinh ra tại miền Trung Việt Nam, thập niên 1980s; một người hoạt động dân chủ trong nước. Tôi đã hỏi 6 bạn bốn câu: một, các bạn có nghĩ giới trẻ nên tìm hiểu về sự kiện lịch sử này không; hai, thái độ của các bạn ra sao trước những phức tạp của vấn đề gặp phải; ba, có nhu cầu hòa giải giữa người Việt với nhau không; bốn, đâu là bài học thích hợp đối với giới trẻ về tiến trình hòa giải cho dân tộc. Câu trả lời của các bạn tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có cách nhìn ở góc độ khác nhau. Đặng Quân thì chia sẻ rất chi tiết các trãi nghiệm của mình, như một thầy giáo. Nhất Tâm thì nhìn vấn đề thực tiễn của một người chuyên về vận hành. Onyx thì chia sẻ rất nhiều cảm xúc khi được tiếp cận với một không gian mới. Nguyễn thì vừa sâu sắc vừa thực tiễn: nếu không hiểu vấn đề thì làm sao giải quyết nó. Trung Nguyen đi thẳng vào vấn đề và đặt câu hỏi ai mới là người phải có trách nhiệm trước các vấn đề quốc gia hôm nay. Thảo Nguyên thì rất thẳng thắn và độc lập trong mọi vấn đề tiếp cận. Có bạn trả lời ngắn, có bạn trả lời dài. Tôi định rút ngắn một số câu trả lời để độ dài không quá chênh lệch, nhưng nghĩ lại thấy có nhiều trãi nghiệm cá nhân khá lý thú, nên để nguyên như vậy. Tôi chia bài ra làm hai kỳ để quý bạn đọc dễ theo dõi. Câu hỏi số 1: Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã xảy ra cách đây 46 năm. Theo bạn, thế hệ trẻ sinh sau biến cố này có nên hay không tìm hiểu về biến cố lịch sử này? Tại sao? Các bạn đều đánh giá cao về tầm quan trọng của việc tìm hiểu lịch sử, kể cả sự kiện 30 tháng Tư. Quá khứ, hiện tại và tương lai gắn liền chặt chẽ với nhau. Riêng Onyx thì cho rằng những gì học từ môn sử trong nước chẳng để lại gì trong mình, còn những gì được tiếp cận để lại dấu ấn trong lòng. Nguyễn quan niệm không nên tránh né lịch sử, dẫu có buồn đến mấy. Thảo Nguyên: Trước hết tôi không muốn gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là “biến cố”. Mỗi người sẽ có những cách gọi khác nhau về sự kiện này. Đối với bên thắng cuộc thì gọi ngày này là “Ngày Giải phóng độc lập”. Đối với bên thua cuộc thì gọi ngày này là “Ngày Quốc Hận”. Còn đối với tôi- một người trẻ sinh sau ngày 30/4/1975, tôi chỉ coi ngày 30/4/1975 là một sự kiện lịch sử. Tôi gọi như vậy bởi vì tôi không được tham dự vào sự kiện này, tôi chỉ nghe các thế hệ đi trước hoặc bên thắng cuộc kể lại. Do đó, tôi chưa có những đánh giá khách quan, toàn diện, đúng đắn để đặt một cái tên phù hợp nhất cho sự kiện ngày 30/4/1975. Theo tôi, thế hệ trẻ sinh sau biến cố này nên và cần tìm hiểu về sự kiện 30/4/1975. Bởi tôi cho rằng đây là một sự kiện đặc biệt, đánh dấu “bước ngoặt” của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nói riêng cũng như vận mệnh của đất nước và tương lai dân tộc Việt Nam nói chung. Qua đó, các bạn trẻ quan tâm đến chính trị có thể học được những bài học thành công và thất bại từ cả hai bên Cộng sản miền Bắc và Việt Nam Cộng Hòa. Ngoài ra, các bạn trẻ cũng nên tìm hiểu về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tự do, non trẻ. Các bạn sẽ biết được về những mặt tích cực, hạn chế của thể chế chính trị dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Việt Nam Cộng Hoà có thể không phải là một thể chế chính trị hoàn hảo nhất nhưng ít nhất người dân sống dưới thời Việt Nam Cộng Hòa cũng đã từng được hưởng không khí của nền tự do thực sự, trong đó có quyền lập hội và quyền biểu tình - những quyền mà ngày nay, chúng ta bị chính quyền hạn chế tối đa. Đặng Quân: Theo tôi, thế hệ trẻ sinh sau năm1975 cần phải tìm hiểu kỹ biến cố lịch sử này. Chính nhờ lịch sử mà các thế hệ nối tiếp học được các bài học thành bại của quá khứ. Lịch sử là tấm vé một chiều, không thể có chuyện vãn hồi dĩ vãng; nhưng giới trẻ buộc phải nhìn về quá khứ để rút ra bài học xương máu và cũng là dùng lịch sử làm nền tảng suy tư và hành động trong thời hiện tại. Một thế hệ trẻ không biết gì về lịch sử nước nhà là coi như mất gốc. Đặc biệt là ngay trong biến cố chỉ mới xảy ra cách đây 46 năm. 46 năm chả là gì nếu so với dòng lịch sử. Nhưng xét trong đời người nó đã là một chặng đường dài. Và nó đã trực tiếp và ít nhiều liên hệ đến cuộc đời của chính ông bà, cha mẹ và anh chị em trong gia đình mình. Bỏ qua không tìm hiểu hoặc chỉ lười biếng không nghiên cứu kỹ, chỉ nghe theo thông tin một chiều và sai sự thật, mà không chịu xét lại lịch sử theo nhiều góc cạnh khác nhau, phân tích, nhận định và so sánh với các biến cố tương tự đã diễn ra với các nước khác cũng là sai lầm to lớn. Bởi vì muốn rút ra bài học lịch sử chưa bao giờ là điều dễ dàng, nhất là đối với hiện tình chính trị Việt Nam. Nhất Tâm: Một nhà văn Mỹ đã nói rằng: “Một thế hệ ngoảnh mặt lại với lịch sử là một thế hệ không có quá khứ - và cũng không có tương lai.”. Người Việt đã trải quan nhiều cuộc nội chiến khác nhau trong lịch sử nhưng Biến cố 30 tháng 4 là một sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng rất nhiều đến tâm tư và cảm xúc của bất cứ ai quan tâm đến hiện tình đất nước. Có thể nói người Việt chỉ có thể phát triển toàn diện khi ký ức về cuộc biến cố này được khai thông. Onyx: Mình nghĩ mình may mắn khi có trí nhớ không tốt vì khi học lịch sử ở trong nước, dù sách giáo khoa và giáo viên Lịch Sử đều có giọng điệu huy hoàng tới đâu, thì mình cũng không thể nào nhớ gì về "câu chuyện của các cụ" (tức môn lịch sử) đã được truyền dạy. 30 tháng Tư năm 1975 là một sự kiện mà mình phải đi ra khỏi nơi vùng an toàn ấm êm của mình ở Việt Nam để được biết thêm những mảnh ghép khác của câu chuyện. Đằng sau những từ ngữ hào nhoáng của phía thắng cuộc trong các cuốn sách họ viết cho thế hệ về sau là bao nhiêu thương tổn, hiu quạnh tâm hồn của bên chịu mất mát, thiệt thòi. Câu chuyện của họ chạm tới mình nhiều hơn những gì giáo viên Lịch sử bắt mình thuộc lòng để kiểm tra. Trung Nguyen: Theo tôi, thế hệ trẻ sinh sau năm 1975 rất nên tìm hiểu về lịch sử của dân tộc nói chung, cũng như lịch sử cận đại và hiện đại của dân tộc nói riêng. Khi hiểu quá khứ của dân tộc thì chúng ta mới hiểu được hiện tại của dân tộc, và từ đó mới có thể có hành động để định hình tương lai tốt đẹp hơn cho dân tộc. Biến cố 30/4/1975 là một sự kiện vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến hiện tại của dân tộc, đến tư duy của người Việt trong nước lẫn hải ngoại, đến chính sách của đảng cộng sản cầm quyền. Do đó, người trẻ càng nên tìm hiểu về sự kiện này. Nguyễn: Nếu mỗi cá nhân thường coi những trải nghiệm trong quá khứ là bài học cho chính họ ở hiện tại và tương lai, thì mỗi quốc gia cũng cần gìn giữ trang sử của riêng nó - trước nhất là để đừng lặp lại sai lầm, và sau nữa là để tháo gỡ những vấn đề còn tồn đọng. Bốn mươi sáu năm có thể được coi là dài với một đời người, song chỉ như một tích tắc đối với chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc-quốc gia. Rõ ràng, những vết thương từ cuộc nội chiến 1954-1975 vẫn chưa hề được chữa lành, nếu không muốn nói là đã bị phớt lờ và rồi dần trở nên lở loét qua nhiều thế hệ. Anh nhìn tôi bằng ánh mắt thận trọng khi tôi gọi “ông Hồ Chí Minh" thay vì “Bác Hồ". Đứa em tôi nhíu mày, rồi lặng lẽ unfriend, khi thấy một người bạn đăng lên Facebook hình xe tăng kỷ niệm ngày “giải phóng". Có những biểu hiện của sự đứt gãy như thế, tuy âm thầm, nhưng đã luôn đẩy chúng tôi - những đứa trẻ sinh vào thời bình - ra xa nhau. Ai sẽ là người chữa lành những vết thương đó, nếu không phải là người trong cuộc? Cần phải tìm biết chuyện gì đã xảy ra trước đã. Không có lý do gì để chúng ta né tránh lịch sử, dẫu đó có là một trang sử rất buồn. Câu hỏi số 2: Chiến tranh Việt Nam là một sự kiện chính trị/lịch sử khá phức tạp. Không dễ gì để tìm hiểu về nó một cách khách quan, trung thực, hay đầy đủ, cho dầu có muốn. Bạn đã làm gì, và chọn thái độ nào, về vấn đề này trong những năm qua? Hầu như tất cả các bạn đều thấy được sự phức tạp của sự kiện 30 tháng Tư. Nguyễn nghĩ rằng khi viết sử nên tránh thao túng cảm xúc con người. Đặng Quân phải thường xuyên nhờ cậy vào gia đình lúc còn bé để thấu hiểu được các khía cạnh của môn sử được dạy ở trường. Trung Nguyen phải tiếp cận nhiều nguồn khả tín khác nhau. Onyx thì quan niệm cần tiếp cận lịch sử một cách toàn diện. Còn Thảo Nguyên biện luận cần phải đọc với óc phán xét, tư duy độc lập và phản biện. Nguyễn: Tôi nghĩ ít ai dám nhận rằng họ hiểu về cuộc chiến này một cách vẹn toàn. Quả vậy, những trang sử viết về cuộc nội chiến 1954-1975 dẫu đang được nhiều bên nỗ lực lấp đầy, song hãy còn rải rác và khó tìm đọc một cách đầy đủ, nhất là trong bối cảnh giáo dục lịch sử ở nhà trường bị kiểm duyệt và sửa đổi thành ra méo mó. Ấy là chưa kể, dù tôi đã lục lọi khắp nhiều thư viện từ Bắc chí Nam, vẫn khó lòng tìm ra những tài liệu dám thừa nhận chính thể Việt Nam Cộng hòa. Những cuốn hồi ký của nhiều cây viết hải ngoại, có lẽ, đã giúp lấp dần vào chỗ hổng kiến thức lịch sử của thế hệ tôi, những người sinh sau đẻ muộn. Song lối kể chuyện tường thuật của nhiều tác giả không tránh khỏi khơi dậy những cảm xúc mạnh mẽ, mà tôi e rằng không phải là một điều kiện tốt cho việc tìm hiểu lịch sử - bởi bên cạnh mặt lợi là chúng cho phép ta tưởng tượng và trải nghiệm những gì đã diễn ra trong quá khứ, thì chúng cũng có khả năng thao túng cảm xúc con người. Trong vai trò một độc giả, tôi không là ngoại lệ. Dầu cố gắng giữ cho bản thân một thái độ khách quan, song tôi nhận ra rằng ý muốn này dần trở nên phi thực tế, khi tôi đọc phải những câu chuyện đau thương và đầy phẫn uất về những gì mà người Việt đã đối xử với nhau và về thân phận của chính người Việt mình. Đặng Quân: Tôi sinh ra và lớn lên giữa những cảnh tem phiếu, đói ăn dẫu cho tất cả các thành viên gia đình phải đầu tắt mặt tối. Bản thân tôi từ lớp 4 đã phải phụ các chị lo việc nhà, tưới rau lang trồng quanh nhà để có thêm bát canh cho mỗi bữa ăn vốn chỉ toàn những thứ ngày nay dành cho gia súc... Lớp 6, tôi đã phải một buổi đi học, một buổi đi đóng sách cho một tiệm đóng sách gần nhà, may lại những tờ giấy thừa đóng lại thành tập bán cho người mua. Và tôi được bà ngoại, ba mẹ, các anh chị lớn trong gia đình kể lại những thời khắc trước trong và sau năm 1975. Trước những lời chứng của người thân trong nhà, và diễn biến sự việc tôi phải đi làm sớm luôn đặt tôi vào cuộc sống hiện tại với nhiều thắc mắc: tại sao các bạn bè con cán bộ quan chức có xe đạp, xe máy để đi học, áo mới để mặc? Các bạn ấy chả bao giờ có vẻ thiếu ăn, luôn trông có da có thịt, riêng con nhà có đạo và con ngụy quân ngụy quyền chúng tôi luôn rách rưới, áo lò xo, quần thủng lỗ chổ, đứa nào cũng gầy còm, đen đủi… đi học mong cho hết giờ về đi làm. Tôi đã không ngừng hỏi bà ngoại và được bà kể cho nghe nhiều chuyện thật hay về cuộc sống trước đây. Mỗi khi kể như thế, bà tôi phải hạ thấp giọng, nói thủ thỉ đủ nghe. Tôi đã quyết tâm tìm hiểu thêm, thế nhưng suốt thời trẻ, tôi chỉ biết được biến cố thống nhất Nam Bắc qua lời kể trực tiếp từ chính những người trong gia đình và các giờ lịch sử ở trường học. Hai nguồn thông tin đều trái ngược nhau: lời kể và sách vở từ nhà trường khiến tôi bối rối. Học được điều gì về lịch sử năm 1975, tôi đều về hỏi lại bà và ba mẹ. Nhờ đấy, tôi nhận ra một điều rằng chả có nhiều sự thật trong các sách giáo khoa tôi được học. Chính người thân yêu trong gia đình tôi, những nhân chứng sống đã xác nhận điều đó. Và tôi quyết định phải tìm hiểu kỹ lưỡng về bối cảnh lịch sử, diễn biến sự kiện năm 1975 ra làm sao và rút ra những kết luận cho cá nhân mình. May mắn hơn là sau này, tôi được tiếp cận và đọc thêm các sách vở hải ngoại để hiểu rằng: Một miền Bắc nghèo khổ đã xóa sổ một nền kinh tế miền Nam tiếp cận được với đời sống khoa học, kỹ thuật hiện đại và phát triển của thế giới. Một nền dân chủ bị xóa sổ khỏi miền Nam để rồi cả dân tộc Việt Nam phải chịu ý thức hệ cộng sản độc tài áp chế. Mọi quyền lợi chính đáng của người dân không được tôn trọng… Những hộ khẩu, khai tạm trú tạm vắng, công an, các tổ chức đảng, đoàn, đội chỉ là những tổ chức theo dõi người dân sát sao, không cho bất cứ ai được tự do đi lại; hoặc kềm kẹp, kiểm soát những ai tỏ ý chống đối. Hiển nhiên, tôi biết rằng trước sau gì, lịch sử sẽ phán xét một cách công bằng, nhưng những người trẻ cần phải tìm hiểu và dành thời gian cho biến cố lịch sử năm 1975 này. Đó là một phương thế giúp hiểu và hành động nhanh chóng hơn trong thời hiện tại. Người trẻ cần làm gì để biến cố ấy không trở thành dĩ vãng chợt nhớ nhợt quên hoặc chỉ để hoài niệm. Nhưng nó phải là một cú hích để người trẻ đưa đất nước đi theo đúng quỹ đạo dân chủ, tự do và phát triển chung trên thế giới, chứ không thể mãi sống trong thể chế độc tài, độc đảng nắm giữ mọi vận mệnh dân tộc với mọi thứ tham nhũng, cửa quyền và chà đạp con người. Nhất Tâm: Tôi chọn thái độ quan sát và tự tìm hiểu các tài liệu liên quan đặng rút ra các bài học cho tương lai. Đây cũng là chủ đề tôi thường xuyên sử dụng làm case study trong các buổi thảo luận với các nhóm bạn trẻ đặng mở ra một góc nhìn toàn diện nhất có thể. Onyx: Mình không nhớ ngày tháng năm hay chi tiết cụ thể và thứ tự xảy ra của các sự kiện lịch sử ra sao. Nhưng mình nhớ sự tò mò lặp lại của mình mỗi lần mình đọc về các chiến công, các anh hùng và các cụm từ miêu tả chiến thắng như "oanh tạc", "lừng lẫy", "vẻ vang" trong sách giáo khoa Lịch Sử. Những câu chuyện và sự tò mò lặp lại đó không vương vấn trong đầu óc mình những tháng năm lớn lên ở Hà Nội vì dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ đi chăng nữa, tốt đẹp hay xấu xa thì mình cũng đang ở đây, lớn lên tại Hà Nội, Việt Nam mà mình biết quý trọng vì được sinh ra. Cho tới khi mình đi du học. Câu chuyện của những người lính Việt Nam Cộng Hòa, của những thanh thiếu niên đang độ đi học, làm việc vì đam mê ở một đất nước cùng tên Việt Nam khác mà mình không hề được biết tới. Những cái tên, những ước mơ, những mảnh đời của những người Việt Nam bị trùm lên bằng những ngôn từ đắng ngắt như "Lính Ngụy", "phản động", "ba sọc" làm mình giận tím người. Giận vì mình bị nói dối và giận vì người lớn không dám nói cho bọn nhỏ mình sự thật. Giận vì hằng năm khi mình và gia đình được nghỉ ở nhà vào ngày 30 tháng Tư thực ra không phải là "Ngày Giải Phóng Miền Nam". Có thể trí nhớ mình không tốt nhưng mình sẽ nhớ lí do tại sao mình giận. Giận và thương.   Vậy nên mình mong các bạn bằng tuổi mình, là lứa sinh sau các xích mích của thể hệ trước, tìm hiểu về những gì đã xảy ra vì câu chuyện sẽ không thể nào đầy đủ được nếu chỉ nghe từ một phía. Nhất là khi cả hai phía đều là người Việt, câu chuyện này càng phải được tiếp cận một cách toàn diện, quang minh hơn. Trung Nguyen: Để tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, tôi luôn cố gắng đọc càng nhiều sách và càng nhiều bài viết càng tốt từ càng nhiều bên tham gia càng tốt để có được cái nhìn đa chiều. Tôi đặc biệt chú trọng đến việc đọc sách của các nhà khoa học như chính trị học, sử học,... vì những người làm khoa học đã được đào tạo để sưu tầm tư liệu và có cái nhìn càng khách quan càng tốt về vấn đề nghiên cứu. Tôi cũng tiếp xúc với càng nhiều người ở tất cả các bên càng tốt để nghe họ kể lại cuộc đời của chính họ. Về sách khoa học thì tôi hay đọc sách của giáo sư Tường Vũ đại học Oregon, giáo sư Lê Xuân Khoa,... Trước đây tôi có đọc nhiều tư liệu trên trang talawas của nhà văn Phạm Thị Hoài, rồi các sách của các bác Bùi Tín, Vũ Thư Hiên,... Sau khi tìm hiểu thì tôi có quan điểm rõ ràng rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam Bắc đi theo hai chủ thuyết chính trị khác nhau, lồng trong đó là cuộc chiến giữa hai khối tư bản (tự do, dân chủ) và khối xã hội chủ nghĩa (độc đảng toàn trị) trên bình diện thế giới. Thảo Nguyên: Tôi chọn thái độ khách quan, tư duy độc lập trong mọi vấn đề khi tìm hiểu về các sự kiện chính trị/lịch sử của Việt Nam. Từ ngày nhỏ đến giờ, tôi không bao giờ tin hết tất cả những gì sách giáo khoa lịch sử viết vì đây là sách do bên thắng cuộc kể lại. Lớn lên khi quan tâm chính trị, lịch sử Việt Nam, tôi đọc nhiều, nghe nhiều những bài phân tích về lịch sử, chính trị từ những thế hệ đi trước đến những chuyên gia, nhà nghiên cứu. Tôi không tin ai hoàn toàn khi chưa tự tìm hiểu, so sánh, đối chiếu để tự đánh giá về tính đáng tin cậy từ những nguồn tin tôi có được. Tôi cho rằng, đôi khi những gì chúng ta nhìn thấy và nghe thấy chưa chắc đã đúng chứ đừng nói đến việc nhận định những vấn đề lịch sử, chính trị xảy ra từ lâu. Do đó, khi đánh giá bất cứ một vấn đề gì, tôi khuyên các bạn trẻ nên tìm hiểu từ nhiều nguồn tài liệu, biết suy nghĩ và hành động độc lập. Nghĩa trang Trường Sơn. Hình minh họa. Trong cuộc trò chuyện này, tôi đã hỏi 6 bạn trẻ bốn câu: một, các bạn có nghĩ giới trẻ nên tìm hiểu về sự kiện lịch sử này không; hai, thái độ của các bạn ra sao trước những phức tạp của vấn đề gặp phải; ba, có nhu cầu hòa giải giữa người Việt với nhau không; bốn, đâu là bài học thích hợp đối với giới trẻ về tiến trình hòa giải cho dân tộc. Phần 1 đã đăng trả lời của hai câu hỏi đầu. Phần này sẽ tiếp tục với hai câu hỏi cuối. Câu hỏi số 3: Vấn đề hòa giải thường được đặt ra vào dịp 30 tháng Tư hàng năm. Theo bạn thì người Việt có nhu cầu hòa giải với nhau không? Cho dầu nếu có nhu cầu thì có thể không, và bằng cách nào? Phần lớn cho rằng Việt Nam có nhu cầu hòa giải, dựa trên sự bình đẳng, và phải đến từ bên thắng cuộc, nhưng thực tế xảy ra thì vẫn là quan hệ kiểu “cai trị” và “bị trị”. Onyx cho rằng không thể có hòa giải gì khi một bên không muốn. Nguyễn biện luận rằng thiện chí phải đến từ phía cầm quyền. Thảo Nguyên thì biện luận rằng khi có tự do dân chủ thì vấn đề hòa giải sẽ được giải quyết. Nhất Tâm cũng chia sẻ quan niệm này, cho rằng sự thật và dân chủ mang tính hệ trọng. Trung Nguyen: Chắc chắn là người Việt có nhu cầu hòa giải với nhau. Thù hận giữa đồng bào với nhau là một gánh nặng trong bản thân mỗi người, gây chia rẽ dân tộc. Một dân tộc chia rẽ là một dân tộc yếu và dễ bị ngoại bang như Trung Cộng lợi dụng như đã từng diễn ra trong chiến tranh Việt Nam. Bản thân đảng cộng sản cầm quyền đã luôn nêu ra khẩu hiệu “hòa hợp, hòa giải" cho thấy bản thân “phe thắng cuộc" cũng cần hòa giải, có điều họ có thực tâm “hòa hợp, hòa giải” hay không thì rõ ràng là chưa. Đầu tiên, để bắt đầu tiến hành quá trình hòa giải thì sự thật cần phải được làm sáng tỏ và công nhận bởi tất cả các bên. Thế nhưng sách giáo khoa lịch sử, các bảo tàng lịch sử ở Việt Nam đều tuyên truyền một cách sai lạc rằng cuộc nội chiến là một cuộc “kháng chiến chống Mỹ cứu nước", rằng Việt Nam Cộng Hòa là “ngụy quân ngụy quyền", ác ôn,... Ông Võ Văn Kiệt khi còn sống đã gián tiếp phủ nhận tuyên truyền của đảng cộng sản cầm quyền khi thừa nhận vào ngày 30/4 có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn. Tại sao “chống Mỹ cứu nước" thành công mà hàng triệu người Việt lại buồn? Tiếp đến, hòa giải cần phải dựa trên cơ sở bình đẳng chứ không phải dựa trên quan hệ “cai trị - bị trị” như hiện nay. Hiện tại thể chế chính trị Việt Nam cho phép một thiểu số cán bộ cao cấp là giai cấp thống trị, các đảng viên cộng sản cấp thấp và người dân là giai cấp bị trị. Hiến pháp hiện hành gọi “giai cấp thống trị” một cách mỹ miều là “lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội". Làm sao có thể có “hòa giải" giữa những người cai trị và những người bị trị? Những người bị trị chỉ có lựa chọn duy nhất là đóng thuế nuôi những người cai trị, chấp nhận để những người cai trị tước đoạt các quyền tự do của mình, tài sản của mình như đất đai, thậm chí cả mạng sống của mình như trong thảm án Đồng Tâm với cái chết cụ Lê Đình Kình. Chỉ có thể chế chính trị dân chủ, đảm bảo quyền tự do và bình đẳng giữa những người Việt Nam với nhau thì khi đó mới có thể có hòa giải thực sự. Khi đó sự thật mới có thể được nói ra, và người Việt tha thứ cho nhau để cùng đi tới, cũng như Nam Phi đã làm được. Ủy ban Sự thật và Hòa giải của Nam Phi đã phải làm hai chuyện, nói ra sự thật, công nhận sự thật, không phải để trả thù nhau mà để tha thứ cho nhau, không còn người da trắng cai trị và người da đen bị trị. Nguyễn: Tôi tin rằng, đằng sau mỗi sự tổn thương là một (vài) nhu cầu chưa được giãi bày. Đó có thể là nhu cầu được nói, được lắng nghe, được chia sẻ, được đòi lại công lý. Cũng có thể là nhu cầu tìm hiểu sự thật lịch sử, thoát ly khỏi những gánh nặng và di sản để lại từ thế hệ cha ông. Tôi không rõ những điều trên có phải là “hòa giải" hay chăng, song tôi tin chắc rằng, chừng nào các nhu cầu (unspoken needs) này không được thỏa mãn, thì chừng đó các bên còn tiếp tục gây tổn thương cho nhau như những gì đã diễn ra 46 năm qua và có thể sẽ còn lâu hơn nữa. Song, thực tế, chúng ta không thể nói đến chuyện hòa giải như một dạng nỗ lực tự thân của từng người trong xã hội. Hòa giải thế nào, khi mà có nhiều ngành nghề, và nhất là tại các cơ quan công quyền, vẫn đang tuyển dụng theo cái cách xét lý lịch ba đời. Hòa giải thế nào, khi sách lịch sử không thừa nhận rạch ròi bản chất của cuộc chiến 1954-1975. Hòa giải thế nào, khi mỗi ngày 30 tháng Tư, khắp Việt Nam lại cờ hoa ăn mừng kỷ niệm ngày “chiến thắng". Thiện chí hòa giải phải bắt đầu từ thái độ của “bên thắng cuộc". Đặng Quân: Suốt 46 năm qua, mỗi khi đến tháng 4, nhiều người lại nói đến việc hòa giải giữa người Việt cộng hòa và cộng sản, làm sao để chung tiếng nói thống nhất, xóa bỏ mọi thù hận, giải tỏa những sóng gió trong tâm hồn và bắt tay nhau giữa người Việt cộng hòa và cộng sản, trong nước và hải ngoại. Nhu cầu đó là có, nhưng tôi không tin nó sẽ thành hiện thực; và nếu có sẽ mất một thời gian dài nữa cho khi các thế hệ sống trước và trong biến cố 1975 đã qua đi, hoặc cho đến khi cộng sản không còn nắm quyền tại Việt Nam thì may ra. Tại sao tôi có ánh nhìn bi quan như thế? Trước hết là những mất mát, đau thương trong và sau biến cố 1975 quá lớn. Và nó kéo dài không chỉ từ biến cố 1975, mà nó là cả quá trình từ khi cộng sản cướp chính quyền từ thập niên 40 ngoài miền Bắc. Các thành phần trí thức, người có Đạo, các đảng phái đối lập từ miền Bắc đã gánh gồng chạy vào miền Nam vì họ đã chứng kiến cuộc thủ tiêu, những sự tinh quái biến báo đủ đường của cộng sản và những người di cư đó hiểu đủ để biết rằng không thể sống với thứ ý thức hệ nguy hiểm này. Tiếp đến là ảnh hưởng từ ý thức hệ cộng sản vốn tự tôn và độc tôn, không hề có chuyện chấp nhận nhau. Đối với người cộng sản chỉ có triệt tiêu bất cứ ai dám cản đường tiến của họ. Họ sẵn sàng dùng mục đích biện minh cho phương tiện… Sau Đức quốc xã thì chính cộng sản là những kẻ diệt chủng không ghê tay. Những Pôn Pốt, Mao, Stalin… đã cho cả thế giới chứng kiến một thứ ý thức hệ hoang tưởng, chưa hề được kiểm chứng, thử nghiệm trong lịch sử. Nó chỉ là những giả định của Max và những kẻ cuồng tín theo nó mà thôi. Lịch sử đã chứng minh ý thức hệ này là quái thai của thời đại; và những kẻ áp đặt ý thức hệ hoang tưởng này lên các dân tộc khốn khổ, chúng là những kẻ ác vì dám đem cả dân tộc làm vật thí nghiệm cho một ý thức hệ chưa hề được thừa nhận là mang lại tốt lành gì cho người dân. Thứ đến là lòng tự tôn sắt đá của người cộng sản. Họ không hề thực lòng muốn hòa giải theo kiểu đồng phẩm giá. Người cộng sản chỉ muốn hòa giải trong tư cách họ là kẻ thắng cuộc. Bằng chứng là sau năm 1975, thay vì rộng lượng tập trung vào các khoa học, kỹ nghệ, phát triển kinh tế có sẵn ở miền Nam; thay vì xóa bỏ thù hận, nhẹ tay với những người cầm súng dưới chế độ Việt Nam cộng hòa, thì trái lại, phe cộng sản đã chụp mũ cho chế độ cũ mọi thứ xấu xa cần loại trừ, gán cho những người miền Nam là tàn dư chế độ cũ. Người cộng sản đã đẩy toàn dân miền Nam về lại con số không bằng cách ly tán các gia đình mà theo họ là ngụy quân, ngụy quyền. Bắt đi cải tạo cả triệu người thuộc chế độ cũ. Các gia đình quan chức, lính cộng hòa bị bắt đi kinh tế mới để nhà cửa lại cho cán bộ cộng sản chiếm ở. Người cộng sản bắt đổi tiền nhiều lần, đánh tư sản để gom vàng của các nhà giàu ở miền Nam… Họ đưa cả nước về lại cái thời kinh tế hợp tác xã hệt trong “trại súc vật”; đã thế còn bế quan tỏa cảng đày đọa người dân cả nước trong đau thương đói khổ, khiến hàng triệu người vượt biên, chết mất xác hàng trăm ngàn người ngoài đại dương. Biết bao thảm cảnh hải tặc cướp bóc hãm hiếp, bão biển, hư tàu trôi dạt, rồi nào là trại tị nạn… Những ký ức tàn độc của phe miền Bắc đó không dễ xóa nhòa trong ký ức của các nạn nhân cộng sản. Chính thái độ xem nhau như kẻ thù của những người cộng sản khiến cho dân tộc mất đi cơ hội hòa giải mà lẽ ra ngay từ những năm sau 75, người cộng sản phải làm; họ đã bỏ lỡ… Tuy là hiện tại chính người cộng sản vẫn kêu gào hòa giải, đoàn kết dân tộc, nhưng mọi thứ chỉ theo kiểu xin cho. Bên thua phải xin được hòa giải, và bên thắng cho phép hòa giải. Như thế thì làm sao có được lòng tin để tiến đến cuộc hòa giải thật sự? Onyx: Mình nghĩ điều này giống như việc trị liệu các cặp đôi (couple therapy) vậy. Cho rằng thế hệ chúng mình là thế hệ sau, giống như con cái của hệ quả một cuộc hôn nhân tan vỡ - chiến tranh Việt Nam, thì dù chúng mình có muốn bố mẹ hòa giải với nhau đi chăng nữa, chỉ cần một phía (bố hoặc mẹ) không muốn nói chuyện với người còn lại, thì việc hòa giải sẽ không xảy ra. Tương tự trong câu chuyện về ngày 30 tháng Tư. Phần lớn những đứa trẻ sinh ra trong một gia đình tan vỡ thường sẽ cố gắng tự hiểu chuyện gì đã xảy ra với tiền thế hệ và tự tạo ra sự kết thúc (closure) của các sự kiện đó trong tâm trí họ. Bằng cách này hoặc cách khác như việc nghĩ bố là người sai, hoặc mẹ là người nên mở lời xin lỗi. Có lẽ Việt Nam Cộng Hòa nên đợi lời xin lỗi, hoặc Miền Bắc Việt Nam nên ngỏ lời làm hòa. Dù hai bên có làm vậy hay không, những thế hệ sau như chúng mình đều đã tự chọn màn hạ màn cho câu chuyện của họ. Một số chọn nghe theo câu chuyện của bố về mẹ, một số chọn nghe theo câu chuyện của mẹ về bố do tính gắn bó của họ với bố hoặc mẹ nhiều hơn. Người sinh ra ở miền Bắc không được tiếp xúc với những người sinh ra tại Việt Nam Cộng Hòa sẽ chọn nghe theo những gì sử sách của bên thắng cuộc nói và ngược lại. Số còn lại chọn khoan dung vì trong câu chuyện có nhiều khúc mắc vì có lẽ họ hiểu rằng không phải người nào, lớn như bố mẹ hay ông bà, cũng sẵn sàng đối mặt với những cảm xúc đau thương hay những điều sai trái họ đã làm. Dù cảm xúc và lí lẽ của cả hai bên đều có lí, mình chấp nhận rằng không ai hoàn toàn biết về toàn bộ sự thật và vì vậy nên mình chấp nhận một hạ màn cho câu chuyện của thế hệ trước trong đầu của mình. Như một cuộc hội thoại thấu cảm giữa hai bên mà chưa bao giờ từng xảy ra hay sẽ xảy ra cho tới khi cả hai phía đều sẵn sàng. Thảo Nguyên: Theo tôi, cần đặt ra vấn đề lớn hơn là làm cách nào để Việt Nam có được một nền tự do thực sự. Bởi vì khi Việt Nam tự do thực sự, nhân quyền được tôn trọng thì lúc đó mọi vấn đề lịch sử sẽ được giải quyết, trong đó có vấn đề hoà giải và hoà hợp dân tộc ở Việt Nam. Nhất Tâm: Mọi người thường nói hòa giải mà ít nói đến điều kiện tiên quyết của sự hòa giải phải bắt đầu từ SỰ THẬT và NIỀM TIN. Trong khi chế độ Cộng Sản đang tồn tại dựa trên sự dối trá thì vấn đề hòa giải rất có thể chỉ là ảo tưởng. Theo tôi người Việt không cần sự hòa giải, chúng ta chỉ cần nhu cầu biết SỰ THẬT một cách công khai. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Việt Nam thực sự có chế độ dân chủ. Câu hỏi 4: Tiến trình hòa giải có dễ dàng hơn cho giới trẻ Việt Nam sinh sau 30 tháng Tư năm 1975? Đâu là bài học hòa giải thích hợp của các dân tộc khác mà giới trẻ Việt có thể tìm hiểu để chuẩn bị tinh thần cho tiến trình này? Tiến trình hòa giải rõ ràng là dễ dàng hơn đối với người trẻ, nhưng đảng cầm quyền cần thực tâm “hòa hợp hòa giải” với nhân dân Việt Nam bằng việc tiến hành dân chủ hóa, theo Trung Nguyen. Nguyễn biện luận rằng phía cầm quyền cần tôn trọng sự thật trong tiến trình hòa giải. Onyx cho rằng giới trẻ sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các cảm xúc mãnh liệt, nên dễ dàng hơn. Nhất Tâm, Thảo Nguyên, Đặng Quân đều nghĩ rằng giới trẻ không cần hòa giải mà cần sự thật, tự do và dân chủ. Trung Nguyen: Người Việt sinh sau 30/4/1975 do không còn trực tiếp trải nghiệm chiến tranh nên sẽ dễ dàng bỏ qua quá khứ, chấp nhận lẫn nhau, chấp nhận sự khác biệt, mở lòng với cả những người lớn tuổi ở cả hai bên. Tuy nhiên, hãy nhìn sang Miến Điện, khi giới quân phiệt muốn lặp lại chế độ độc tài, giới trẻ đã vùng lên biểu tình đòi dân chủ. Khi nhà cầm quyền tắm máu nhân dân thì một số người đã cầm đến vũ khí và khởi nghĩa vũ trang. Miến Điện đang đứng trước nguy cơ rơi vào nội chiến giữa nhà cầm quyền độc tài và người dân, nhất là thế hệ trẻ khao khát tự do dân chủ. Cho nên tôi vẫn mong các lãnh đạo đảng cộng sản cầm quyền hãy chủ động và sáng suốt chuyển sang thể chế dân chủ như nhà cầm quyền da trắng ở Nam Phi đã làm được. Mâu thuẫn lớn nhất trong lòng xã hội Việt Nam hiện tại không phải là giữa “bên thắng cuộc" và “bên thua cuộc" của ngày 30/4/1975 nữa. Mâu thuẫn lớn nhất trong lòng dân tộc hiện tại là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị là đảng cộng sản cầm quyền và giai cấp bị trị là toàn thể người dân Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam cần thực tâm “hòa hợp hòa giải” với nhân dân Việt Nam bằng việc tiến hành dân chủ hóa. Việc níu kéo chế độ độc đảng toàn trị chỉ gây ra tham nhũng, bất công xã hội rộng khắp, thù hận giữa người dân và nhà cầm quyền, và sẽ đẩy dân tộc đến những thảm cảnh không lường trước được trong tương lai cho cả đảng cầm quyền và người dân. Nguyễn: Chắc chắn. Việc gần đây bộ sách giáo khoa lịch sử Việt Nam dần bỏ những cụm từ như “Ngụy quân Ngụy quyền", hay giới báo chí quốc doanh bắt đầu đăng những tin bài thảo luận chuyện “thừa nhận Việt Nam Cộng hòa", hẳn là một chỉ dấu tích cực để có thể mở ra tiến trình hòa giải. Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng, thiện chí phải bắt đầu ở phía chính quyền, từ việc tháo dỡ những khung chính sách và pháp lý mang tính phân biệt đối xử với các gia đình có gốc gác Việt Nam Cộng hòa, cho đến việc điều chỉnh lại nội dung lịch sử theo đúng sự thật, cũng như loại bỏ những nội dung tuyên truyền vốn khoét sâu các rạn nứt trong lòng xã hội bấy lâu. Nhất Tâm: Có thể những thế hệ sinh sau 1975 không trực tiếp trải qua những đau thương, mất mát trong cuộc chiến sẽ dễ dàng hơn trong tiến trình hòa giải. Có rất nhiều bài học tương tự về hòa giải trên thế giới, đơn cử như cuộc nội chiến của Mỹ thường xuyên được đưa ra làm ví dụ. Tuy nhiên, trước khi đến được tiến trình đó cần phải xác định rõ về bản chất cuộc chiến và phải có sự đồng thuận chung về tên gọi. Đó là cuộc “chiến tranh chống Mỹ -Ngụy” như nhà cầm quyền hiện nay tuyên truyền hay là “cuộc nội chiến Bắc Nam”? Để có một tên gọi đúng với bản chất của cuộc chiến thì cần phải có sự minh bạch, trả lại lịch sử về đúng với sự thật của nó trước khi đề cập đến vấn đề khác. Onyx: Khi bị buộc phải đối mặt với những gì mình đã gây ra hay tổn thương mình đã chịu, có lẽ thế hệ trước sẽ khó để ngồi lại và cùng trò chuyện mà không gây thêm những tổn thương mới. Vậy nên giả sử, khi thế hệ trước không còn nữa, lúc đó thế hệ sau soi xét và bàn luận về những câu chuyện trong quá khứ sẽ dễ được tiếp nhận bởi đôi bên hơn. Vì khi này những người trong câu chuyện không còn, việc ghi nhận lỗi hay hàn gắn vết thương sẽ không còn có chủ thể. Khi các chủ thể còn tồn tại thì việc ghi nhận lỗi sẽ được dịch thành "đổ lỗi" và việc hàn gắn vết thương có lẽ sẽ được muốn hiểu thành "bồi thường". Có thể với những người không trong cuộc, là thế hệ sinh sau năm 1975, vai trò người đứng ngoài sẽ quan trọng hơn hết vì chúng mình không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các cảm xúc mãnh liệt hay những diễn thoại của hai chủ thể trong câu chuyện. Khi đó chúng mình sẽ được viết lại lịch sử theo cách nhìn của thế hệ sau, thu thập câu chuyện một cách bao quát và đa chiều hơn. Đặng Quân: Tiến trình hòa giải có thể sẽ hơi dễ dàng hơn cho giới trẻ Việt Nam sinh sau năm 1975. Tuy nhiên, hòa giải là hòa giải giữa hai đối thủ, giữa những người ngày xưa từng cầm súng đối mặt nhau trên chiến trường. Còn bây giờ, có chăng là hòa giải giữa lớp con cháu những người cựu thù chăng? Giới trẻ sau năm 1975 có gì để hòa giải đây? Nên tôi nghĩ thay vì tập trung giới trẻ vào việc hòa giải mà họ không hề có ý thức hoặc nhu cầu cần hòa giải; thì nên tập trung giới trẻ vào việc rút tỉa bài học từ quá khứ giúp cho công cuộc đấu tranh dân chủ, nhân quyền, tự do và công lý, công bằng thực sự trong thời hiện tại. Để giới trẻ nhận biết rằng họ không nên quá hiền lành để bị nhà cầm quyền bắt nạt nữa. Họ cũng không nên làm lơ vận mệnh bản thân và trao tất cả sự quyết định chính trị vào tay những người khác nữa. Giới trẻ cần học và hiểu lịch sử hầu không tin tưởng vào những thông tin một chiều, phó mặc cho nhà cầm quyền đùa giỡn với quá khứ bằng những thông tin dối trá, lươn lẹo gạt gẫm người trẻ. Tuy nhiên, tôi cũng xin nói lên một sự hòa giải lớn giữa các thế hệ già trẻ, bảo thủ và cấp tiến, cộng sản và dân chủ nếu có biến cố nào đấy, tựa biến cố năm 1975, nếu xảy ra ở Việt Nam một lần nữa. Khi đó thực sự rất cần đến những người trẻ có hiểu biết kỹ lưỡng về chính trị, về dân chủ và tự do, để người trẻ biết cùng nhau xây dựng một xã hội mới. Để bước qua những khác biệt và hướng đến tương lai. Muốn thế, giới trẻ trong nước và hải ngoại cần có tấm lòng bao dung, chưa có những rạn nứt sâu xa, để cùng nắm tay nhau mở ra một tương lai chính trị mới cho Việt Nam. Thảo Nguyên: Tôi cho rằng, vấn đề hoà giải không phải là một chủ đề xa lạ, nhưng sẽ không được giới trẻ Việt Nam ưu tiên và quan tâm. Bởi sự kiện 30 tháng Tư năm 1975 đã là quá khứ, hơn nữa, chúng tôi không hề tham dự vào sự kiện này. Nếu có nhắc lại sự kiện này, chỉ là nhắc lại những bài học về sự thành công và thất bại. Tôi cho rằng, giới trẻ hiện nay nên hành động, suy nghĩ độc lập, dũng cảm, biết đột phá, và cố gắng làm mọi thứ để mang lại tự do thực sự cho người dân Việt Nam. Lúc đó, vấn đề hoà giải dân tộc sẽ tự được giải quyết chứ chúng ta không cần phải lật lại lịch sử để giải quyết vấn đề hoà giải. Phạm Phú Khải
......

Truyền hình VTV dốt nát!

  Nguyễn Đình Bổn     Đưa cảnh tượng những người Ấn Độ tắm ở sông Hằng, VTV gọi là Lễ hội... tắm Phật. Quả thật không có sự dốt nát nào nơi mệnh danh là Đài THQG này không từng.   Tập tục tắm sông Hằng là một lễ hội tâm linh lâu đời của người theo đạo Hindu (Ấn Độ giáo), tôn giáo chiếm đa số trong dân số Ấn Độ. Họ xem sông Hằng là một dòng sông thiêng và theo tín ngưỡng Hindu, tắm trên sông Hằng được xem là gột rửa mọi tội lỗi, nước sông Hằng cũng được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ thờ cúng. Uống nước sông Hằng trước khi chết là một điềm lành và nhiều người Hindu đã yêu cầu được hỏa thiêu dọc hai bên sông Hằng và lấy tro thiêu của họ rải lên dòng sông. Chính tập tục này đã làm ô nhiễm sông Hằng nghiêm trọng và không lối thoát, nó cũng là nguyên nhân gây bùng phát dịch cúm đến mất kiểm soát, trở thành thảm họa tại Ấn Độ hiện nay.   Trong khi đó tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của Lễ hội Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Đây thuộc về văn hóa tâm linh của tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới. Nghi lễ này rất quan trọng trong hầu hết các truyền thống Phật giáo và diễn ra rất trang nghiêm, trọng thể. Các vị sư sẽ dùng gáo múc nước thơm tắm lên tượng Phật (thường là hài nhi) do nguồn gốc và ý nghĩa của lễ tắm Phật được bắt nguồn từ sự kiện đản sanh của đức Phật được ghi lại trong kinh điển.   Tuy chưa thể xác định được thời điểm cụ thể của sự xuất hiện Lễ Tắm Phật tại Ấn Độ, nhưng điều chắc chắn là lễ nghi này vốn phát xuất từ Ấn Độ trước khi được lưu truyền đến các quốc gia Phật giáo khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam..   Tuy cùng xuất phát tại Ấn nhưng rõ ràng tắm sông Hằng và tắm Phật là rất khác nhau từ hình thức đến tâm linh, ai cũng có thể biết nếu quan tâm, chỉ có VTV là dốt nát đến không thể tưởng tượng!  
......

Myanmar đứng trước nguy cơ nội chiến

Lý Thái Hùng Cuộc đảo chánh của phe quân đội do Tướng Min Aung Hlaing chỉ huy nhằm lật đổ chính quyền dân sự do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo hôm mồng 1 tháng Hai, 2021 là một sai lầm nghiêm trọng. Tính cho đến nay, cuộc chính biến đã trải qua 60 ngày với 738 người bị lực lượng an ninh bắn chết trong các cuộc biểu tình, 3.300 người bị bắt giữ và có 20 người bị kết án tử hình. Không chỉ thiệt hại về nhân mạng, cuộc đảo chánh còn đang tàn phá nền kinh tế của Myanmar và có nguy cơ dẫn đến nội chiến. Trong 60 ngày vừa qua, phe quân đội không chỉ đẩy xã hội Myanmar rơi vào khủng hoảng toàn diện, mà còn đang đặt thế giới nói chung và nhất là các quốc gia trong khối ASEAN nói riêng trong tình thế “tiến thoái lưỡng nan.” Kết quả Hội Nghị Thượng Đỉnh Khối ASEAN với lãnh tụ phe đảo chánh Myanmar là Tướng Min Aung Hlaing vào chiều ngày 24 tháng Tư, 2021 cho thấy mục đích chỉ là mang tính “trấn an” dư luận. 5 điểm mà Hội Nghị công bố hoàn toàn mang tính “mong ước” của khối ASEAN hơn là những cam kết từ phía phe quân phiệt Myanmar: 1/Bạo lực ở Myanmar sẽ phải chấm dứt ngay lập tức và các bên phải hết sức kiềm chế; 2/Đối thoại mang tính xây dựng giữa tất cả các bên liên quan sẽ bắt đầu tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì lợi ích người dân; 3/Đặc phái viên của chủ tịch ASEAN sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hòa giải tiến trình đối thoại, với sự hỗ trợ của Tổng Thư Ký ASEAN; 4/ASEAN sẽ cung cấp hỗ trợ nhân đạo thông qua Trung Tâm Điều Phối Về Hỗ Trợ Nhân Đạo và Quản Lý Thảm Họa (AHA Center); 5/Đặc phái viên và phái đoàn sẽ thăm Myanmar để gặp tất cả các bên liên quan. Tướng Min Aung Hlaing chỉ đồng ý là “không dùng bạo lực đàn áp” còn những điểm khác thì không có cam kết rõ ràng. Trong khi đó, những cuộc biểu tình của người dân Myanmar vẫn diễn ra tại các thành phố ngay sau khi Hội Nghị ASEAN kết thúc, và đại diện Chính Quyền Thống Nhất (NUG) gồm những nghị sĩ đã được bầu trong kỳ bầu cử vào tháng Mười Một, 2020 đưa ra bốn yêu sách cho phe quân phiệt phải thi hành thì mới tham dự cuộc đối thoại. Bốn yêu sách gồm: 1/Phục  hoạt các nhà lãnh đạo và nghị sĩ đã được bầu trong cuộc bầu cử tháng Mười Một, 2020; 2/Chấm dứt bạo lực đối với người dân; 3/Rút tất cả quân đội và cảnh sát ra khỏi đường phố; 4/Trả tự do ngay tức thời những tù nhân chính trị. Biết là một mình khối ASEAN không thể nào giải quyết cuộc chính biến tại Myanmar và những vấn đề của khu vực, nên Hội Nghị Thượng Đỉnh cũng đã chỉ thị cho các Bộ Trưởng Ngoại Giao của Khối ASEAN tổ chức các cuộc  họp giữa họ với Trung Quốc và Hoa Kỳ để thảo luận về những biện pháp “khẩn cấp” trước Hội Nghị Bộ Trưởng ASEAN lần thứ 54. Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN cho thấy là vấn đề Myanmar vượt tầm giải quyết của khối ASEAN, mà phải trở thành một hội nghị quốc tế vì hiện có năm tác nhân ảnh hưởng lên các quyết định về tương lai của cuộc chính biến này. Thứ nhất là phe quân đội đang nắm giữ quyền kiểm soát toàn thể đất nước Myanamar – không chỉ là cá nhân Tướng Min Aung Hlaing, mà cả một tập đoàn dưới danh xưng Lực Lượng Vũ Trang Myanmar (Tatmadaw), với một hội đồng gồm 15 tướng lãnh nắm về Quốc Phòng, Ngoại Giao, Nội An, Đầu Tư, Kinh Tế & Thương Mại. Tập đoàn quân phiệt này còn có sự hậu thuẫn của Đảng Đoàn Kết và Phát Triển Liên Bang Myanmar (USDP) là đảng cầm quyền trước đây do quân đội thành lập trước khi chấp nhận sự tham chính của Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ (NLD) do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo năm 2011. USDP được coi là lực lượng chính trị của phe quân đội, nơi quy tụ những tướng lãnh sau khi về hưu. Đảng USDP không được quần chúng ủng hộ và liên tục bị mất phiếu trong cuộc bầu cử năm 2015 và 2020 nên vì thế đã hợp tác với phe quân đội để thực hiện cuộc đảo chánh vừa qua. Ngoài ra, phe quân đội còn độc chiếm hầu hết các nguồn lực kinh tế của Myanmar qua các công ty khai thác  dầu khí, đá quý, quặng mỏ, viễn thông, sản xuất bia, nước ngọt, thực phẩm và cả những cửa hàng bán các sản phẩm cao cấp. Nhờ nắm giữ các nguồn lực kinh tế, phe quân đội đã có những hợp tác chặt chẽ về đầu tư và thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Việt Nam, Thái Lan và vì vậy mà những quốc gia này đã không có thái độ phản đối mạnh mẽ về cuộc đảo chánh vừa qua. Trong khi đó, Hoa Kỳ, Canada và EU đã áp đặt các lệnh cấm vận thương mại và đầu tư tại Myanmar. Thứ hai là lực lượng chống đối lại phe đảo chánh quy tụ mọi thành phần tôn giáo, sắc tộc và các đảng phái tại Myanmar với phong trào bất tuân sự đã khiến cho phe quân phiệt điêu đứng và mọi sinh hoạt xã hội bị tê liệt. Myanmar có 135 sắc tộc khác nhau nhưng có 5 sắc tộc lớn gồm người Bmar, Shan, Hayin, Rakhine, Kachin liên kết với nhau và có sự hậu thuẫn của các tổ chức vũ trang chống chính quyền như Lực Lượng Độc Lập Kachin, Liên Minh Quốc Gia Karen, Quân Đội Arakan, Quân Đội Giải Phóng Ta’ ang, Quân Đội Liên Minh Dân Chủ Myanmar. Nhờ có 5 năm (2015-2020) sống trong bối cảnh dân chủ dưới sự lãnh đạo của bà Aung San Suu Kyi, các tổ chức xã hội dân sự đã phát triển đa dạng, vì vậy mà khi những đoàn thể như Nghiệp Đoàn Lao Động Tự Do Myanmar, Hội Công Thương Myanmar, Liên Hiệp Sinh Viên Tự Do Mynamar, Nghiệp Đoàn Taxi cùng với giới trẻ tham gia trong Liên Minh Trà Sữa vận động mọi người không đi làm, không đi học, không buôn bán… đã có được sự hưởng ứng rộng rãi. Phe quân đội đã cho cảnh sát đến uy hiếp những chủ công ty, ngân hàng, tiệm ăn, bệnh viện và ép phải mở cửa cũng như kêu gọi nhân viên trở lại làm việc, nhưng tất cả đều không ai thi hành và chấp nhận bị bắt. Hiện nay, Chính Quyền Thống Nhất (NUG) được coi là tiếng nói đại diện chính thức của phe quần chúng chống đối, đa số những người lãnh đạo đang ẩn náu ở vùng biên giới Thái Lan, và Tokyo là nơi mà NUG đặt văn phòng liên lạc ngoại giao một cách bán chính thức. Thứ ba là Khối ASEAN, vốn là một tập hợp dựa trên sự hợp tác “tự nguyện” của mỗi thành viên, nên đã bị phân hóa trầm trọng sau khi cuộc chính biến Myanmar xảy ra. Các quốc gia có nền tảng sinh hoạt dân chủ như Malaysia, Singapore, Indonesia thì không chấp nhận hành động “đảo chánh” của Tướng Min Aung Hlaing, đòi hỏi phe quân phiệt phải trả tự do cho những người lãnh đạo của NLD đang bị giam giữ một cách vô điều kiện, và phải mở cuộc đối thoại với bà Aung San Suu Kyi để giải quyết vấn đề. Trong khi đó, những quốc gia độc tài như Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam thì cho rằng ASEAN nên áp dụng nguyên tắc “không can thiệp nội bộ,” tức là ASEAN không can thiệp vào cuộc chính biến. Tuy nhiên, khi phe quân phiệt sử dụng bạo lực bắn vào đoàn người biểu tình và hàng ngàn người phải chạy ra biên giới Thái Lan và Ấn Độ để lánh nạn, chính quyền Singapore, Malaysia, Indonesia nhìn thấy nguy cơ bất ổn chính trị trong khu vực nên đã yêu cầu ASEAN phải có một hành động nào đó để ngăn chặn phe quân đội phải chấm dứt bạo lực và mở ra các cuộc đối thoại. Áp lực mạnh mẽ của ba chính quyền Singapore, Malaysia và Indonesia đã dẫn đến Hội Nghị Thượng Đỉnh Khối ASEAN hôm 24 tháng Tư; nhưng lãnh đạo của ba quốc gia có khuynh hướng không muốn “can thiệp nội bộ” gồm Thái Lan, Lào, Philippines đã lấy lý cớ “tình hình dịch Covid-19 đột biến” nên không tham dự. Điều này cho thấy là chính trong nội bộ Khối ASEAN đã không đồng nhất cách nhìn về cuộc chính biến thì làm sao có thể đưa ra được biện pháp giải quyết rốt ráo vấn đề Myanmar. Thứ tư là các quốc gia Trung Quốc, Nga, Ấn Độ hiện không chỉ là những đối tác thương mại lớn, mà còn có rất nhiều dự án đầu tư tại Myanmar thông qua sự liên doanh với các tập đoàn kinh tế của phe quân đội. Mặc dù phe quân đội có thái độ “cảnh giác” đối với các dự án đầu tư của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc hiện nay là nước cung cấp nhiều cơ hội kinh doanh cho các tập đoàn kinh tế của quân đội như khai thác đá quý, gỗ, quặng mỏ và nhất là đá hiếm dùng cho công nghệ cao.  Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang lên kế hoạch hợp tác với các công ty quân đội để thực hiện 38 dự án hạ tầng cơ sở với tổng số vốn dự trù là 100 tỷ Mỹ Kim. Trong khi đó, Nga bán vũ khí cho phe quân đội Myanmar. Nga đã cung cấp cho Myanmar hệ thống tên lửa đối không Pantsir S1, máy bay không người lái giám sát Orlan-10E và thiết bị Radar trị giá 14,2 triệu Mỹ Kim vào đầu năm 2021. Vì những quan hệ như vậy, ba quốc gia này không coi cuộc chính biến hôm mồng 1 tháng Hai là “đảo chánh” mà gọi đó là “cuộc cải tổ nội các.” Thậm chí trong Ngày Quân Lực Myanmar hôm 27 tháng Ba, ba quốc gia này cùng với Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia đã cử đại diện tham dự, nhưng đã hoàn toàn im lặng về sự kiện 50 người biểu tình bị quân đội tàn sát ngay trong cùng ngày. Không những thế, Nga và Trung Quốc còn là hai thành viên trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã chống đối những Nghị Quyết của Liên Hiệp Quốc trừng phạt phe quân phiệt Myanmar. Thứ năm là Hoa Kỳ, Canada và các quốc gia EU đã lên tiếng chống đối cuộc đảo chánh một cách mạnh mẽ và đòi phe quân đội phải trả tự do cho những người lãnh đạo của NLD đang bị bắt giữ, và tôn trọng kết quả cuộc bầu cử tháng Mười Một, 2020. Hiện nay, Hoa Kỳ và nhiều quốc gia đã đưa ra một số biện pháp trừng phạt nhắm vào một số tướng lãnh và 4 công ty thương mại do quân đội làm chủ; nhưng do sự ngăn chặn của Nga và Trung Quốc mà Liên Hiệp Quốc chưa có thể ban hành một Nghị Quyết trừng phạt mạnh mẽ mang tính toàn cầu. Hiện nay, phe quân phiệt Myanmar dựa vào sự “hậu thuẫn ngầm” của Trung Quốc và Nga để né tránh mọi cuộc đối thoại với đại diện Liên Hiệp Quốc, kể cả việc  không cho đặc sứ của Liên Hiệp Quốc vào Myanmar để thị sát tình hình. Do đó mà các đòn trừng phạt hiện nay của Hoa Kỳ, Canada, EU chỉ mang tính chất lên án và cô lập phe quân đội đối với dư luận phương Tây mà thôi. Điểm qua những ảnh hưởng của 5 tác nhân: 1/Phe quân phiệt Myanmar; 2/Các Lực lượng phản kháng Myamar; 3/Khối ASEAN; 4/Trung Quốc – Nga – Ấn Độ; 5/Hoa Kỳ – Canada – EU cho thấy là vai trò của Khối ASEAN và Hoa Kỳ – Canada – EU rất quan trọng trong việc ngăn chặn phe quân phiệt  Myanmar áp dụng lại bài bản cũ của thập niên 90. Đó là dựa vào Trung Quốc để tự cô lập và cắt đứt mọi quan hệ giữa xã hội Myanmar với bên ngoài. Nhưng phe quân phiệt sẽ không thành công: Thứ nhất là 54 triệu dân Myanmar đã thấy giá trị của tự do, dân chủ trong 5 năm (2015-2020) khi Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ (NLD) cầm quyền khác rất nhiều với những năm tháng bị khống chế dưới thể chế quân phiệt từ năm 1962 đến 2010. Vì thế mà làn sóng tham gia những cuộc biểu tình dưới hình thức bất tuân dân sự hiện nay đang lan tỏa khắp các thành phố một cách liên tục trong hơn 60 ngày qua. Ngoài ra, một áp lực đáng kể cho phe quân đội Myanmar lần này là các lực lượng quân sự của những sắc tộc Karen, Kachin, Ta’ang, Shan… đã cam kết hậu thuẫn và bảo vệ người biểu tình một khi bị đàn áp. Thứ hai là độc tài chỉ tồn tại khi mà xã hội hoàn toàn bị bưng bít. Chính Internet và mạng xã hội ngày nay đã không chỉ mở toang cánh cửa thông tin, dù phe quân phiệt tìm cách ngăn chặn hay kiểm duyệt, mà còn là mạch nước ngầm nối kết các khát vọng, các chương trình hành động giữa những nhóm, phong trào ở mọi nơi trong cũng như ngoài Myanmar. Sự kiện trong 3 tuần lễ từ đầu tháng Ba, phong trào phản kháng Myanmar đã quyên góp gần 10 triệu Mỹ Kim nhằm hỗ trợ cho các chi phí biểu tình, cứu giúp các gia đình nghèo cho thấy phe dân chủ Myanmar có sự tổ chức và chuẩn bị đấu tranh đường dài. Với những diễn biến nói trên, tình hình sẽ có thể dẫn đến nội chiến trong lòng xã hội Myanmar. Vấn đề còn lại là khối ASEAN phải đồng hành cùng Hoa Kỳ, Canada, EU và một số quốc gia Á Châu như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, vượt ra khỏi khuôn khổ của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đang bị Nga và Trung Quốc ngăn chặn, để tiến đến việc tổ chức một hội nghị quốc tế với sự tham sự của phe quân phiệt và Chính Quyền Thống Nhất của phe dân chủ Myanmar thì mới có hy vọng thay đổi cục diện tồi tệ hiện nay. Lý Thái Hùng XEM THÊM: Con đường dân chủ chông gai của Miến Điện    
......

Chuyện thật nhưng tưởng như đùa: Hướng dẫn ứng cử viên viết tiểu sử và chương trình hành động

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân Ông Bùi Văn Cường, Tổng Thư Ký Quốc Hội CSVN vừa họp báo cho biết là Hội Đồng Bầu Cử đã thiết lập xong danh sách các “ứng viên” đại biểu quốc hội khóa XV gồm có 868 người trong đó trung ương giới thiệu 203 người, địa phương giới thiệu 665 người. Nếu không gì thay đổi vào giờ cuối thì danh sách này sẽ đưa cho 184 đơn vị trên toàn quốc bầu chọn ra 500 đại biểu của Quốc Hội khóa XV vào ngày 23 tháng Năm, 2021. Trong danh sách nói trên, ông Bùi Văn Cường đã “quên” báo cáo là có bao nhiêu người ngoài đảng tham gia ứng cử – có đạt được con số từ 25 đến 50 người như bà nguyên Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân loan báo hôm đầu tháng Hai, 2021 khi bắt đầu chuẩn bị danh sách ứng cử. Ông Cường chỉ báo cáo là có 9 người “tự ứng cử” không qua giới thiệu của các đoàn thể ngoại vi của đảng CSVN. Nhưng điều đáng nói ở đây là hôm 24 tháng Tư vừa qua, Hội Đồng Bầu Cử tại TP.HCM đã thực hiện “màn kịch” có một không hai: Tổ chức hướng dẫn người ứng cử đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân thành phố viết tiểu sử và chương trình hành động. Chuyện mới nghe qua tưởng như đùa nhưng lại là chuyện có thật. Trong cuộc họp có mặt các viên chức cao cấp của thành phố, Nguyễn Thị Quyết Tâm, nguyên Phó Bí Thư thành ủy đã đứng ra hướng dẫn các ứng cử viên xây dựng chương trình hành động sao cho đúng tầm, đúng chức năng nhiệm vụ. Phần viết tóm tắt tiểu sử được Sở Nội Vụ hướng dẫn, nhắc nhở ứng viên phải  ghi nguyện vọng ứng cử tại đơn vị bầu cử. Tuy nhiên có những chi tiết xét ra rất cần nhưng lại không được nói tới, nhất là sự liên hệ giữa sinh quán, tình trạng cư trú tại địa phương nơi ứng cử viên nộp đơn ứng cử. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội khoá XV, người ta cũng không thể giải thích được tại sao Thủ Tướng Phạm Minh Chính người Thanh Hóa lại được đảng giới thiệu về ứng cử tại thành phố Cần Thơ. Dĩ nhiên cử tri Cần Thơ đa số chưa hề biết Phạm Minh Chính là ai, nhưng đến ngày cứ nhắm mắt bỏ phiếu vì ông Chính được đảng sắp xếp giới thiệu, tất nhiên phải đắc cử. Phải chăng đây là lý do mà Hội Đồng Bầu Cử bày ra trò “hướng dẫn” viết tiểu sử và chương trình hành động của ứng viên cho phù hợp với nhu cầu của từng địa phương. Thông thường trong một xã hội tự do dân chủ, công dân muốn ra ứng cử vào một trách vụ gì, nhất là các trách vụ đại diện dân như đại biểu quốc hội ở cấp trung ương hay nghị viên thành phố ở cấp địa phương, họ đều phải biết hai điều căn bản: 1/ Biết người dân trong khu vực bầu cử đang quan tâm điều gì nhất. Một ứng cử viên có tâm huyết, muốn phục vụ dân tất nhiên phải hiểu rõ tâm tình và nguyện vọng người dân trong đơn vị mình ứng cử mới có thể đáp ứng và tranh đấu trước nghị trường; 2/ Ứng cử viên phải biết nói những gì hợp với lòng dân để người dân trong khu vực mình muốn đại diện bỏ phiếu cho mình. Từ hai nền tảng này người ứng cử sẽ tìm hiểu tâm lý cử tri và thảo ra một chương trình hành động chi tiết để trình bày, thuyết phục cử tri, kể cả lúc tranh luận với những ứng cử viên khác mà không cần phải có chính quyền hướng dẫn. Nhưng những cuộc bầu cử như bầu cử quốc hội ở Việt Nam thì khác, tuy được tuyên truyền là tự do dân chủ hơn nhiều nước. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người dân quan tâm đến cái gì nhất ứng cử viên không cần biết, mà đảng muốn gì mới là điều quan trọng. Câu khẩu hiệu mà chế độ thường hay dùng là “lòng dân – ý đảng” như một câu thần chú được sử dụng mỗi khi đảng muốn vận động người dân vào một việc gì đó. Vì thế để ứng cử viên nói và hành động đúng nhất điều đảng muốn, nên mới sinh ra màn Mặt Trận Tổ Quốc đề cử ứng cử viên theo mô hình “hiệp thương.” Tức là các đoàn thể của đảng sẽ ngồi lại với nhau bàn bạc, dàn xếp bên trong hậu trường, để chọn lọc những ứng viên dễ bảo hầu đóng đúng vai trò mà đảng muốn. Và sau khi danh sách ứng viên đã được xác định, các ứng viên này phải bảo đảm ăn nói làm sao cho đúng ý đảng nên  đảng phải bày ra trò “dạy kèm” là hướng dẫn cách viết tiểu sử và chương trình hành động, để chứng tỏ với người dân là mọi thứ đều có đảng và nhà nước lo. Tóm lại, việc đảng tổ chức  “tập huấn” cho các ứng viên đại biểu quốc hội cách viết tiểu sử và chương trình hành động, thêm  một lần nữa cho thấy đảng CSVN đã rất tốn công sức và tiền bạc để biến 500 đại biểu quốc thành một dàn hợp xướng theo ý đảng cần, quả là sự kỳ công. Và sự kỳ công này chỉ có dưới thiên đường xã hội chủ nghĩa mà thôi. Phạm Nhật Bình  
......

Màu của linh hồn

Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưa, nay là công viên Lê Văn Tám, trước khi giải tỏa thành công viên cũng là nơi dung nhận nhiều hài cốt quân nhân VNCH nhacsituankhanh Vô tình xem được một buổi trò chuyện của thầy Thích Pháp Hòa, vào cuối năm 2020, có một người đưa lên câu hỏi rằng chuyện nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói chuyện được với hồn ma, và đã từng giúp tìm được hàng ngàn hài cốt, vậy chuyện ấy là như thế nào. Sau đó, mọi người được một tràng cười. Mọi thứ ngỡ là quá khứ xa lắm, phút chốc dội về với bao nhiêu thứ. Chuyện một phụ nữ tuyên bố mình có khả năng nhìn thấy một cõi khác, có thể can thiệp và cứu giúp sự tồn tại trong hai thế giới cùng lúc, có thể là chuyện thú vị trà nước, nhưng cũng được nhìn thấy như một sự thao túng tiến trình sống thực tế của con người bằng những điều huyễn hoặc. Nó giống như việc các nhà triết học viễn mơ đưa ra lý thuyết đi về một xã hội cộng sản ở một cảnh giới nào đó, xa lắm nhưng lại thao túng con người ở xã hội đương thời với từng ngày, từng giờ, buộc phải đi đến. Bà Hằng từng là nhân vật showbiz hạng nhất của xã hội Việt Nam từ giai đoạn 2009 đến 2013, đỉnh cao là những chương trình truyền hình theo chân bà, gọi là tìm hài cốt liệt sĩ. Hàng triệu người đã khóc cười, ngã nghiêng theo các điều được ca ngợi là kỳ diệu của bà, cho đến khi show truyền hình của đài VTV, có tên “Trở về từ ký ức” bất ngờ nói ngược lại mọi thứ, nói tất cả là một trò lường gạt của bà Hằng. Thậm chí các mẫu xương cốt tìm được, có sự xác nhận của Viện Pháp y Quân đội là toàn xương chó, mèo, heo. Có vẻ như show truyền hình ấy đã theo chỉ đạo, kết thúc giai đoạn tôn vinh và sử dụng bà Hằng vì lý do nào đó, đặc biệt vào thời điểm có tin các nhóm sinh hoạt thờ ông Hồ Chí Minh có ước muốn bà trò chuyện với ông ở cõi âm. Và dù là bị tố là lừa gạt, và xúc phạm đến hài cốt bậc lão thành cách mạng như Phùng Chí Kiên, lại không thấy bà bị khởi tố, thậm chí bà cũng chẳng đưa ra lời giải thích nào. Thật lạ. Một lần trả lời phỏng vấn vào năm 2010, bà Hằng khi được hỏi là ngoài việc thấy các linh hồn liệt sĩ, bà còn thấy gì khác không, bà nói là thấy mọi thứ, kể cả thấy nhiều linh hồn lính Ngụy chết, sợ sệt và mặc cảm vì mình là kẻ có tội. Vào năm tháng đọc được phần trả lời ấy, tôi nhớ rõ mình bật cười khan, vứt tờ báo sang một bên, từ chối nghe mọi sự thao túng của bà ta từ các câu chuyện huyền diệu được xưng tụng. Ối Hằng ơi là Hằng! Trong bài “Chuyện chưa kể về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng”, xuất hiện ở nhiều báo nhà nước, có đoạn nghe mà buồn nôn. Bà Hằng kể là khi đi tìm mộ liệt sĩ ở công viên Lê Thị Riêng, Sài Gòn, bà thấy một linh hồn lính Ngụy muốn nhờ bà nhắn giùm với gia đình, nhưng không dám vì luôn e sợ các liệt sĩ bộ đội chôn ở gần đó. Trong một đoạn khác mô tả đi tìm mộ ở Bình Định, bà Hằng dành hẳn một đoạn kể là bọn Mỹ Ngụy ngày xưa ác lắm, mổ bụng moi gan một người trong làng và đóng đinh treo lên cây. Và còn mô tả là bà nhân đức nên thắp hương cho lính Ngụy nhưng “người trong làng xô ra không cho thắp”. Lời mô tả rập khuôn sách giáo khoa dạy căm thù. Thậm chí mô tả là dân làng nhắc đến Mỹ Ngụy là giận đến mức muốn lấy đá, búa… dần xương cốt của chúng được tìm thấy, may mà bà can ngăn. Cuối cùng, linh hồn một anh lính Ngụy dắt bà đến chỉ chỗ một hài cốt bộ đội, và trong bài ghi chép ấy kể như sau: Hằng bảo với dân làng: “Vậy là anh ta đã lấy công chuộc tội rồi, mọi người không nên căm thù nữa nhé!”. Trong cảnh giới tâm linh của bà Hằng, rõ ràng linh hồn có màu: Màu cách mạng, màu Mỹ Ngụy và màu nhân ái cao cả của tinh thần chủ nghĩa cộng sản. Có thể bà Hằng rất giỏi chuyện tâm linh, có thể bà nhìn thấy được cõi âm, nhưng khả năng ấy cúc cung phục vụ cho định kiến, cho chính trị, nên mọi thứ của bà đọng lại, cũng chỉ là một loại tà quyền, hay tệ hơn, là tay sai của tà quyền. Có thể nhờ những công lao tạo dựng rõ cảnh trí “địch-ta” đó ở khung cảnh đại vĩ tuyến, mà bà Hằng bình an vô sự, thậm chí hôm nay vẫn nhận lời đi tìm hài cốt và diễn thuyết tự tin ở chùa Hoằng Pháp. Một ngày cuối tháng 4, gợi nhớ giờ phút kết thúc một cuộc chiến nhưng không phải là thôi những cái chết oan khiên trên đất nước Việt Nam. Rồi nhớ đến chuyện của nhà ngoại cảm quốc doanh Phan Thị Bích Hằng, nên tự hỏi, có bao giờ bà lắng nghe những linh hồn thanh niên miền Bắc chết vô danh trên những chiếc võng ở dãy núi Trường Sơn, chết ngậm ngùi ở đồi Charlie, hay bà có nghe thấy lời của cô gái Đặng Thùy Trâm, chết mang theo một giấc mơ hòa bình thiếu nữ, vùi thân trong một cuộc chiến tranh khốc liệt mà không thể hiểu được, phía sau tiếng súng cuối cùng ấy, là gì? Tuấn Khanh    
......

Nỗi buồn nước Việt!

Phạm Minh Vũ   Nếu ai có về dọc bờ biển VN thì mới thấy, cảnh thuyền thúng úp phủ lên đầy lớp bụi cát, những con thuyền neo đậu chưa hẹn ngày ra khơi.   Những ai đã từng lên Sapa, Đà Lạt hay Phú Quốc trước đây, thì bây giờ, chắc có lẽ sẽ thất vọng khi những công bạt ngàn những cánh rừng thông hay bãi cát trắng xinh đẹp đều bị băm nát, bị khoanh vùng, họ cắm lên đó những khu nghỉ dưỡng mà phục vụ cho tầng lớp có tiền.   Ta đi ngang qua những vùng đất canh tác lâu đời của những người nông dân, trong đó Dương Nội, vườn Rau Lộc Hưng, Long Hưng Thủ Thiêm và mới nhất là Đồng Tâm là điển hình để thấy, một đống tang thương vây bám những mảnh đời những số phận con người sinh ra và lớn lên trong một xã hội, mà nơi đó thể chế chính ra trị ngang nhiên xua quân về nổ súng sát hại dân lành để cướp đất. Một điều khủng khiếp với xã hội văn minh mà trở thành như đặc sản của đường lối và chính sách của đảng cộng sản.   Thuyền úp thúng bởi vì các nhà máy độc hại mọc lên, ngang nhiên xả thải chất độc dân kêu cứu nhưng quan thì làm ngơ. Vụ xả thải Formosa (Hà Tĩnh) hay xỉ than Vĩnh Tân (Bình Thuận) cũng là những nguyên nhân cắt ngang chén cơm của ngư dân. Trong đó thêm một nguyên nhân, là nhiều ngư dân cũng lo sợ khi họ ra khơi bị “tàu lạ” cướp và đâm chìm và kể cả sát hại trong vùng biển thuộc chủ quyền VN, nhưng phía nhà cầm quyền không có động thái bảo vệ nào.   Biển hết, rừng núi đã cạo trọc, đại đa số nhân dân VN bị đẩy vào một con đường nơi đó cửa vào là cửa tử và lối thoát đã bịt kín.   Những ngày này, người ta thấy cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, đầy đường, để phơi bày cho thiên hạ thấy cái vĩ đại của “đảng ta” vì có công “giải phóng” và đuổi Mỹ.   Nhưng, hình ảnh mà nhân dân Móng Cái hoá thân thành cửu vạn để xếp hình hài chữ S như thế thì đảng lại giấu giếm. Không có sự vĩ đại nào hay tự hào ở đây!   Một chế độ đã dùng sự cai trị bằng nhà tù và bạo lực, ngang nhiên cướp đoạt tất cả tải sản quốc gia để làm giàu cho một nhóm người đảng viên. Còn nhân dân thì khổ ải nghìn trùng mà không một sự vĩ đại nào đoái hoài tới.   46 năm qua, ngày cuối tháng 4 có thể là ngày “giải phóng” của bên thắng cuộc, ngày giang sơn thu về một mối, nhưng cho tới bây giờ, Nam-Bắc đều chung một mối tủi hờn. Người VN nào nhìn hình ảnh này, liệu có dám tự tin rằng VN là một quốc gia vĩ đại?   Gia sản của quan thật vĩ đại thì đúng hơn...!
......

Thấy gì qua chuyến đi của ông Phạm Minh Chính đến Jakarta?

Jackhammer Nguyễn| Chuyến công du nước ngoài đầu tiên của tân thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Minh Chính, không phải là Trung Quốc, hay Nhật Bản, Hàn Quốc, mà là Indonesia. Ông Chính bay qua Jakarta, dự hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp của khối Đông Nam Á (ASEAN) về Miến Điện. Kết quả của hội nghị này không ngoài dự đoán của mọi người, tướng Min Aung Hlaing đang cầm quyền ở Miến Điện, đồng ý sẽ thương lượng với các nhóm đối lập, các nhóm dân chúng ủng hộ chính quyền dân sự hợp pháp bị ông ta lật đổ và bắt giam vào ngày 1/2/2021. Với nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào chuyện nội bộ của các nước thành viên ASEAN, kết quả hiển nhiên phụ thuộc vào “đương sự” Min Aung Hlaing mà thôi. Đương sự có thương lượng hay không thì hồi sau sẽ rõ. Dĩ nhiên như thường lệ, báo chí Việt Nam nói rằng, Việt Nam có sáng kiến này sáng kiến kia. Lần này, khổ thân ông Chính là không có gì để nói, nên báo chí Việt Nam bèn tung ra chủ đề vô thưởng vô phạt: Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị ASEAN phối hợp tìm giải pháp cho Myanmar. Rõ khổ, không phối hợp tìm giải pháp thì họp với nhau để làm gì! Các ông tướng Thái Lan có quan hệ mật thiết với các ông tướng Miến Điện (Tướng Min Aung Hlaing là con nuôi của tướng Prem Tinsulanonda, cựu thủ tướng Thái vang bóng một thời), nhưng lãnh đạo Thái còn không thèm tới, vì có mặt họ, kết quả cũng như thế mà thôi. Chuyện ông Chính đi xuất ngoại là một biểu hiện của quyền lực chính trị nội bộ đảng cầm quyền tại Việt Nam, hơn là một sự cần thiết đối ngoại với các lân bang, càng ít hơn đối với việc giải quyết khủng hoảng Miến Điện, nơi nhiều công ty Việt Nam đang làm ăn với quân đội Miến (dĩ nhiên Việt Nam cũng chẳng mong Miến Điện rối loạn để yên ổn mà làm ăn). Chuyến đi cũng khẳng định với các nước láng giềng rằng, nhân vật quyền lực ở Việt Nam là ông Chính (không tính ông Trọng hiện nay, mà khả năng ông Trọng về vười sớm cũng rất cao) chứ không phải ông Phúc, hiện là Chủ tịch nước, chức vụ có tính cách lễ nghi khi ai đó viếng thăm Hà Nội. Ông Phúc đã đi mòn chân khắp các thủ đô Đông Nam Á rồi, ông rất quen Đông Nam Á, nhưng bây giờ với vai trò lễ nghi, ông sẽ nghỉ ngơi cho tới lúc vui thú điền viên. Chuyến đi cũng báo hiệu cho các nhân vật ngoại giao chuyên nghiệp của Việt Nam rằng, thủ tướng cũng không xa lạ gì với chuyện ngoại giao, vì ông Chính từng làm công an trong tòa đại sứ Việt Nam tại Bucharest, nước Romania. Một chuyến xuất ngoại của nguyên thủ cộng sản Việt Nam có khi cũng chỉ là … đến hẹn lại lên cho có phần. Chẳng hạn như chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng hồi năm 2015. Các tin lan truyền trong giới thạo tin vào lúc đó là chính phủ, quốc hội, chủ tịch nước đều đã đi Hoa Kỳ thì cũng phải cho bên … đảng đi chứ! Hóa ra chuyến đi rất có hiệu quả, mặc dù làm cho các viên chức lễ tân Hoa Kỳ chạy đôn chạy đáo tìm người thích hợp để đón ông Trọng vì ở Mỹ không có tổng bí thư. Nhưng nói đi thì cũng nói lại, nơi nào để tân thủ tướng Việt Nam xuất ngoại hay nhất trong lúc này ngoài Jakarta? Nơi đây phù hợp nhất với chính sách đu dây của Việt Nam và Đông Nam Á giữa hai siêu cường Mỹ và Trung Quốc. Nếu không có khủng hoảng Miến Điện, có thể ông Chính cũng sẽ chọn một thủ đô Đông Nam Á nào đó để đến. Theo báo chí Việt Nam, những cuộc điện đàm ngoại giao đầu tiên ông Chính thực hiện trên cương vị thủ tướng là với các đồng sự Lào và Cambodia. Câu hỏi đặt ra là, tại sao tình hình biển Đông đang căng giữa Bắc Kinh và Hà Nội, mà ông Chính không làm việc với phía Trung Quốc để giải quyết, vì ông được (bị) tiếng là có nhiều quan hệ thân mật với các viên chức Trung Quốc? Thật ra ông Chính ở Hà Nội phải khác ông Chính ở Quảng Ninh ngày xưa, cũng như khác với ông Chính đặc khu chứ. Riêng chuyện đặc khu thì tôi cũng hy vọng là ông Chính khác hẳn sau khi chứng kiến cả trăm ngàn người Việt Nam biểu tình chống dự luật đặc khu vào năm 2018. Cuối cùng, chuyến đi của ông Chính cũng khẳng định một lần nữa thói quen ngoại giao Việt Nam trong vấn đề Trung Quốc nói riêng và đối ngoại nói chung. Cơ quan ngoại giao chính thức có khuynh hướng thân cận với phương Tây, cơ quan ngoại giao Đảng thì gần gũi với Bắc Kinh. Kênh ngoại giao giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là một kênh đặc biệt trong việc giải quyết tranh chấp đôi bên. Trong cuộc khủng hoảng giàn khoan Hải Dương Thạch Du của Bắc Kinh ở thềm lục địa Việt Nam hồi năm 2014, các viên chức Đảng đã được gửi đến Bắc Kinh thương thuyết. Sau đại hội Đảng lần thứ 13, có một sự thay đổi là viên chức nắm ngoại giao của Đảng là ông Lê Hoài Trung lại là người được đào tạo ở phương Tây, giống như các viên chức ngoại giao chính thức. Vẫn chưa rõ, chuyện này có đưa đến thay đổi gì hay không. Ngoài ra, công việc ngoại giao ở Việt Nam cũng không hoàn toàn nằm trong tay Bộ Ngoại giao mà có thể rơi vào tay Bộ Quốc phòng trong trường hợp cụ thể với Trung Quốc. Trong khi ông Phạm Minh Chính bay sang thăm Jakarta, thì tướng Phan Văn Giang, tân bộ trưởng quốc quốc phòng, bước qua biên giới Móng Cái – Đông Hưng để tham gia một số hoạt động “hữu nghị” với Trung Quốc. Ngay sau đó trở về Hà Nội, ngày 25/4, ông Giang lại đón tiếp ông Ngụy Phương Hòa, Bộ trưởng Quốc phòng của Bắc Kinh. Mặc kệ Trung Quốc đe dọa lãnh hải Việt Nam, làm mưa làm gió trên biển Đông, với đảng Cộng sản Việt Nam “tình hữu nghị giữa hai đảng” quan trọng hơn hết. Và chuyến đi của Thủ tướng Phạm Minh Chính kết thúc, cho dù các lãnh đạo ASEAN có khuyên bảo, hay lãnh đạo quân phiệt Miến Điện có hứa hẹn gì đi nữa, nhưng trên thực tế, khó có thể chấm dứt bạo lực ở Miến, khi chính quyền quân phiệt không phải đối mặt với bất kỳ sự chế tài hay trừng phạt nào từ các nước này.  
......

Nhà nước của những phe nhóm quyền lực, không phải nhà nước của dân

Phạm Đình Trọng Càng ngày nhà nước cộng sản Việt Nam càng ngang nhiên và tràn lan lối hành xử chỉ vì lợi ích phe nhóm quyền lực, không vì lợi ích của dân, của nước, không vì danh dự quốc gia, không vì kỉ cương phép nước và đạo lí xã hội, từ việc lớn ở tầm quốc gia, đến việc nhỏ trong một trường học ở một làng xã. Chỉ xin dẫn chứng mấy việc gần đây. 1. VÌ LỢI ÍCH CỦA NHÓM QUYỀN LỰC, MÁU DÂN ĐỒNG TÂM CÒN THẤM ĐẪM ĐẤT ĐỒNG TÂM THÌ MÁU DÂN MYANMAR NÀO CÓ Ý NGHĨA GÌ Nhóm tướng cầm đầu quân đội Mynamar rải lính mang súng đạn xông vào cung điện nhà nước, xông vào nhà riêng bắt cóc những yếu nhân lãnh đạo nhà nước Mynamar vừa được lá phiếu của người dân bầu lên trong cuộc bầu cử dân chủ, minh bạch. Lấy súng đạn làm đảo chính cướp chính quyền của chính phủ hợp pháp rồi nhóm tướng quân đội Myanmar lại dàn quân, xả súng vào dân chúng tay không biểu tình đòi nhóm tướng đảo chính tôn trọng lá phiếu của người dân, đòi trả lại quyền lực nhà nước cho chính phủ hợp pháp được người dân tin cậy giao quyền. Hàng trăm dân lành Myanmar đã bị quân đội đảo chính phi pháp bắn chết. Máu dân Myanmar lênh láng trên đường phố Naypyidaw. Lương tri loài người phẫn nộ. Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan phải thốt lên: Quân đội cầm súng bắn người dân nước mình là đỉnh cao của nỗi ô nhục quốc gia. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc gấp gáp thảo Tuyên bố chung lên án và ngăn chặn nỗi ô nhục quốc gia ở Myanmar. Để tội ác mang danh quyền lực nhà nước giết dân lành cứ tiếp diễn thì không chỉ là nỗi ô nhục Myanmay mà còn là nỗi ô nhục của cả loài người. Nhưng tiếng nói đúng đắn và cần thiết của lương tri loài người từ Liên Hiệp Quốc đã không được cất lên ngăn chặn tội ác chống lại người dân của quân đội Myanmar. Ngoài hai nước độc tài trong Thường trực Hội đồng Bảo an là Nga và Trung Quốc phủ quyết Tuyên bố, lên tiếng phản đối Tuyên bố mạnh mẽ của Hội đồng Bảo an ngăn chặn nòng súng tội ác giết dân của quân đội Myanmar còn có tiếng nói tủi hổ của nhà nước Việt Nam cộng sản. Không nói tiếng nói mạnh mẽ của lương tri con người trước máu dân lành đang hàng ngày xối xả đổ ra trên đường phố Myanmar, nhà nước cộng sản Việt Nam đã tách đất nước Việt Nam ra khỏi văn minh loài người, Việt Nam trở thành lạc lõng với thế giới văn minh, lạc lõng với giá trị nhân văn của loài người. Vì sao nhà nước cộng sản Việt Nam lại hành xử để lại tiếng xấu, tạo ra bộ mặt xấu xí của Việt Nam trên thế giới, tạo ra vết nhơ cho dân tộc Việt Nam văn hiến như vậy? Xin hãy lần theo dấu chân máu của doanh nghiệp quân đội Viettel từ Đồng Tâm tới Myanmar. Bộ Quốc phòng Việt Nam thông qua doanh nghiệp quân đội Viettel đã hùn vốn làm ăn với đám tướng cầm đầu quân đội Myanmar. Với bốn mươi chín phần trăm vốn Viettel và năm mươi mốt phần trăm vốn của phía Myanmar, tập đoàn công nghệ thông tin Mytel, một liên kết kinh tế giữa quân đội Việt Nam và quân đội Myanmar ra đời. Nắm nguồn vốn lớn quyết định sự sống còn của Mytel không phải công ty tư nhân. Mytel không đơn thuần chỉ liên kết kinh tế. Quân đội là phương diện quốc gia, là một thế lực chính trị của quốc gia. Liên kết kinh tế gữa quân đội hai nước đương nhiên là liên kết chính trị, liên kết ở tầm quốc gia giữa hai nhà nước. Kinh tế chỉ là phần xác mà phần hồn là chính trị. Liên kết kinh tế giữa quân đội hai nước phải có liên kết chính trị của hai nhà nước bảo đảm. Đầu tháng ba, 2021, Tổ chức Vận động Nhân quyền Myanmar, Justice for Myanmar, JFM, theo dõi những hoạt động chống lại nền dân chủ Myanmar của các tướng quân đội, cho biết: Mytel đã có lãi từ đầu năm 2020, sớm hơn dự kiến hai năm và khoản lợi nhuận các tướng quân đội Myanmar thu được từ Mytel lên tới bảy trăm triệu USD. Dù góp năm mươi mốt phần trăm vốn Mytel nhưng gồm nhiều nhà đầu tư mà đám tướng quân đội Myanmar chỉ nắm nguồn vốn lớn nhất phía Myanmar mà thôi. Viettel với bốn mươi chín phần trăm vốn đương nhiên là cổ đông lớn nhất của Mytel. Vốn ít hơn, đám tướng Myanmar còn thu lợi nhuận lớn như vậy thì Viettel, cổ đông lớn hơn, lợi nhuận còn bộn hơn nhiều. Nhà nước nào, dân tộc nào cũng có ba nguồn sức mạnh để tồn tại, để khẳng định vị thế trong cộng đồng nhân loại. Lịch sử, văn hoá là nguồn sức mạnh bền bỉ, sâu xa từ quá khứ. Kinh tế là nguồn sức mạnh vững chắc, lâu dài cho tương lai. Quân đội và công an là sức mạnh bạo lực tức thời của hiện tại. Doanh nghiệp quân đội Viettel liên kết làm ăn với quyền lực quân đội Mynamar cũng giống như doanh nghiệp quân đội Viettel liên kết với quyền lực Hà Nội giành giật 59 ha đất lúa, đất ngô Đồng Sênh của dân Đồng Tâm. Vì sức mạnh bạo lực tức thời bảo đảm cho sự tồn tại của nhà nước cộng sản Việt Nam, vì lợi ích của Viettel, nhà nước cộng sản Việt Nam đã xả súng giết dân Đồng Tâm ở ngay thủ đô Hà Nội thì máu dân Myanmar xa lắc nào có ý nghĩa gì! Vì lợi ích của nhóm quyền lực nhà nước, nhà nước cộng sản Việt Nam đã biểu quyết ngăn chặn Tuyên bố mạnh mẽ của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc lên án tội ác quân đội Myanmar bắn giết dân Myanmar. Vì lợi ích cục bộ của nhóm quyền lực cấp nhà nước, nhà nước cộng sản Việt Nam còn hành xử bất chấp lương tri con người, bất chấp giá trị nhân văn nhân loại và bất chấp danh dự quốc gia như vậy thì đạo lí xã hội, kỉ cương phép nước, lợi ích của dân, của nước chỉ là mớ mĩ từ tuyên truyền sáo rỗng. Còn với các nhóm quyền lực nhà nước cộng sản từ nhỏ đến lớn thì đạo lí xã hội, kỉ cương phép nước, lợi ích của dân, của nước đều sáo rỗng và vô nghĩa. 2. NHÓM QUYỀN LỰC NGANG NHIÊN LỘNG HÀNH CƯỚP QUYỀN DÂN TỪ LÀNG XÃ Chống tiêu cực, hai giáo viên ở Hà Nội kêu cứu vì bị cấp trên trù dập https://afamily.vn/chong-tieu-cuc-hai-giao-vien-o-ha-noi-keu-cuu-vi-bi-cap-tren-tru-dap-20210326151248302.chn Cô giáo một trường tiểu học ở xã ngay thủ đô Hà Nội lên tiếng tố cáo đúng pháp luật những việc làm sai trái, bẩn thỉu của bà hiệu trưởng. Nhà trường không chỉ giáo dục kiến thức khoa học mà còn giáo dục đạo đức làm người, giáo dục thẩm mĩ sống cho lớp người trẻ. Tiếng nói của lẽ phải và lương tâm chỉ ra sự hư hỏng, bại hoại đạo đức trong môi trường giáo dục là vô cùng cần thiết, dũng cảm, cần được trân trọng, ủng hộ và bảo vệ. Sự việc quá nhỏ bé và giải quyết cũng quá đơn giản. Vì lẽ phải, vì đạo lí xã hội và kỉ cương phép nước cần giải quyết minh bạch và rốt ráo. Luật Khiếu nại Tố cáo cho người dân quyền tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích chính đáng của người dân. Luật cũng qui định cơ quan giải quyết tố cáo không những phải kịp thời, chính xác, khách quan mà còn phải bảo đảm an toàn, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người tố cáo. Nhưng bà hiệu trưởng bị tố cáo lại là vợ ông quan đứng đầu cơ quan hành pháp của huyện. Thế là cả bộ máy quyền lực hành pháp và tư pháp trong huyện làm ngơ, để bà hiệu trưởng vợ ông quan đầu huyện tác yêu tác quái, mặc sức trù dập tiếng nói dũng cảm nhưng đơn độc, tiếng nói của trách nhiệm, của lương tâm nhưng nhỏ bé, lẻ loi, yếu ớt trong xã hội vô cảm, trong sự lộng hảnh của nhóm quyền lực cấp trường làng và quyền lực hành chính cấp huyện. Chỉ là nhóm quyền lực cấp trường làng cũng sử dụng rất bài bản và rất ghê tởm màn đấu tố của cải cách ruộng đất, biến đám học trò tiểu học trong trắng hồn nhiên thành bầy tiểu yêu lưu manh xã hội đen, đâm thuê chém mướn, ngậm máu phun người, vu khống, đấu tố chính cô giáo của đám trẻ. Nơi dạy bọn trẻ đạo đức làm người lại dạy tuổi thơ thói lưu manh vu khống, độc ác, dạy tuổi thơ thói côn đồ mạt sát, thoá mạ hạch tội chính người dạy bảo chúng. Chỉ là nhóm quyền lực ở xã, ở huyện còn trắng trợn lộng hành coi thường pháp luật, coi thường đạo đức, coi thường người dân như vậy thì những nhóm quyền lực bự cấp quốc gia còn khinh bỉ pháp luật, khinh bỉ đạo đức, khinh bỉ người dân đến thế nào! 3. NHỮNG NHÓM LỢI ÍCH CỦA QUYỀN LỰC TRÀN NGẬP BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Từ khi có chính quyền, nhà nước cộng sản đã dành ưu ái đặc biệt trong việc đào tạo, sử dụng, đề bạt đám con cái quan chức cấp cao trong đảng và nhà nước cộng sản. Dù sao lí lịch hoá chính sách cán bộ cũng chỉ ưu đãi đặc biệt trong việc học hành, đào tao và tạo ra một cửa riêng cho đám cậu ấm, cô chiêu nhà sản tiến thân. Ở cửa riêng ưu đãi đó họ cũng phải xếp hàng tuần tự, cũng phải bảo đảm chuẩn mực chức danh và phải cạnh tranh với nhau và với những giá trị khác. Nhưng từ đời đảng trưởng Nông Đức Mạnh đưa thằng con chỉ biết lao động đơn giản làm thuê nhảy tót lên ghế quyền lực quốc gia đã mở ra thời kì các quan đảng rầm rộ, hối hả đưa con cháu, họ hàng ào ào cướp những chiếc ghế quyền lực của dân của nước. Hai nhiệm kì đứng đầu đảng cầm quyền, ông Tổng bí thư Nông Đức Mạnh chỉ để lại câu nói vô nghĩa của bộ não trống rỗng “Trồng cây gì, nuôi con gì”, chỉ để lại một hoạch định ảo tưởng hão huyền “Đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại”. Mười năm đứng đầu triều đình cộng sản chẳng làm được việc gì lợi cho dân cho nước nhưng trước khi nghỉ hưu, ông đảng trưởng họ Nông đã dùng quyền lực Tổng bí thư giành được chiếc ghế uỷ viên trung ương đảng đầy quyền lực cho thằng con trai không thể học hành đến nơi đến chốn, phải mang sức lực cơ bắp ra nước ngoài làm thuê kiếm sống. Dù là nhân vật quyền lực thứ hai trong đảng, chỉ sau đảng trưởng và là nhân vật quyền lực lớn nhất Chính phủ nhưng ông uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng không thể tác động, chi phối đại hội đảng bộ cơ sở, nơi con trai cả của ông là đảng viên. Vì vậy con trai ông dù được ưu ái tiến cử củng không đủ phiếu trúng cử thành uỷ, cả đến cuộc bầu chọn rộng rãi hơn là bầu đại biểu đi dự đại hội đảng toàn quốc, cậu ấm nhà Thủ tướng cũng không trúng cử. Nhưng ở đại hội đảng toàn quốc, với quyền lực uỷ viên Bộ Chính trị, quyền lực Thủ tướng Chính phủ, ông Dũng đã giành được chiếc ghế quyền lực trong cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng cho đứa con trai không đủ phẩm chất và năng lực vào thành uỷ một địa phương, không đủ tư cách là đại biểu đảng bộ địa phương dự đại hội đảng toàn quốc. Giành được quyền lực của đảng là giành được quyền lực nhà nước, là chiếm được quyền lực của dân. Chen được vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng, con trai ông đảng trưởng Mạnh liền được bổ nhiệm Thứ trưởng, phó chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc. Con trai ông Thủ tướng Dũng liền giành được ghế Thứ trưởng rồi luân chuyển đi làm bí thư tỉnh uỷ, quay về kinh đô làm Bộ trưởng. Quan đảng cấp quốc gia giành quyền lực cấp quốc gia, cướp quyền của người dân cả nước cho con quan đảng thì quan đảng cấp tỉnh chiếm quyền lực cấp tỉnh, cướp quyền dân trong tỉnh, quan đảng cấp Bộ cướp quyền lực cấp Bộ, cướp quyền công chức trong Bộ cho con cháu, họ hàng nhà quan diễn ra rầm rộ, ngang nhiên, rộng khắp trên cả nước. Điều bất thường đã trở thành bình thường. Điều cấm kị của nhà nước dân chủ đã trở thành điều đương nhiên ở nhà nước độc tài. Điều nguy hại đối với sự phát triển của đất nước đã trở thành hồng phúc của đảng cộng sản độc quyền. Bí thư tỉnh uỷ Hà Giang Triệu Tài Vinh, bí thư tỉnh uỷ Bắc Ninh Nguyễn Nhân Chiến rải con cháu, họ hàng lên khắp ghế quyền lực nhà nước trong tinh. Ông Bộ trưởng Công thương Vũ Huy Hoàng đưa con trai vào vị trí quản lí ngành kinh doanh nhà nước giầu có nhất, lãi khẳm nhất rồi đề bạt con nhảy cóc mau lẹ trên những bậc thang quyền lực. Bà Thứ trưởng bộ Công thương Hồ Kim Thoa thì đưa con em vào nắm hết những ghế lãnh đạo chủ chốt một doanh nghiệp lớn, lãi bộn của nhà nước, rồi định giá bèo bọt tài sản doanh nghiệp để con em bà Thứ trưởng nắm hết cổ phiếu doanh nghiệp, biến doanh nghiệp lớn, làm ăn khấm khá của nhà nước thành doanh nghiệp của riêng gia đình bả Thứ trưởng. Học tập đạo đức bề trên và đàn anh trong đảng, vừa ngồi vào ghế Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc, bà Hoàng Thuý Lan làm ngay nhân sự bộ máy cai trị trong tỉnh và con gái bà Bí thư vốn đã được gửi ở nhà trẻ của tỉnh uỷ là tỉnh đoàn, vừa mới trở thành công chức, chưa kịp có thời gian quen việc và chưa có đóng góp gì chứng minh năng lực, liền được mẹ Bí thư tỉnh uỷ đặt lên ghế phó giám đốc sở. Các quan chức trong tỉnh đều một giọng “việc đề bạt con gái bí thư tỉnh uỷ là đúng qui trình” vì con các quan cũng đã và sẽ “đúng qui trình” như vậy. Bà uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng đưa cả hai con Lò Việt Phương, sinh năm 1973 và Lò Thị Việt Hà sinh năm 1977 vào làm công chức trong bộ máy hành chính Quốc hội. Với quy định vụ trưởng mới được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, quyền lực Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội liền tác động điều chuyển liên tiếp những quan chức cơ quan Quốc hội đi nơi khác mở đường thăng tiến thần tốc cho Lò Việt Phương và Lò Thị Việt Hà. Để đến kì bầu cử Quốc hội khoá 15, năm 2021, cả Phương và Hà đều có tên trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội, bà Phóng mới mĩ mãn về nghỉ an hưởng hồng phúc của đảng. Dân chưa bỏ phiếu bầu cử nhưng hai chiếc ghế quyền lực của Quốc hội khoá 15 đã được bà Phóng đặt gạch giữ chỗ cho hai con bà. Phương dự định làm phó ban Dân nguyện trung ương, tương đương hàm Tổng cục trưởng. Hà được dự tính làm phó Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc Hội, tương đương hàm Thứ trưởng. Bà Phó Chủ tịch Quốc hội khoá 14 Tòng Thị Phóng đã coi cuộc bầu cử của dân chỉ là trò hề và bà đã biến Quốc hội từ cơ quan đại biểu cao nhất của dân thành cơ quan đại biểu lợi ích của riêng gia đình bà. Bộ máy đảng, bộ máy nhà nước từ trung ương đến phường, xã ở địa phương, đến phòng, ban các công sở đều trở thành những nhóm lợi ích, không mang quyền lực nhà nước làm việc ích nước lợi dân mà chỉ dùng quyền lực vụ lợi cho cá nhân và phe nhóm. Bộ máy quản trị đất nước thành công ty độc quyền kinh doanh chức vụ, kinh doanh quyền lực của quan cai trị. 4. KHÔNG DÙNG HIỀN TÀI TRONG DÂN, CHỈ DÙNG HẬU DUỆ TRONG ĐẢNG, NƯỚC SUY VONG, DÂN KHỐN CÙNG Ngày 25.4.2006 ông cán bộ lâm nghiệp quê góc rừng Na Rỳ, Bắc Cạn, Nông Đức Mạnh được đưa lên ngai vàng đảng trưởng đảng cộng sản cầm quyền. Năm ngày sau, trong lễ kỉ niệm long trọng ngày 30.4.2006 trước đông đảo khách mời quốc tế và người dân Việt Nam, ông đảng trưởng họ Nông trịnh trọng khẳng định: Đại hội mười của Đảng thành công tốt đẹp đang mở ra một giai đoạn phát triển mới mạnh mẽ, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Đại hội đảng chỉ là định kì chia chác trong đảng những chiếc ghế quyền lực của dân của nước. Chia chác xong, đại hội nào mà chẳng thành công tốt đẹp! Lời ông đảng trưởng họ Nông cũng là lời của đảng cầm quyền, là ý chí đại hội 10, đại hội đưa ông thợ rừng họ Nông lên đảng trưởng. 2006 – 2020. Mười lăm năm. Năm 1945, nước Nhật phải hứng chịu hai quả bom hạt nhân, là nước bại trận trong cuộc đại chiến thế giới, cả nước Nhật là bãi tro tàn, gạch vụn, là bãi tha ma mênh mông với hàng triệu nấm mồ mới và là nhà thương dã chiến với hàng triệu người mang thương tích, mang nhiễm xạ trong con người. Tan hoang vậy, nước Nhật cũng chỉ mười lăm năm, đến năm 1960, Nhật đã bước vào hàng ngũ các nước công nghiệp phát triển. Cuộc chiến tranh Trung – Triều kết thúc bằng Hiệp ước đình chiến kí ngày 27.7.1953 chia đôi Triều Tiên thành hai nước, Bắc Triều Tiên, Cộng hoà Dân Chủ Nhân dân Triều Tiên và Nam Triều Tiên, Đại Hàn Dân Quốc, Hàn Quốc. Từ bãi chiến trường cuối thập kỉ năm mươi, chưa đến hai mươi năm, đầu thập kỉ bảy mươi, thế kỉ trước, Hàn Quốc đã là nước công nghiệp phát triển. Sau năm 1975, những đô thị, những cơ sở kinh tế, những kho hàng hoá và mười sáu tấn vàng ngân khố miền Nam Việt Nam còn nguyên vẹn. Khi ông đảng trưởng họ Nông tuyên bố đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại là khi Việt Nam đã bước ra khỏi cuộc nội chiến Nam Bắc 30 năm, đã gia nhập WTO, mỗi năm đón nhận hàng chục tỉ đô la đầu tư nước ngoài và gần chục tỉ đô la của người Việt làm ăn ở nước ngoải gửi về giúp dân giúp nước. Nay thêm mười lăm năm nữa để công nghiệp hoá nếu không là quá lâu, quá chậm thì cũng là đương nhiên, trong tầm tay. Nhưng việc lớn nhỏ thành bại đều do con người, đều do hạt nhân lãnh đạo, do người lèo lái, dẫn dắt quyết định. Dẫn dắt người dân Việt Nam quả cảm, giàu sáng tạo và đầy quyết tâm xây dựng đất nước giầu đẹp là bố con ông đảng trưởng họ Nông tầm suy nghĩ chưa vượt qua khung cửa căn nhà sàn ở Na Rì, Bắc Cạn, chưa vượt ra khỏi cánh cổng ngôi biệt thự kín cổng cao tường bên hồ Tây, Hà Nội. Khuyết tật nhân cách, trống vắng tài năng, dẫn dắt đất nước làm công nghiệp hoá mà người nắm quyền lực lãnh đạo cao nhất đất nước chỉ biết nói với dân một câu như con vẹt: Trồng cây gì, nuôi con gì. Đó là tư duy, là tầm vóc của một đội trưởng đội trồng rừng, đội trưởng đội chăn nuôi, chỉ quen lao động chân tay, cầm tay chỉ việc, hoàn toàn không có tư duy trí tuệ, không có tư duy sách lược, tư duy đường lối. Dẫn dắt đất nước Việt Nam tươi đẹp và giàu tiềm năng đi vào công nghiệp hoá là bố con ông Thủ tướng Ba Dũng đã tập hợp, dựng lên cả một nội các hối hả tham những, ráo riết vơ vét của công, cướp bóc của dân. Cả nội các của ông Dũng đua nhau tham nhũng quyền lực, tham nhũng của cải đã làm lụn bại cả ngành công nghiệp hàng hải, đánh sập cả ngành công nghiệp luyện kim. Làm đâu thua lỗ đấy, ngành nào cũng thất bát, cũng thất thoát ngân sách hết ngàn tỉ đồng này đến ngàn tỉ đồng khác. Những vụ thất thoát, thua lỗ hàng trăm ngàn tỉ tiền của dân của nước ờ Vinashine, Vinalines, Dầu khí, Vinacomin, gang thép Thái Nguyên, những vụ cướp đất đổ máu dân ở Tiên Lãng, Hải Phòng, ở Văn Giang, Hưng Yên, ở Dương Nội, Hà Nội… đều diễn ra dưới thời Thủ tướng tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng. Những quan chức đảng, nhà nước cấp Bộ Chính trị, cấy Uỷ viên Trung ương, cấp Bộ trưởng, Thứ trưởng lũ lượt kéo nhau ra toà án hình sự đều phạm tội tham nhũng dưới thời Thủ tướng tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng. Tham nhũng trong nước, tham nhũng cả với nước ngoài. Ăn hối lộ, của nước ngoài rồi nhắm mắt mua giá cao công nghệ cố lỗ, phế thải của nước ngoài về, công nghiệp hoá đất nước bằng cách biến nước ta thành bãi rác thải công nghiệp của thế giới. Đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông không những là đống rác nặng mùi của công nghệ đường sắt phế thải Tàu cộng mà còn là vết thương không bao giờ cầm máu của nền kinh tế Việt Nam. Các nước công nghiệp và dân chủ phương Tây có công nghệ hiện đại, mang lại hiệu quả kinh tế cao và triệt để tuân thủ đòi hỏi bảo vệ môi trường nhưng là nước dân chủ, những hợp đồng kinh tế cũng minh bạch và được pháp luật giám sát chặt chẽ không thể tham nhũng thì nội các tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng xa lánh để dấm dúi đi đêm với những nhà thầu Tàu cộng mà hối lộ tiền bạc, hối lộ nhan sắc là quốc sách của nhà nuốc Tàu cộng. Hối lộ tiền bạc, hối lộ nhan sắc để công nghệ và hàng hoá Tàu cộng tràn ra thế giới, buộc thế giới phụ thuộc Tàu cộng, để con người Tàu cộng tràn ngập thế giới, để tư tưởng “bình thiên hạ” của Tàu cộng thống trị thế giới. Nội các tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng đưa nước ta vào công nghiệp hoá bằng nhà máy thép Formosa Dung Quất, Hà Tĩnh công nghệ cổ lỗ của Tàu cộng vừa không có hiệu quả kinh tế, vừa đầu độc sự sống cả dải biển miền Trung. Thế giới đã bước sang kỉ nguyên năng lượng sạch, năng lượng gió, năng lượng mặt trời thì nội các tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng đưa nước ta vào công nghiệp hoá bằng việc xây dựng trên khắp đất nước những nhà máy điện than phế thải từ Tàu cộng công nghệ của thế kỉ mười chín, hai mươi, biến bầu trời trong xanh nước ta thành bầu trời bụi than, biến đất đai màu mỡ nước ta thành bãi sỉ than độc hại. Cả một lô một lốc quan chức cấp bộ đã lộ bộ mặt nhem nhuốc tham nhũng nối nhau ra hầu toà nhưng ông Thủ tướng đứng đầu nội các tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng vẫn bình yên vô can thì sau lưng ông đứng đầu nội các tham nhũng sẽ còn nhiều gương mặt nhem nhuốc chưa bị lộ. Nắm quyền lực quốc gia thì tham nhũng nguồn lực quốc gia. Nắm quyền lực ở tỉnh, ở huyện thì tham nhũng trong tỉnh, trong huyện. Những quyền lực quốc gia như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Tòng Thị Phóng, Vũ Huy Hoàng, Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Dương Chí Dũng, Trần Việt Tân, Bùi Văn Thành, Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Hiến, Phương Minh Hoà… vơ vét của nước thì quyền lực địa phương tội gì không vơ vét ở địa phương. Những bí thư, phó bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ, người tham nhũng quyền lực như Triệu Tài Vinh, Nguyễn Nhân Chiến, Hoàng Thuý Lan, người tham nhũng tiền bạc, tài sản như Tất Thành Cang là những bộ mặt đã lộ sáng chỉ là phần nổi của tảng băng tham nhũng khổng lồ. Tham nhũng tiền bạc nguy hại một thì tham nhũng quyền lực nguy hại gắp mười lần nhưng tham nhũng tiền bạc thì bị pháp luật gọi tên. Còn tham nhũng quyền lực thì vẫn nghênh nganh thách thức kỉ cương, thách thức đạo đức, khinh bỉ người dân. Công nghiệp hoá không phải chỉ cần có công nghệ hiện đại mà còn cần có con người có tầm vóc công nghiệp. Con người có tầm vóc công nghiệp là con người được làm chủ bản thân, làm chủ đất nước, con người của loài người, có trách nhiệm với giá trị làm người, với giá trị nhân văn của loài người chứ không phải con người chỉ biết có cá nhân và gia đình mình, chỉ lo vinh thân phì gia. Những con người như Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Tòng Thị Phóng, Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Bắc Son, Triệu Tài Vinh, Nguyễn Nhân Chiến, Hoàng Thuý Lan, Tất Thành Cang… chỉ là những lãnh chúa phong kiến, tham nhũng cướp quyền dân, cướp quyền làm chủ đất nước của dân, chỉ biết vun vén lợi ích cá nhân, vinh thân phì gia, không phải con người của xã hội công nghiệp. Cách mạng tư sản dân quyền lật đổ lãnh chúa phong kiến, cho người dân quyền làm chủ bản thân, làm chủ đất nước để bước vào công nghiệp hoá. Những lãnh chúa phong kiến Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Tòng Thị Phóng, Triệu Tài Vinh, Nguyễn Nhân Chiến, Hoàng Thuý Làn… cướp quyền làm chủ đất nước của người dân, dùng quyền lực nhà nước chỉ để vun vén cho cá nhân, cho gia đình, làm sao có thể làm công nghiệp hoá! Công nghiệp và thương nghiệp là hai động lực chính của công nghiệp hoá. Bộ Công Thương định đoạt số phận cả nền công nghiệp và thương nghiệp của đất nước là bộ quyết định sự thành bại của công nghiệp hoá phải được giao cho con người có tầm vóc công nghiệp. Nhưng với bộ máy tham nhũng thì các vị trí quyền lực chỉ là chiếc bánh lợi ích để các nhóm lợi ích chia nhau. Quyền lực lớn phải giành được chiếc bánh lợi ích lớn. Bộ Công thương nắm nguồn của cải, tiền bạc lớn nhất của đất nước, nắm toàn bộ sức mạnh kinh tế của đất nước là chiếc bánh lợi ích bự nhất, thơm ngon nhất đối với các nhóm lợi ích. Thời nội các tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng, chiếc bánh bự bộ Công Thương được giành cho lãnh chúa công thương Vũ Huy Hoàng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nghèo tư duy, nghèo ngôn ngữ, đến tỉnh nào cũng chỉ biết lặp đi lặp lại lời hô hào tỉnh đó phải là đầu tàu kinh tế. Thời nội các đầu tàu Nguyễn Xuân Phúc, chiếc bánh thơm ngon bộ Công Thương được giành cho thái tử đảng Trần Tuấn Anh. Quyền lớn nhưng cả ông Huy Hoàng, ông Tuấn Anh đều chỉ là những lãnh chúa, dùng quyền lớn chỉ để vinh thân phì gia. Đưa đất nước vào công nghiệp hoá nhưng bộ Công Thương thời ông lãnh chúa công thương Huy Hoàng, thời ông thái tử đảng Tuấn Anh đã trở thành bộ tai ương của nền kinh tế đất nước và công nghiệp hoá đất nước cứ xa lắc xa lơ. Tưởng rằng nín thở một hơi dài mười lăm năm qua tai ương Huy Hoàng, Tuấn Anh, bộ Công Thương sẽ có con người mang tầm vóc công nghiệp lèo lái đưa đất nước hối hả vào công nghiệp hoá. Nhưng việc chia chác quyền lực lại đưa bộ Công Thương vào tay ông quan Tuyên giáo vốn xuất thân từ bệ phóng tỉnh đoàn trở thành quan đầu tỉnh lúa Thái Bình mà thời quan đứng đầu tỉnh, Thái Bình nổi tiếng là đất xã hội đen của băng nhóm Đường Nhuệ. Chỉ một việc quan mở tiệc linh đình ăn mừng quan rời tỉnh về nhận ghế quan trung ương đã cho thấy sự vắng bóng con người văn hoá, con người xã hội ở quan, chỉ thấy vâm váp, lừng lững hình hài con người sinh vật, can người vật chất. Với con người như vậy đứng đầu, bộ Công Thương còn cần mấy lần mười lăm năm nữa đất nước mới có nền công nghiệp hiện đại? 5. LÃNH CHÚA PHONG KIẾN KHÔNG THỂ ĐƯA ĐẤT NƯỚC VÀO CÔNG NGHIỆP Người dân không được quyền làm chủ đất nước bằng tự do ứng cử, bầu cử chọn hiền tài trong dân lãnh đạo người dân và đưa đất nước vào xã hội công nghiệp văn minh. Đảng độc quyền cai trị, tước đoạt quyền làm chủ đất nước của người dân, đảng trở thành lãnh chúa phong kiến và đất nước thành tài sản riêng của đảng, tài sản riêng của những phe nhóm quyền lực trong đảng. Có đất nước gấm vóc tổ tiên để lại mà người dân thành dân mất nước, phải sống cuộc sống nô lệ nghèo đói đau thương. Sống vật vờ lưu vong ngay trên đất nước mình mà không còn là của mình. Độc quyền cai trị tạo ra độc quyền tham nhũng. Tham nhũng đục khoét, đất nước xơ xác, người dân không còn nguồn sống, không còn niềm tin và hi vọng, dòng người bỏ nước ra đi suốt nửa thế kỉ qua vẫn đang nối dài. Hàng trăm ngàn người Việt bỏ xác trên biển. Ba mươi chín người Việt chết cóng trong thùng xe đông lạnh. Những xác người Việt chết khô rải rác trong những cánh rừng hoang châu Âu trên đường trốn vào các nước châu Âu. Lãnh chúa phong kiến làm công nghiệp hoá, đất nước không thể có công nghiệp hoá. Người dân cạn kiệt lòng tin phải tự đi tìm ánh sáng văn minh công nghiệp cho mình bằng bỏ nước ra đi, tìm ánh sáng văn minh công nghiệp trong đường hầm trốn chui trốn lủi, tìm sự sống trong cái chết nhưng người dân vẫn phải tìm mọi cách trốn chui, trốn lủi bỏ nước ra đi!  
......

Việt Trung đồng sàng dị mộng

Phạm Nhật Bình – Việt Tân Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn được lãnh đạo hai nước đề cao theo khẩu hiệu “sông liền sông, núi liền núi” và “môi hở răng lạnh” hay có cùng hệ thống chính trị, vừa là đồng chí vừa là anh em. Tuy nhiên bộ mặt thật của mối quan hệ này không hoàn toàn tốt đẹp, mà nó cũng đã nhiều lần trải qua sóng gió. Vừa qua, hai Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn và Vương Nghị của Trung Quốc đã có một cuộc trao đổi qua điện thoại về những vấn đề liên quan giữa hai nước. Theo tường thuật của báo chí, Vương Nghị với tư cách là đồng chí anh em đã hứa hẹn “Trung Quốc sẽ tiếp tục cam kết hỗ trợ Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.” Vương Nghị cũng nhắc Việt Nam phải lưu ý đến “một sứ mệnh chung” là củng cố niềm tin và sự đoàn kết, tăng cường hợp tác chiến lược và bảo vệ lợi ích chung. Trong khi đó Bộ Trưởng Bùi Thanh Sơn lại tránh né không đá động gì đến “con đường xã hội chủ nghĩa” mà Vương Nghị hứa dìu dắt. Ông Sơn chỉ nói những vấn đề chung chung xưa nay như “giữ gìn và phát triển tình hữu nghị truyền thống” và coi “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” giữa hai nước là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Liên quan đến vấn đề Biển Đông, Vương Nghị nhắc nhở Việt Nam “giải quyết đúng đắn các vấn đề trên biển.” Trong khi đó Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh đến yêu cầu hai bên giải quyết tranh chấp theo tinh thần tôn trọng lợi ích chung theo luật pháp quốc tế. Điều này cho thấy Trung Quốc vẫn cho yêu sách chủ quyền biển đảo của Việt Nam là không đúng đắn và xâm phạm lợi ích của họ. Theo đó, Trung Quốc chỉ muốn xử lý song phương các tranh chấp theo những gì Việt Nam cam kết với Trung Quốc trong tình hữu nghị. Còn Việt Nam thì muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và hướng về cách giải quyết đa phương trên nền tảng luật pháp quốc tế như Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Như thế, chỉ nhìn qua nội dung những lời phát biểu của đôi bên, người ta thấy rõ quan hệ giữa CSVN và Trung Quốc ẩn hiện trong hình thức “bằng mặt nhưng không bằng lòng.” Người ta còn nhớ vào năm 2014, khi được đại biểu quốc hội chất vấn về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, thủ tướng thời ấy là Nguyễn Tấn Dũng đã trả lời trong một ý nghĩa tương tự: “đó là vừa hợp tác, vừa đấu tranh.” Cho tới thời điểm hiện nay, trong tư thế kẻ mạnh, sự hung hăng của Bắc Kinh ngày càng làm tăng mối hiềm khích và sự nghi ngờ từ phía Việt Nam, vốn chịu lép vế trước một đàn anh khó tách rời. Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình, muốn quay lại thời kỳ chuyên chính vô sản theo kiểu vừa hồng vừa chuyên để đối đầu với Hoa Kỳ và đồng minh. Ngoài nước thì áp dụng lối ngoại giao “chiến lang” bất chấp luật pháp quốc tế; trong nước thì kích động tinh thần dân tộc để nắm giữ thế độc quyền chính trị.Trong khi đó Trung Quốc cũng muốn Việt Nam tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa kiểu Trung Quốc. Như thế có nghĩa là Việt Nam tiếp tục phụ thuộc và gắn kết chặt chẽ với Bắc Kinh để chống lại ảnh hưởng của Mỹ, nhất là tại chiến trường Đông Nam Á. Ngược lại, Việt Nam đang cần tiền nên phải mở rộng thương mại với Mỹ cũng như Châu Âu trong mục tiêu lâu dài là dựa vào Mỹ và các quốc gia Tây Phương để bảo vệ Biển Đông trước sự hung hăng xâm chiếm của Trung Quốc. Thực tế ấy được nhà phân tích quốc tế Lê Hồng Hiệp nhìn nhận: “Trong khi quan hệ của Hà Nội với Hoa Kỳ ngày càng cải thiện, đặc biệt trên khía cạnh niềm tin chiến lược, thì quan hệ Việt – Trung vẫn đang căng thẳng, niềm tin giảm sút do vấn đề tranh chấp Biển Đông.” Nói cách khác, với phát biểu của Vương Nghị và Bùi Thanh Sơn qua tường thuật khác nhau của báo chí Trung Quốc và Việt Nam cho thấy mối quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có những đợt sóng ngầm. Những đợt sóng ngầm ấy xô đẩy nhau tạo thế quan hệ đối đầu tương đối dưới tình trạng “bằng mặt không bằng lòng.” Hay nói khác đi, Việt – Trung đồng sàng mà dị mộng, do thái độ chèn ép của nước lớn quá nhiều tham vọng. Phạm Nhật Bình  
......

Phong trào Dân Chủ Việt Nam: 46 năm nhìn lại và giải pháp cho tương lai

  Luật Sư Nguyễn Văn Đài Nhân đánh dấu 46 năm (1975-2021) ngày 30 tháng 4, ngày mà những công dân của nước Việt Nam Cộng Hòa trước 1975 gọi là “Ngày mất nước” hay còn gọi là “Tháng Tư Đen.” Tức là một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa có chủ quyền, được quốc tế công nhận đã bị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng sản Bắc Việt) dùng bạo lực để tước đoạt chính quyền, lãnh thổ và người dân. Đảng CSVN áp đặt sự cai trị của họ trên toàn lãnh thổ Việt Nam và tước đoạt các quyền tự do, dân chủ của toàn thể người dân Việt Nam trong suốt 46 năm đã qua. Nhân dân Việt Nam qua nhiều thế hệ vẫn đang bền bỉ đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ độc tài CSVN để xây dựng lên nước Việt Nam tự do, dân chủ, đa đảng. Tôi xin điểm lại sự ra đời và những bước phát triển thăng trầm của Phong trào Dân chủ Việt Nam. Sau 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người thuộc quân đội, cảnh sát, an ninh, công chức của nước VNCH đã bị chế độ độc tài CSVN bắt đi cải tạo vô thời hạn. Hàng chục ngàn người đã không có cơ hội trở về với gia đình. Hàng triệu người người phải bỏ nước ra đi để thoát họa độc tài CSVN và tìm kiếm tự do, hạnh phúc. Hàng trăm ngàn người đã bỏ mạng trên đường chạy trốn cộng sản để tìm kiếm tự do. Trong sự cùng cực đó, đã có những người tiếp tục đấu tranh chống lại sự bố ráp và khống chế của an ninh CSVN, với sự ra đời của nhiều lực lượng đấu tranh mà ngày nay gọi chung là phong trào kháng chiến của thập niên 80. Sau khi khối cộng sản Liên Xô tan rã vào thập niên 1990, các lực lượng đấu tranh chống lại chế độ CSVN đã biến thành phong trào đòi tự do dân chủ và bắt đầu xuất hiện những tiếng nói bất đồng chính kiến trong các cựu quan chức CSVN như Trung tướng Trần Độ, Tổng biên tập báo Quân Đội cựu Đại tá quân đội Phạm Quế Dương, Chánh văn phòng Bộ CA Đại tá Lê Hồng Hà, Giáo sư Hoàng Minh Chính, Giáo sư Trần Khuê, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang,… Và những người trẻ tuổi hơn như Nguyễn Khắc Toàn, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình,… Khởi đầu họ thành lập lên Nhóm Chống Tham nhũng. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, một số bị bắt cầm tù, Nhóm Chống Tham nhũng tan rã, chỉ còn những tiếng nói độc lập. Ngày 8 tháng 4 năm 2006, Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam được công bố với 118 người tham gia ký tên ban đầu. Và đây là sự kiện dẫn đến sự ra đời Khối 8406 (Bloc 8406) được đông đảo người Việt ở trong và ngoài nước tham gia, được cộng đồng quốc tế ủng hộ. Sau này được gọi là Phong trào 8406 tiền thân của Phong trào Dân chủ Việt Nam. Tiếp theo Đảng Dân Chủ Việt Nam được Giáo sư Hoàng Minh Chính tuyên bố phục hoạt, Đảng Thăng Tiến, Công đoàn Độc lập, Ủy ban Nhân quyền VN, Nhóm Bạch Đằng Giang, Tập hợp Thanh niên Dân chủ,… được thành lập. Những tổ chức này đã tạo ra được những sinh hoạt dân chủ thu hút được sự quan tâm và ủng hộ của người Việt ở trong và ngoài nước trước khi bị đàn áp. Tới cuối năm 2006 và đầu năm 2007, nhà nước độc tài CSVN tiến hành đàn áp, hàng chục người bị bắt như Nhóm Bạch Đằng Giang, Nhóm của Linh Mục Nguyễn Văn Lý và đảng Thăng Tiến tại Huế, Ls Nguyễn Văn Đài, Ls Lê Thị Công Nhân,… và một số phải chạy tỵ nạn ra nước ngoài. Phong trào Dân chủ VN suy yếu và trùng xuống sau các đợt đàn áp và bắt giữ vào năm 2008 với nhóm của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Đức Thạch; năm 2009 với Đảng Dân Chủ Việt Nam của Ls Lê Công Định và Trần Huỳnh Duy Thức,… năm 2011 với nhóm Thanh niên Công giáo;… Năm 2011, sau sự kiện Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam cắt cáp tầu thăm dò dầu khí Bình Minh, phong trào biểu tình bảo vệ chủ quyền quốc gia bùng lên, kéo dài tới năm 2018. Nổi bật là cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người ở 13 tỉnh thành để chống dự luật đặc khu và luật an ninh mạng vào ngày 10 tháng 6 năm 2018. Cũng trong thời gian đó, hàng loạt các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) được thành lập và hoạt động công khai ở Việt Nam như: Nhóm NO-U; Hội Anh Em Dân Chủ, Hội cựu Tù Nhân Lương Tâm; Hội Phụ Nữ Nhân Quyền; Hội Bầu Bí; Hội Nhà Báo Độc Lập… khoảng trên 20 tổ chức XHDS đã xuất hiện trong những năm đó. Đồng thời với sự ủng hộ và giúp đỡ của các cá nhân, tổ chức của người Việt ở hải ngoại, các tổ chức NGO quốc tế, các tổ chức XHDS, các tổ chức tôn giáo và các nhà hoạt động độc lập ở trong nước đã có những hoạt động công khai tranh đấu bảo vệ môi trường, chủ quyền quốc gia và các quyền con người khá nổi bật. Nếu tiếp tục mở rộng và phát triển thì những hoạt động này sẽ đe dọa tới sự tồn vong của chế độ độc tài CSVN và đem lại tự do, dân chủ cho đất nước. Nhà nước độc tài CSVN chưa cam chịu, họ lại thực hiện các đợt khủng bố, đàn áp, bắt giữ những cá nhân, tổ chức từ cuối 2015 cho tới hiện nay. Hàng trăm nhà hoạt động bị bắt và một số phải chạy tỵ nạn ra nước ngoài. Các tổ chức XHDS gần như tê liệt, không còn hoạt động. Năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, các nhà quan sát quốc tế và trong nước đều đánh giá mức độ đàn áp khốc liệt chưa từng có của nhà nước độc tài CSVN với Phong trào Dân chủ. Nhiều người bi quan cho rằng Phong Trào Dân chủ đã bị dập tắt. Có thể nói tới thời điểm này, trên mặt nổi thì Phong trào Dân chủ tại Việt Nam gần như yên lặng. Nhưng chúng ta cần nắm rõ nguyên tắc này: Chừng nào còn độc tài thì vẫn còn đấu tranh chống độc tài đòi dân chủ; chừng nào còn áp bức, bất công thì vẫn còn đấu tranh chống áp bức, bất công. Bởi vậy những cơn sóng ngầm vẫn ngày đêm tích lũy năng lượng để tới một ngày trào dâng nhấn chìm chế độ độc tài CSVN. Vì thế, trước bối cảnh khó khăn này, Phong trào Dân chủ Việt Nam cần phải làm gì để sớm đánh bại độc tài CSVN? Phong trào Dân chủ VN là tập hợp của rất nhiều các tổ chức chính trị, đảng chính trị, tổ chức XHDS và các cá nhân độc lập ở trong và ngoài nước. Các tổ chức, cá nhân đấu tranh phải thấy rõ được sức mạnh của truyền thông mạng xã hội. Mỗi tổ chức phải có ít nhất là 3 kênh truyền thông: Web, Youtube, Fanpage Facebook. Và phải có những cá nhân làm truyền thông suất sắc để thu hút người đọc, nghe, xem ở trong nước. Thông qua truyền thông mạng xã hội, thông qua mối quan hệ của người Việt ở hải ngoại để vận động các thế hệ người Việt ở trong nước, hình thành lên các nhóm, các tổ chức nhỏ và sau đó liên kết, liên minh lại với nhau. Thông qua mạng xã hội để vận động, tác động mạnh mẽ vào giới trẻ tại Việt Nam, giúp họ hiểu về tự do, dân chủ. Khơi dậy trong họ niềm khát khao có tự do, dân chủ. Khơi dậy trong họ lý tưởng cao đẹp là tham gia góp phần vào việc đấu tranh xóa bỏ độc tài, đem lại tự do, dân chủ cho chính họ và đất nước. Các tổ chức, cá nhân phải nghiên cứu có sáng kiến, đưa ra các giải pháp, phương pháp, cách thức đấu tranh phù hợp cho thế hệ trẻ Việt Nam. Vận động, giáo dục, đào tạo, tổ chức, lãnh đạo thế hệ trẻ Việt Nam đứng lên đấu tranh. Ở hải ngoại các tổ chức, cá nhân cần có được sách lược đấu tranh phù hợp để vận động tốt các thế hệ người Việt để họ đóng góp cho Phong trào Dân chủ Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức cần phải có sáng kiến, đưa ra các việc làm cụ thể, thiết thực, có thể đo lường được để vận động đồng bào cùng thực hiện. Ngày nay, với sức mạnh của truyền thông mạng xã hội, tiềm lực về con người và tài chính của cộng đồng người Việt tại hải ngoại thì chúng ta chỉ cần có phương pháp đấu đúng, phù hợp để vận động đồng bào tham gia. Chắc chắn, Phong trào Dân chủ Việt Nam sẽ đánh bại được chế độ độc tài CSVN để đem lại tự do, dân chủ cho Nhân dân và đất nước Việt Nam. Luật Sư Nguyễn Văn Đài  
......

Dưới góc nhìn đạo đức "của kẻ trôm cắp"!

Tịnh Nguyễn Thanh| Người phụ nữ có “khuôn mặt khả ái” trong tấm ảnh  là “Tiến sĩ” Hoàng Xuân Phương, “nguyên” Trưởng bộ môn truyền thông ứng dụng, khoa báo chí và truyền thông Trường Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thuộc Đại Học Quốc gia TP.HCM), đồng thời là “nguyên” Phó khoa quan hệ công chúng - truyền thông Trường Đại Học Dân Lập Văn Lang. Việc có thêm chữ “nguyên” trước những chức danh “rất ngầu” như trên, là bởi vì nghe nói hiện nay “nữ tiến sĩ” này đã tạm nghỉ việc ở cả hai nơi(?) sau một scandal về việc cô này đã “đạo sách” của những tác giả là người nước ngoài và bị chính tác giả tố cáo. Theo thông tin từ báo TTO, Giáo sư Jim Macnamara của Úc đã gửi email đến Trường Đại Học KHXH & NV để tố cáo “nữ tiến sĩ” có gương mặt khả ái này đã chôm 85 % nội dung bài viết mà ông đã công bố trên tạp chí quốc tế uy tín Journalism & Mass Communication Quarterly: “Đó là bài viết "Mối quan hệ giữa chuyên viên PR và nhà báo: dưới góc nhìn đạo đức truyền thông" của tác giả Hoàng Xuân Phương - Vũ Mộng Lân đăng trong cuốn sách "Báo chí và truyền thông - những thách thức và giải pháp trong xu thế phát triển hiện đại" do TS Đỗ Văn Biên - quyền giám đốc Nhà xuất bản ĐH Quốc Gia TP.HCM chịu trách nhiệm xuất bản và nội dung; khoa báo chí và truyền thông Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM) tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm tác quyền.” Thật là trơ trẽn và cực kỳ lố bịch khi ‘kẻ trộm cắp’ lại mạnh miệng rao giảng “dưới góc nhìn đạo đức”(?) Những năm gần đây, tình trạng “đạo văn”, hay nói cách khác là ‘trộm cắp tri thức’, ngày càng phổ biến trong “giới tinh hoa” tại Việt Nam. Nhiều vụ việc “đạo văn” công khai và đình đám gây ồn ào dư luận, như vụ ông Nguyễn Đức Tồn ở Viện ngôn ngữ hay “nghi án” ông Cường bí thư tỉnh ủy Đaklak, đã không được truy vấn và xử lý đến nơi đến chốn. Có lẽ chính điều này đã tạo ra những tiền lệ và là động cơ để những kẻ vô liêm sỉ tiếp tục thực hiện việc ‘đạo văn’, mà đặc biệt là ‘đánh cắp học thuật’ một cách trắng trợn, bôi nhọ hình ảnh quốc gia dưới mắt của các học giả nước ngoài, như trường hợp của nữ tiến sĩ Hoàng Xuân Phương và Vũ Mộng Lân? Cho dù “nữ tiến sĩ khả ái” này đã bào chữa một cách thiếu thuyết phục, rằng mình đã “bất cẩn” khi đứng tên đồng tác giả với Vũ Mộng Lân mà không hề kiểm tra một cách kỹ càng(?) thì cũng không thể che đậy được hành vi ‘ăn cắp’ đã quá rõ ràng. Bởi lẽ, không chỉ có bài viết nói trên bị chính tác giả là Giáo sư Jim Macnamara người Úc tố cáo, mà cuốn sách ‘PR từ chưa biết tới chuyên gia’ của tác giả Hoàng Xuân Phương, dùng làm giáo trình cho sinh viên, cũng bị tố đạo văn từ sách nước ngoài bản gốc của giáo sư Larry Litwin(!) Cũng chính “nữ tiến sĩ” này, sau những bao biện để chối bỏ lỗi lầm, đã thú nhận rằng “đây là vết nhơ trong sự nghiệp của tôi”! Nhưng, theo tôi nghĩ, đây không chỉ là “vết nhơ” trong sự nghiệp cá nhân của cô ta, mà còn là ‘vết nhơ’ của nền học thuật trong nước hiện nay? Vì vậy, đã đến lúc cần phải có ‘những biện pháp chế tài nghiêm khắc’ đối với hành vi “đạo văn”, ăn cắp học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy, đặc biệt là ở bậc đại học và sau đại học. Thậm chí, ngoài những cách “xử lý” thông thường như cách chức, buộc thôi việc... còn cần phải truy tố, bỏ tù vì tội bôi nhọ dân tộc và làm nhục quốc thể! https://tuoitre.vn/thu-hoi-sach-ve-bao-chi-va-truyen...    
......

Thoát Trung hay thoát ta ?

Luong Tu Tuan   Trước khi thoát Trung, phải thoát Ta. Ta mới chính là trở ngại lớn nhất với chính ta. Sổ toẹt mọi thứ có gắn với hai chữ "Trung Quốc" là một điều rất nông nổi. Phải thừa nhận cái giỏi của họ, và phải thấy cái dốt của mình, đến khi ấy mới tự mình gột rửa được sự u tối và tiếp thu cái hay của người.   Trung Quốc từng là một trung tâm văn minh của nhân loại trong lịch sử cổ đại. Đến giờ họ đang là nước giàu thứ hai của thế giới, quốc phòng mạnh, ảnh hưởng lớn. Cái xứ đã từng thống trị cõi Á đông này, và bây giờ vẫn còn chi phối thế giới, xứ ấy không thể chỉ có những kẻ trọc phú phàm ăn tục uống; cái xứ đã thống trị văn hóa Đông phương thủa xưa, và ngày nay vẫn có những nhà văn đoạt giải Nobel văn chương, xứ ấy không thể coi thường.   Trung Quốc, có thể ghét chứ không thể khinh. Những trầm tích văn hóa sâu trong lòng quốc gia cộng sản này đã làm nên một khuôn mặt khác mà nhiều người không biết và cũng không muốn thấy. Não trạng đầy định kiến và cực đoan theo lối "quét sạch" thì không khác gì những gì cs đã làm trên đất nước này. Không ai có thể quét được 80% vốn từ gốc Hán trong tiếng Việt đâu. Mà cũng chẳng quét để làm gì.   Cũng là cộng sản, nhưng bộ máy nhà nước TQ thông minh hơn và quản trị tốt hơn về mọi mặt. Chống cộng mà không rõ địch thì lấy gì mà chống! Nhà triết học thông thái của Anh, J. S. Mill, 150 năm trước đã khai sáng rằng, bài học lớn nhất không phải là từ bằng hữu, mà phải từ kẻ thù. Kẻ nào không học được gì từ đối thủ thì mãi chỉ sống trong thất bại mà tự mãn. Người La Mã học từ Hi Lạp, người Mãn Thanh học từ Hán tộc để trở nên hùng mạnh. Hãy xem Nhật đã học được gì từ kẻ thù Mỹ của họ để làm nên nước Nhật ngày nay.   Thái độ ngạo mạn, mục hạ vô nhân là một lối rất tốt để tự mình giam nhốt mình trong cái nhà tù tối tăm của chính mình. Lối tư duy nhị nguyên thô sơ và hẹp hòi cần bị tẩy trừ khỏi não trạng của nhiều người.   Ngày xưa, Phan Châu Trinh vì muốn thoát Pháp mà đã đề xướng hiểu Pháp và học Pháp. Ngày nay, nếu muốn "thoát Trung" thì cần phải thoát Ta trước đã. Việc nhiều người (tự) gọi là "đấu tranh dân chủ" nhưng mang lối nghĩ và lối hành xử độc đoán, phiến diện, khép kín thực chất không khác gì bản chất của người cs.   Điều ấy thực ra không phải chỉ là sản phẩm của thời này, nó là sản phẩm của đầu óc nô lệ bị thâm nhiễm từ nhiều thế kỷ phải sống trong chuyên chế bạo tàn...   P/S: Viết sau khi nhận được nhiều phản hồi từ stt "Không biết đặt tên là gì..."    
......

Ông Phùng Ngọc Khánh Cục trưởng Cục Bộ Tài chính tử vong tại cơ quan

Thanh Hieu Bui   Nhóm Báo Sạch bị bắt, một số người còm nhắc tới nhóm này từng viết bài vạch rõ những sai phạm của nhà máy nước sông Đuống do Bồ Tát Đỗ Liên làm chủ. Mới chợt nhớ ra Đỗ Liên từng tuyên bố '' những kẻ đi ngược bánh xe sẽ bị loại trừ '' Các thành viên của nhóm Báo sạch chuyên phanh phui các vụ tham nhũng ở Việt Nam. Sau nhà báo Trương Châu Hữu Danh, ba thành viên khác của nhóm cũng đã bị bắt với cáo buộc "lợi dụng quyền tụ do dân chủ" theo điều 331 của BLHS Việt Nam.   Ba hôm sau lời tuyên bố của Phật Bà Đỗ Liên, ông cục trưởng giám sát bảo hiểm Phùng Ngọc Khánh đang thanh tra vụ bảo hiểm của Đỗ Liên ngã cầu thang bộ trong trụ sở tử vong. Các báo đều đưa tin công an đang làm rõ nguyên nhân, sau không thấy nhắc đến, đặc biệt cũng không thấy chi tiết ông Khánh ngã từ cầu thang bộ tầng mấy. Ông Phùng Ngọc Khánh Cục trưởng Cục Quản lý giám sát bảo hiểm Bộ Tài chính tử vong tại cơ quan (TTO)   Khi nhà máy nước sông Đuống chuẩn bị cấp nước, nhà máy nước sông Đà bị đổ dầu thải ở nguồn nước, vụ việc điều tra ra kết quả có những kẻ đi lòng vòng mấy trăm cây số đều đến đầu nguồn nước sông Đà đổ dầu thải, trong khi số dầu này có thể bán ngay được lấy tiền cách nơi nhận dầu chỉ có chục km.   Những kẻ đi ngược bánh xe phát triển của Đỗ Liên đều bỗng dưng bị '' loại trừ '' trùng hợp theo nhiều cách khác nhau. Đúng như lời Bồ Tát Đỗ Liên đã '' tiên tri ''.   Fb Thanh Hieu Bui *** Nhóm Báo sạch bị bắt: Giấc mơ 'báo chí tự do' tan vỡ? VOA Tiếng Việt Các thành viên của nhóm Báo sạch chuyên phanh phui các vụ tham nhũng ở Việt Nam.    Sau Trương Châu Hữu Danh, các nhà báo thành viên khác của nhóm Báo sạch chuyên phanh phui các vụ tham nhũng cũng đã bị bắt, thêm một “đòn giáng mạnh vào tự do báo chí” ở Việt Nam Công an thành phố Cần Thơ hôm 20/4 khởi tố và bắt tạm giam 3 thành viên của nhóm Báo sạch để điều tra về hành vi “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 của Bộ luật Hình sự Việt Nam, hơn 4 tháng sau khi nhà báo Hữu Danh và là thành viên đầu tiên của nhóm bị bắt giữ. Việc bắt giam thêm các thành viên của nhóm, theo truyền thông trong nước, là nằm trong sự mở rộng quá trình điều tra nhà báo Hữu Danh, cũng là một Facebooker có tiếng về các đăng tải phanh phui các trạm thu phí BOT ‘bẩn’ ở Việt Nam. Nhà báo từng công tác tại báo Lao Động và Nông thôn Ngày nay, bị bắt hồi tháng 12 năm ngoái cùng với tội danh trên. Ba thành viên của nhóm Báo sạch bị Cơ quan an ninh điều tra TP Cần Thơ bắt giam hôm 20/4 gồm có Nguyễn Thanh Nhã, Đoàn Kiên Giang và Nguyễn Phước Trung Bảo, mà theo VnExpress, đều là những người từng làm việc trong các cơ quan báo chí tại TPHCM. “Không rõ là họ vi phạm cái gì và cụ thể là vì sao họ bị bắt nhưng đây là các cựu nhà báo rất được lòng người đọc vì họ đã dũng cảm viết những bài báo đấu tranh cũng như vạch trần những sai phạm của các quan chức tham nhũng ở Việt Nam,” Bùi Sơn, một kỹ sư ở Hà Nội từng theo dõi trang Báo sạch trên mạng Facebook trong những năm qua, cho VOA biết. Nhóm Báo sạch được thành lập năm 2019 sau vụ việc của doanh nghiệp Asanzo – tập đoàn điện tử được cho là bóc gỡ tem nhãn Trung Quốc và dán mác ghi xuất xứ Việt Nam – trên Tuổi Trẻ, theo Facebooker Lê Nguyễn Hương Trà cho biết trong đăng tải về vụ bắt giữ hôm 20/4. Người từng được biết tiếng qua blog Cô gái Đồ Long còn cho biết rằng các thành viên của nhóm bao gồm các nhà báo và trang Báo sạch đã “gây nhiều tiếng vang, nhanh chóng đạt được lượng theo dõi khủng.” “Những bài báo vạch trần các sai phạm của các quan chức tham nhũng ở Việt Nam (được) nhóm Báo sạch viết rất thẳng thắn và họ có những bằng chứng rất xác thực,” anh Sơn nhận định. “Sau đó khi cơ quan công an điều tra ra thì đúng là những điều Báo sạch đăng lên và đúng là các tội danh mà các quan chức tham nhũng bị bắt vướng phải.” Theo blogger Người Buôn gió Bùi Thanh Hiếu, nhóm ‘Báo Sạch’ từng viết bài vạch rõ những sai phạm của nhà máy nước sông Đuống mà sau đó truyền thông chính thống đưa tin rằng công an đã vào cuộc điều tra nguyên nhân vụ việc. Thông tin về vụ bắt giữ thêm các thành viên của nhóm Báo sạch, báo Công an Nhân dân cho biết cơ quan an ninh điều tra đã thu giữ nhiều đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án và đang “tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.” “Việc bắt gần cả nhóm chiều (ngày 20/4) gây rúng động mạnh với giới truyền thông, ngay gần kề ngày bầu cử Quốc hội 2021,” bà Hương Trà viết. Đòn giáng vào 'tự do báo chí’ Trả lời phỏng vấn VOA một ngày trước khi bị bắt hồi tháng 12 năm ngoái, ông Hữu Danh nói rằng ông thường viết về các sai phạm cụ thể của các quan chức địa phương và “không liên quan đến chế độ” hay “thể chế” để mà bị bắt giam mà thay vào đó là nên được khuyến khích. “Hiện nay Chính phủ và Đảng đang có ‘công cuộc Đốt lò’ là khuyến khích chống tiêu cực và khuyến khích người dân phát hiện ra các nhũng nhiễu, các sai phạm để đưa ra cho công chúng biết,” ông Hữu Danh nói với VOA trong cuộc phỏng vấn về việc chính quyền, thông qua các công ty công nghệ Mỹ như Facebook, kiểm duyệt nội dung của người dùng mạng xã hội ở Việt Nam, hôm 16/12/2020. “Tôi không hề vi phạm gì cả vì những bài tôi đưa ra đều có chứng cứ rõ ràng,” nhà báo này nói khi được hỏi liệu anh có sợ bị chính quyền bắt giữ vì những đăng tải mang tính chỉ trích của mình hay không. Chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “Đốt lò”, do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát động trong vài năm qua và đã đưa ra trước vành móng ngựa nhiều quan chức chính phủ cũng như những lãnh đạo các ngành dầu khí, ngân hàng, công an để xét xử về những vi phạm trong quản lý và tham nhũng. Ông Hữu Danh được nhiều người biết đến với loạt bài viết trên Facebook về khối tài sản của Bí thư tỉnh uỷ Bình Dương, Trần Văn Nam, và hàng loạt video cùng các đăng tải trên mạng xã hội về nội dung phản ánh tiêu cựu, phản đối nhiều trạm thu phí BOT ở các tỉnh thành và TPHCM. Tuy nhiên, theo VnExpress, một số hành động của ông bị cho là vi phạm pháp luật. Nhưng công an chưa công bố hành vi cụ thể về việc “vi phạm pháp luật” của nhà báo này. Cơ quan điều tra cáo buộc nhà báo này đã "lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân," một điều luật thường được chính quyền dùng để bắt các nhà báo và những người bất đồng chính kiến vì những đăng tải của họ. Theo anh Sơn, các bài báo của nhà báo Hữu Danh và nhóm Báo sạch cho người dân Việt Nam được biết đến những thông tin phản biện đa chiều, khác với truyền thông chính thống do Ban Tuyên giáo của Đảng Cộng sản kiểm duyệt. “Lần đầu tiên người đọc được xem báo ‘sạch’ mặc dù chỉ là trên (ứng dụng) Facebook nhưng nó cũng thể hiện một sự tự do báo chí nhất định khi mà trang Báo sạch đó liên tục đưa ra những vụ án tham nhũng lớn khá là lớn,” anh Sơn nói. “Sau khi nhà báo Trương Châu Hữu Danh bị bắt và trang Báo sạch bị đóng thì người đọc giờ đây không còn một kênh nào khác để tham khảo về các thông tin thời sự.” Trang Facebook của Báo sạch đã đóng ngay sau khi thành viên đầu tiên của nhóm, nhà báo Hữu Danh, bị bắt hôm 17/12/2020. Theo anh Sơn, việc bắt giam các thành viên nhóm Báo sạch là “một đòn giáng mạnh vào ước mơ và mong ước được có một nền báo chí tự do của người dân Việt Nam.” Việt Nam, theo đánh giá mới được tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) đưa ra hôm 20/4, là một trong số 6 quốc gia, trong đó có Trung Quốc và Triều Tiên, có ít tự do báo chí nhất trên thế giới. Bảng Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới 2021 của RSF xếp Việt Nam hạng 175 trong số 180 nước, nằm trong nhóm các quốc gia được coi là có “tình trạng rất tồi tệ” đối với tự do báo chí. Các thành viên của nhóm Báo sạch nằm trong số nhiều nhà báo bị chính quyền bắt giam và kết án nhiều năm tù trong thời gian gần đây. Theo thống kê của RSF đưa ra ngay trước khi thêm 3 thành viên của nhóm Báo sạch bị bắt, tổng cộng có hơn 30 nhà báo và blogger hiện đang bị giam giữ tại các nhà tù của Việt Nam. Thống kê thường niên của RSF đưa ra hồi tháng 12 năm ngoái cho thấy Việt Nam nằm trong số 5 quốc gia trên thế giới bỏ tù nhà báo nhiều nhất. Các tổ chức ủng hộ nhân quyền và dân chủ quốc tế đã cáo buộc Việt Nam tăng cường đàn áp các tiếng nói bất đồng và kiểm duyệt trên mạng trong năm ngoái và đầu năm nay, quanh thời gian Đại hội Đảng 13 và kỳ bầu cử Quốc hội khóa 15, dự kiến diễn ra trong tháng sau. “Sau một thời gian chính phủ kiểm duyệt rất gắt gao, hầu hết các tiếng nói (phản biện) không còn được tự do thoải mái như trước và tôi cảm thấy một tương lai u ám cho tự do báo chí ở Việt Nam,” anh Sơn nói. Theo anh Sơn, chính phủ Việt Nam, thay vì dùng quyền lực và công an để trừng phạt các ý kiến trái chiều thì nên dùng “quyền tự do ngôn luận” để phản biện các tiếng nói chỉ trích chính phủ. Có như vậy, xã hội mới phát triển, theo anh Sơn. Tân Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên sau khi Quốc hội kiện toàn nhân sự hôm 15/4, kêu gọi “từng thành viên Chính phủ phải gương mẫu, thực sự khiêm tốn, cầu thị, lắng nghe ý kiến nhiều chiều, nhất là các ý kiến phản biện.”./.  
......

‘Ý kiến phản biện’: Một tai nghe, một tai hóng…

Hoàng Trường – VOA   Trong một kịch bản xấu hơn, tân Thủ tướng Phạm Minh Chính có thể bị gán cho là “chơi trội”, thậm chí mang tiếng là “tiếm quyền”. Số người tự nhận là thức thời thì cho rằng, thay vì hoài nghi hay tích cực hưởng ứng, chúng ta cứ nên “một tai nghe, một tai hóng”. *** Tối 20/4/2021 (giờ VN), VTV1 đưa tin Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 45/NQ-CP về phiên họp triển khai công việc của Chính phủ sau khi được kiện toàn tại Kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa 14. Cả trong bản tin của Ban Thời sự VTV1 (vỏn vẹn hơn 600 từ) lẫn trong toàn văn Nghị quyết số 45 (dài hơn 4.000 từ), dường như không còn bóng dáng phát biểu của tân Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi thành viên chính phủ hãy lắng nghe các ý kiến phản biện. Chẳng biết đâu mà lần Trước đó, sáng 15/4/2021, chủ trì phiên họp đầu tiên sau khi Chính phủ kiện toàn các thành viên, đọc đến hơn 1/3 bài phát biểu dài xấp xỉ 2.700 từ, tân Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Từng thành viên Chính phủ phải gương mẫu, thực sự khiêm tốn, cầu thị, lắng nghe ý kiến nhiều chiều, nhất là các ý kiến phản biện”. Việc tướng Công an Phạm Minh Chính bật đèn xanh cho “ý kiến nhiều chiều, nhất là ý kiến phản biện” trong bài đít-cua đầu tiên, tại phiên họp ra mắt chính phủ, lan nhanh như một tin nóng: “chạch đẻ ngọn đa”. Phản ứng đầu tiên của đa số trí thức “trùm chăn” là cảnh giác. “Rung trà cá nhảy đấy mà” – Mẹo vặt của một tướng an ninh muốn phát hiện ý thức chống đối từ trong trứng nước để “tìm và diệt”. Số bán tín bán nghi ít hơn thì phấp phỏng: “Không biết ổng làm gì thế cho tốn công sức. Hồ sơ trong văn phòng tướng Tô Lâm đã có đầy đủ tên tuổi, các phát biểu từ trước đến nay của cả trí thức ‘phản biện lề phải lẫn lề trái’. Một số trong bọn họ đã/đang dính vào “chuyên án”, số khác thì ngấp nghé. Nhưng nếu bắt hết tất cả đám này thì lấy đâu chỗ mà chứa!” Cũng có người dạn dĩ và lạc quan hơn lại tin ngay rằng, có thể tân Thủ tướng sẵn sàng lắng nghe và biết đâu sẽ có đối thoại sau khi ông lãnh hội hết các ý kiến phản biện ấy. Dù sao mặc lòng, phải thừa nhận một cách khách quan, ông Chính, dù thật lòng hay chỉ để “diễn”, đang tiệm cận tới “làn ranh đỏ” mong manh. Chưa bao giờ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lẫn cái Đảng của ông cho phép người dân – trí thức lại càng không – đến gần sân chơi có tên gọi khó chịu là “phản biện” hay “đối thoại”. Trong khi đó, nếu hưởng ứng lời kêu gọi của ông Chính, các trí thức chân chính và xã hội dân sự trong nước có thể sẽ giúp lành mạnh hoá một phần thể chế toàn trị hiện nay. Tuy nhiên, xu hướng lành mạnh hoá ấy có khi lại gây hại cho cái sứ mệnh đứng đầu nội các của ông tân Thủ tướng. Thậm chí trong một kịch bản xấu hơn, ông Chính có thể sẽ bị gán cho là “chơi trội”, thậm chí mang tiếng là “tiếm quyền”. Số trí thực tự nhận là am hiểu thời cuộc thì cho rằng, thay vì hoài nghi hay tích cực hưởng ứng, chúng ta cứ nên “một tai nghe, một tai hóng”. Đọc “Nguyễn Phú Trọng bật đèn xanh, Nguyễn Văn Nên vờn Lê Thanh Hải” (Ngọc Thảo – Thoibao.de), hoặc “Tình ‘đồng chí’ và chiến dịch ‘đốt lò’” (Jackhammer Nguyễn – Tiếng Dân), lại nữa “Tân Thủ tướng Phạm Minh Chính và “Lằn ranh đỏ mong manh” (TS. Phạm Quý Thọ – RFA)… nghe hình như có “tiếng gươm khua, tiếng trống kêu xé lòng” từ trong các bài viết gan ruột ấy. “Gươm khua” loảng xoảng vì nó hao hao các câu chuyện thảo khấu bên Tàu. “Tiếng kêu xé lòng”, vì cả dân tình lẫn doanh nghiệp đều đang “điêu linh” trong mùa Covid Vũ Hán mà các bậc “phụ mẫu” vẫn chưa thôi cơn “can qua” chẳng biết dẫn về đâu. Liên hệ đến các câu chuyện “kiếm hiệp” bên Tàu hàm ý, nói cho cùng, các cuộc đấu đá nội bộ của Hà Nội dầu sao cũng không thể vượt qua vòng kềm toả từ Bắc Kinh. Có chăng năng lực trực thăng? Dẫu sao phát biểu nói trên của Phạm Minh Chính đã/đang dấy lên một hiện tượng truyền thông hiếm thấy, nhất là khi Đại hội 13 và Quốc hội 14 đã bị lãng quên dần. Bản thân “cái đuôi” của Quốc hội 14 là ngày hội (hay phường chèo?) của các cuộc bầu cử tréo ngoe, dềnh dàng và tốn kém tiền thuế của dân trong tháng tới, chẳng mấy ai để ý. Vậy thì sau khi châm ngòi, liệu cái pháo “phản biện” của ông Chính sẽ là con pháo “lép” hay chiếc pháo “đùng”? Dẫu là “lép” hay “đùng”, dư luận đều tập trung vào cái gọi là “năng lực trực thăng” của vị tân Thủ tướng. Lưu Trọng Văn bình luận trên FB: “Lằn ranh của luật pháp Việt Nam không thật rõ ràng giữa phản biện và chống đối. Chính vì không có lằn ranh này, nhiều người dân muốn đất nước tốt lên, chế độ đẹp lên do bức xúc trước hiện trạng của đất nước đã gay gắt, thậm chí có phần cực đoan phê phán cái xấu, cái sai của chế độ, đã bị quy kết là chống chế độ”. Là tướng an ninh, hẳn nhiên ông Chính biết nhiều công dân đang bị tù đày vì sự nhập nhằng làn ranh pháp lý. Nếu thực sự “giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”, ông Chính có dám đề xuất đặc xá đối với một loạt vụ án “bỏ túi” nhân dịp 30/4? Phát ngôn của ông Chính về “ý kiến phản biện” được ghi nhận dường như tương phản hoàn toàn với việc nhà cầm quyền vừa mới bắt giam bà Nguyễn Thúy Hạnh, blogger thường đăng ý kiến chỉ trích nhà cầm quyền về việc phạt tù giới tranh đấu, chỉ hai ngày sau khi ông Chính tuyên thệ nhậm chức. Tiếp đó, nhà cầm quyền còn bắt ông Lê Chí Thành, một cựu đại úy công an, người được ghi nhận làm video clip “trái chiều” về cảnh sát giao thông. Các báo ở Việt Nam khi đưa tin vụ bắt giữ cũng cố tình tránh né chi tiết ông Thành là trường hợp thứ ba bị bắt giữ, vì tự ứng cử “đại biểu Quốc hội”. Phải chăng tất cả những chỉ dấu này là sự “phát tiết” ra ngoài cái thần thái “anh minh” của tân Thủ tướng? Chỉ riêng chuyển này thôi, đủ thấy ông Chính có vẻ như sẽ đụng độ với ông Tô Lâm. Nhưng việc khủng bố xã hội dân sự thật ra đâu phải là chủ trương của một mình đại tướng Tô Lâm! Vậy ông Chính thách thức quyền lực của ai tiếp theo đây? Nói đến vòng đấu tiếp theo với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì xem ra hơi sớm, thậm chí là còn quá sớm. Ông Nguyễn Phú Trọng là người thù dai và rất hám danh. Ông muốn bản thân ông trở thành nhân vật được sùng bái như cố Chủ tịch Hồ Chí Minh là điều ai cũng thấy. Một chính khách giàu thủ đoạn như ông Chính không thể mắc sai lầm sơ đẳng như thế được. Phải chăng kêu gọi lắng nghe “ý kiến phản biện” là nói. Trái lại, tiếp tục bắt người có ý kiến trái chiều là làm. Nói và làm là hai việc khác nhau. Không thể đem nhập vào làm một. Tuy nhiên, nếu không vậy thì làm thế nào mà lời của cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu thành “chân lý” được: “Đừng nghe những gì cộng sản nói…” Thật vậy “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Mượn ý ông Hồ Chí Minh phát biểu trong một ngữ cảnh khác!)./.  
......

Giật mình con số 42% người thất nghiệp là thanh niên

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân| Ngày 5 tháng Tư vừa qua, báo Tuổi Trẻ đăng lại một báo cáo vào năm 2019 của Tổng Cục Thống Kê về điều tra lao động và việc làm, theo đó Việt Nam có 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm. Trong số này, có 42,1% là thanh niên tuổi từ 15 đến 25, tương đương 466.000 thanh niên đang trong tình trạng thất nghiệp. Đây là một tỷ lệ làm cho người ta phải giật mình, vì so ra nó cao gấp 6 lần tỷ lệ thất nghiệp của những người từ 25 tuổi trở lên. Việt Nam có câu “thanh niên là rường cột của nước nhà.” Câu nói này gần như là chân lý, trong hai ý nghĩa thời chiến và thời bình. Trong thời chiến, thanh niên là thành phần nồng cốt nhất trực tiếp đem xương máu ra bảo vệ tổ quốc trước mọi cuộc xâm lăng từ bên ngoài. Điều này được chứng minh rất nhiều lần qua những cuộc chinh chiến cam go qua nhiều thế hệ. Thời bình, cũng chính tầng lớp thanh niên sẵn sàng đem ý chí và sức lực tuổi trẻ để kiến thiết quốc gia, phát triển đất nước và xã hội. Đó là tầng lớp đầy năng lực, có kiến thức nên sự đóng góp của họ phần lớn là để xây dựng một xã hội văn minh, phú cường về tinh thần cũng như vật chất. Nhưng muốn tập thể thanh niên làm được nhiệm vụ này, chính quyền của bất cứ quốc gia nào cũng phải trang bị cho họ một nền tảng giáo dục căn bản, đủ để phát triển về thể chất và trí tuệ. Và nhất là phải nhìn thấy rõ thanh niên là tấng lớp có trách nhiệm với đất nước và xã hội họ đang sống. Ở đây chúng ta không cần đề cập hay bàn về số lượng người thất nghiệp của Việt Nam, vì thống kê của các nước xã hội chủ nghĩa không bao giờ chính xác, do nhu cầu phục vụ chính trị. Chúng ta nên nhìn trên hiện tượng “thanh niên thất nghiệp” để từ đó nhận diện ra bản chất của vấn đề. Trước hết, con số 42% thanh niên trong lứa tuổi từ 15 đến 25 thất nghiệp cho thấy một điều mâu thuẫn đáng lo ngại. Thật sự đó là độ tuổi chưa phải bươn chải lao động kiếm sống theo nghĩa bình thường mà là lứa tuổi phải được đến trường học tập, rèn luyện trước về kiến thức tổng quát cũng như chuyên môn. Thế mà thế hệ thanh niên ấy phải sớm rời ghế nhà trường bước vào môi trường lao động để kiếm sống. Nó cũng cho thấy một cách rõ ràng sự thất bại và bế tắc của nền giáo dục chân chính là xây dựng một thế hệ tương lai đủ sức gánh vác trách nhiệm kiến tạo đất nước. Mặt khác, những thành phần trẻ tuổi từ 15 đến 25 thất nghiệp cao hơn người lớn tuổi còn minh chứng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng gia công. Nói cách khác, đó là sử dụng lao động không cần tay nghề mà Bộ Lao Động Việt Nam gộp chung vào nhóm lao động phổ thông. Trong môi trường ấy, sức chịu khó và sự chăm chỉ trong công việc của những người trẻ làm sao so sánh được với công nhân lớn tuổi có tay nghề. Vậy là sau hơn 30 năm mở cửa với hàng trăm tỷ đô-la tài trợ của nước ngoài, Việt Nam vẫn loay hoay ở ngưỡng làm công bằng sức lao động chân tay hơn là chú trọng phát triển nhân dụng theo nền kinh tế vận dụng trí óc. Không thể nói gì khác hơn đây là sự thiếu trách nhiệm của những người lãnh đạo. Một xã hội mà tỷ lệ thanh niên thất nghiệp cao cho thấy họ không được chính quyền quan tâm giáo dục, đào tạo, huấn luyện và nhất là uốn nắn theo một định hướng phát triển quốc gia có chiều sâu. Vậy làm sao và chờ đợi gì vào những sự đột phá trong tương lai để Việt Nam trở thành quốc gia có mức phát triển cao? Hiện nay lãnh đạo Việt Nam đang lên đồng tập thể về vụ chuyển đổi số, coi đây là lá bùa thiêng với khả năng thần thánh. Nói một cách đơn giản là chính quyền và xã hội phải chạy theo công nghệ Internet do Bộ 4T phát động rầm rộ bằng những lời bay bổng trên mây. Họ mong ước chuyển đổi số sẽ là bước đột phá ngoạn mục để Việt Nam hóa rồng vào năm 2045 theo chỉ tiêu đảng CSVN đề ra trong văn kiện đại hội đảng lần thứ XIII. Câu hỏi đặt ra là nếu Việt Nam hóa rồng nhờ chuyển đổi số thì liệu tình trạng 42% thanh niên thất nghiệp có được giải quyết tốt đẹp không? Hay con số 42% ấy lại gia tăng khi chuyển đổi số chỉ tập trung sử dụng vào một số nhân sự có đủ trình độ vì được may mắn đi học. Vì thế, nguyên nhân gây ra con số 42% thanh niên thất nghiệp, về căn bản không phải do nền kinh tế quá khó khăn hay trì trệ mà chính là do nền giáo dục và những định hướng về phát triển kinh tế của nhà cầm quyền CSVN không ăn nhập gì đến sự mong muốn hay quan tâm của người dân. Đó mới là bài toán chính và cấp bách cần phải giải quyết. Phạm Nhật Bình  
......

Bạn nên cảm thấy bị Sabeco xúc phạm!

  Nguyễn Tiến Tường|     Ông Nguyễn Phương Du mua một két bia Sài Gòn đỏ, khi khui ra uống thì phát hiện bên trong chai chỉ còn một nửa lượng nước nồng nặc mùi hôi thối, trong két bia còn thêm một chai nữa bên trong chai chỉ còn một phần nước. Ông Du khởi kiện sản phẩm của SABECO, cụ thể là chai bia chỉ có ¼ chất lỏng, nhãn hiệu Sài Gòn Export.   Ông Du khởi kiện ra tòa yêu cầu bồi thường 10.500 đồng giá trị chai bia; 39,8 triệu đồng tiền tổn thất tinh thần và 23 tỷ đồng bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.   Đa phần chúng ta đều cho rằng 23 tỷ là quá đáng. Thưa rằng, trong một vụ kiện văn minh, quá đáng hay không quá đáng đều do quan toà cầm cân. Vả lại, ông Du đòi 23 tỷ mà nếu thắng ông sẽ chuyển số tiền này qua Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng TP.HCM. Nghĩa rằng ông có tâm hơn cả những hiệp hội kia, những người đáng lẽ phải có mặt từ đầu để bảo vệ người dùng.   Trong một vụ kiện văn minh, khi toà bác yêu cầu của nguyên đơn, nghĩa là gián tiếp công nhận Sabeco đúng.   Nhưng khi Sabeco đề nghị chuyển cơ quan điều tra, họ không còn là một bị đơn văn minh nữa. Họ đang cố biểu thị sức mạnh của trọc phú lắm tiền. Hãy lưu ý rằng, đã có kết quả giám định của phiên toà dân sự.   Với động thái này, họ mặc định ông Du không còn là một khách hàng, mà là một người dựng kịch bản làm tiền doanh nghiệp. Mặc cho ngay từ đầu ông Du chọn giải pháp quang minh chính đại.   Chọn cách này, Sabeco đã tự biến mình thành Tân Hiệp Phát như vụ con ruồi. Họ cần một sự đe nẹt để đánh chặn các vụ việc tương tự, mà theo họ nghĩ là dàn xếp làm tiền doanh nghiệp.   Có nghĩa rằng trong mắt họ, bất cứ người Việt nào cũng có thể đang ở trong tư thế ám hại họ. Mặc cho trăm triệu người Việt đang mỗi ngày mỗi ngày làm cho khối tài sản của họ kếch xù lên.   Bạn nên cảm thấy bị Sabeco xúc phạm, vì một người Việt văn minh lẻ loi lên tiếng vì chính bạn đang bị Sabeco phỉ báng. Và bạn cần càng cảm thấy bị Sabeco xúc phạm vì tư duy kim tiền ám muội này được hình thành từ chính sự đóng góp của bạn.   Nếu thấy bị xúc phạm, bạn chỉ cần xoá Sabeco khỏi tâm trí và dạ dày của mình!  
......

Vài chiêu gây sốt đất

Luong Tu Tuan Giá đất tăng đột biến mà không có cơ sở từ sự phát triển thực chất của nền kinh tế sẽ gây hậu họa lâu dài và thảm khốc. Điều này tôi đã viết trong một stt cách đây mươi ngày. Nhưng nhiều người vẫn băn khoăn vì sao giá đất bỗng bị thổi lên khủng khiếp như thế. Tôi sống ở vùng sốt đất, quan sát và thấy vài độc chiêu của giới buôn bán BĐS như sau: 1. Đội quân tác chiến. Một số người nhiều tiền sẽ tập hợp lại thành một đội (gọi là cò cấp 1) với số vốn có thể lên tới nhiều trăm tỉ, thậm chí ngàn tỉ và đi càn quét. Họ đến những vùng đất đang bình yên và tung tiền mua, và sẵn sàng mua cao hơn giá thị trường, đồng tiền làm các chủ vườn lóa mắt và lập tức bán đi. Trên một tuyến đường vài chục cây số, đội quân này sẽ mua ồ ạt từ đầu cho tới cuối đường. Cả một khu vực sẽ bị khuấy động, xôn xao và náo loạn. Sau đó họ bắt đầu bán lại, bắt đầu từ cuối đường, mà là bán cho chính đồng bọn của mình với giá chênh lệch lớn. Họ sẽ quần đảo, mua đi bán lại cho chính họ trong trong một thời gian với tốc độ giao dịch và tăng giá chóng mặt. Điều này làm dân tình một lần nữa bị cuốn vào vì “làm giàu không khó”. Lúc này, dân và cò đất địa phương không thể ngồi im được nữa và bắt đầu vung tiền mua lại đất. Họ sẽ bán, tất nhiên là với giá có thể đã lên tới gấp đôi ba lần giá lúc mua. Họ bán từ cuối đường đến đầu đường, và biến mất khi đất đã được bán lại hết. Lúc này, các “nhà đầu cơ” địa phương bỗng thấy mọi thứ trở nên im ắng đáng sợ. Họ ngơ ngác ngồi ôm mớ đất bị mua với giá cắt cổ mà không biết bán cho ai. Chiêu này cũng có thể được thực hiện bởi một tay đại gia ngàn tỉ nào đó khuynh loát mà không cần đến việc “tập hợp lực lượng”. 2. Gà què ăn quẩn cối xay. Sau khi những người đầu cơ (gọi là cò cấp 2) đã ôm đất với giá đắt phi thực tế ở trên rồi, tất nhiên họ sẽ không thể ngồi im chờ chết. Chiến dịch 2 sẽ được tung ra. Họ sẽ mua và bán lại cho nhau cùng với những thông tin quy hoạch, dự án hư hư thực thực do chính họ phao ra. Họ cứ mua bán như vậy trong một thời gian, tất nhiên với tiền lời không lớn nữa. Việc này khiến dân đen dần yên tâm, và lao vào làm cò cùng đầu cơ đất (gọi là cò cấp 3). Đối tượng cò cấp 3 – cò con - này sẽ là những người cuối cùng dính chưởng. Tiền dùng để mua đất có thể là tiền vay ngân hàng, vay anh em bạn bè, vay nóng của xã hội đen. Bắt đầu từ thời điểm này những rối loạn xã hội sẽ bộc lộ, và ngày càng điêu linh. Người ôm đất thì không có tiền, người muốn mua ở thì giá quá đắt, đất đai nằm chết, sản xuất đình trệ, đòi nợ khắp nơi… 3. Buôn chính sách. Có những quan chức lớn sẽ tiến hành “làm quy hoạch” hoặc “bẻ cong quy hoạch”. Người có quyền sẽ vẽ quy hoạch và thu mua đất hoặc vẽ vào nơi ông ta đang có nhiều đất. Và việc tiếp theo chỉ là bán đất ấy đi với giá trên trời. Nếu là đại gia thì sẽ bắt tay với quan lớn để làm quy hoạch, và bước tiếp theo cũng là bán đất. Những dự án quy hoạch kiểu này thì hậu họa khôn lường, chúng ta chỉ cần hình dung vài phút là ra hết tính chất thê thảm của nó. Chiêu này thì báo chí nhà nước đã nêu nhiều. Người ta gọi là “tham nhũng chính sách”. Nếu không có một chính sách quản lý đất đai tốt mà để thả nổi tình trạng tự phát cho giới đầu cơ tự tung tự tác như vậy thì không những nền kinh tế sẽ bị làm hư hoại mà đời sống của nhân dân và an sinh xã hội cũng sẽ bị đảo lộn, điêu đứng. Dứt khoát không được xem nhẹ tình trạng sốt đất đang diễn ra trên toàn quốc như hiện nay, mà phải thấy đó là một sự báo động về sự hỗn loạn và đe dọa to lớn đối với xã hội. Hiện nay, nhiều vùng quê yên bình trên khắp cả nước đang bị quậy tưng lên bằng những cách như thế. Nhà nước phải lập tức có phương án để ngăn ngừa nếu không muốn phải chứng kiến những thảm họa sắp sửa./. Thái Hạo    
......

Vì sao ngành đường sắt Việt Nam có nguy cơ phá sản?

  Thao Ngoc   Người Pháp sang Việt Nam cai trị 80 năm, không biết đã khai thác được những gì, nhưng đã để lại trên đất nước VN nhiều công trình xây dựng rất có giá trị.   Như cầu Long Biên, Trường Chu Văn An, Nhà hát lớn Hà Nội, Nhà thờ lớn Hà Nội, Bảo tang lịch sử, Bưu điện Bờ Hồ, Ga Hà Nội.v.v.   Những công trình này thể hiện trình độ xây dựng của người Pháp đứng hàng đầu thế giới, để lại trong lòng người dân VN những ấn tượng khó phai.   Về giao thông có hai công trình nổi bật nhất, là Quốc lộ 1 Bắc-Nam và Đường sắt Bắc-Nam.   Ngành Đường sắt Việt Nam(ĐSVN) ra đời năm 1881 theo công nghệ đường sắt của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Sau khi xây dựng một số tuyến đường sắt như Hà Nội - Đồng Đăng; Hà Nội - Hải Phòng,Hà Nội - Lào Cai, Tháp Chàm – Đà Lạt; Sài Gòn - Lộc Ninh   Năm 1899-1936, Pháp xây dựng xong tuyến Đường sắt Bắc Nam, từ Hà Nội đến Sài Gòn dài 1.730 km, có 9 hầm chui xuyên núi và hàng trăm chiếc cầu lớn nhỏ khác. Trong đó cầu Long Biên dài 2290m, xây dựng năm 1902,là niềm tự hào của người Hà Nội một thời.   Đặc biệt là cầu Hàm Rồng(Thanh Hóa)cũ do Pháp xây dựng năm 1904, là cầu vòm thép không có trụ ở giữa. Cầu này bị Việt Minh phá hủy năm 1946. Năm 1964, Việt Nam không thể xây cầu vòm thép như cũ, mà phải dời hàng cây số dựa vào hai hòn núi hai bên và sông hẹp hơn mới xây được cầu có trụ đỡ 2 nhịp.   Thế nhưng đã hàng trăm năm qua, ngồi hưởng thụ một công trình đã có sẵn do người Pháp để lại, ĐSVN không cải tiến được chút nào, hệ thống đường ray 1m lạc hậu như cũ, làm ăn bết bát và ngày càng tụt hậu và thất thu toàn diện.   Tờ VTNews ra ngày 14.4/2021 có bài: “Đường sắt Việt Nam nguy cơ phá sản vì bị ‘đẩy đến bước đường cùng’ Theo đó: “Ngành đường sắt đang ở trong giai đoạn hết sức khó khăn, nguy cơ phá sản do những vướng mắc về kinh phí bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt không được tháo gỡ”. (https://vtc.vn/duong-sat-viet-nam-nguy-co-pha-san-vi-bi...)   Vậy ai đã đẩy ngành ĐS VN đến bước đường cùng, có nguy cơ “Xuống Hố Cả Nút”?   Việt Nam từng là một trong nhiều nước sớm có hệ thống đường sắt hiện đại. Năm 1994, có vị lãnh đạo từng “nổ”trên báo Sài Gòn Giải Phóng rằng, đến năm 2010, ĐSVN sẽ đuổi kịp trình độ đường sắt Nhật Bản hiện nay! Nhưng nay mọi sự đã khác. Phải khẳng định rằng, sự yếu kém của ngành đường sắt là do độc quyền kéo dài. Mặc dù yếu kém, nhưng ĐSVN vẫn không muốn từ bỏ độc quyền.   Những ngành độc quyền khác như xăng dầu, điện, nước…muốn tăng bao nhiêu thì tăng, người dân không còn sự lựa chọn nào khác. Còn về đường sắt thì một khi giá thành cao mà chất lượng phục vụ tồi, thì người dân có nhiều lựa chọn khác, như đi máy bay, xe đò.v.v.. Vì vị thế độc quyền, nên ĐSVN thiếu động lực nâng cao chất lượng, giảm giá thành, dẫn đến thị phần giảm.   Cụ thể:Năm 2010, có 11,2 triệu khách đi tàu hỏa thì đến năm 2017 con số này chỉ còn 9,5 triệu lượt. Thị phần vận tải đường sắt giai đoạn 2010 - 2017 đã giảm mạnh khi vận tải hành khách ngành đường sắt giảm từ 0,48% xuống 0,23% . Tương tự, thị phần vận tải hàng hóa của ĐSVN cũng giảm từ 0,97% xuống 0,39%.   Ở nước ngoài, đường sắt có vị trí cạnh tranh rất lớn so với các phương thức vận tải khác khi nó có năng lực chuyên chở lớn về hàng hoá, người và phương tiện. Còn ở nước ta, lâu nay phát triển đường sắt bỏ quên nó phải kết nối với đường bộ, và cảng biển, vì vậy đường sắt không thể phát huy lợi thế vận tải vốn có.   Điều lạ lùng là:Trong khi đường sắt yếu kém không cải tổ, thậm chí không muốn cải tổ bằng việc loại bỏ độc quyền thì lại có ý kiến đề xuất, chủ trương xây dựng đường sắt cao tốc như Nhật Bản, trị giá 56 tỷ USD.   Mặc dù được thừa hưởng nhiều tiềm lực có sẵn, có hệ thống, có cơ sở vật chất và ưu tiên của nhà nước, song đến nay ĐSVN là ngành có năng lực yếu nhất, không xứng đáng trong chuỗi phát triển của Việt Nam; chưa nói gì đến việc so sánh với nước ngoài.   Cùng với đó là việc tàu chạy chậm,chật chội, chen chúc, người không mua vé nhưng qua nhân viên nhà ga cũng lên tàu, dịch vụ kém, hàng hóa chặt chém cắt cổ. Rồi hàng năm, cứ đến Tết là phải mua vé chợ đen, giá vé xe lửa mà đắt ngang ngửa giá vé máy bay, còn tốc độ thì rùa bò. Lắp đặt nhà vệ sinh cho 821 toa tàu, nhưng hành khách không dám sử dụng vì bẩn thỉu, hôi thối. Chi 232 triệu cho một cái bồn vệ sinh bằng inox trên tàu, thì ĐSVN không chết mới lạ.   Đó là những cái thòng lọng, bức tử ngành ĐSVN.   Có một điểm đáng lưu ý là thiên hạ chẳng có mấy người bất bình và xót xa cho ĐSVN. Nhiều ý kiến cho rằng: Cứ để cho ĐSVN phá sản, tổ chức đấu giá, giao cho tư nhân quản lý – điều hành, mọi thứ sẽ tốt hơn.   Chẳng những không bảo dưỡng nâng cấp và phát triển được đường sắt Bắc-Nam có sẵn, mà tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt dài 84 km cũng bị khai tử. Đường sắt này được khởi công năm 1908, qua nhiều công đoạn, năm 1932 mới hoàn chỉnh toàn tuyến, mở ra tiềm năng du lịch to lớn cho “thành phố ngàn hoa”. Để qua được đèo dốc người ta phải thiết kế những bánh răng cưa lắp thêm vào trong đầu máy. Tuyến đường có 16 km đường sắt răng cưa, vượt độ cao 1.500m trên mực nước biển với độ dốc thường xuyên 12%. Vượt qua 5 hầm, có hầm dài đến 600m và nhiều cầu xe lửa khác. Một kỳ công của thế kỷ 20.   Vậy mà sau 1975, những kẻ tự cho mình là bên thắng cuộc, tự cho mình là đỉnh cao trí tuệ nhân loại, vì tham lam mấy đồng tiền lẻ, đã giải tán bán sắt vụn, mà không biết rằng hành động đó là một tội ác với lịch sử và với nhân dân.   Đó chính là kết quả của những đầu óc thiên tài và đạo đức sáng ngời, cũng là thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.   Thao Ngoc 20/4
......

Một thứ tư duy bần tiện

.. Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến nói rằng thu phí người nuôi bệnh là hợp lý vì sử dụng điện nước của bệnh viện. Nguyễn Tiến Tường Nói thật với ông, nó không những không hợp lý mà còn ti tiện ! Nói thật với thứ trưởng Tiến, chẳng có nơi nào mà làm người ta chán sống bằng bệnh viện công xứ mình. Ngoài những toa thuốc đắng ngoét, rất dễ nảy nòi một tâm bệnh. Vì có bệnh hay không có bệnh đều mang một mặc cảm thân phận khi phải sống trong một điều kiện gần như không phải cho người. Người bệnh lay lắt trong bệnh viện công, đa số nghèo. Nhiều người nghèo xác xơ phải ăn cơm từ thiện cầm hơi. Thân nhân bỏ ruộng vườn cầm nhà cửa lê lết bên lề bệnh viện ngày này qua tháng khác, có lành bệnh cũng kiệt quệ về kinh tế. Trong bối cảnh đó, bệnh viện toan tính với người ta từng đồng xu cắc bạc, ra tấm ra món là chó cắn áo rách, vừa tham vừa ác. BOT bẩn còn không thu tiền xe cấp cứu, các ông lại muốn ăn giày ăn tất ăn cả đất xung quanh. Đương nhiên, nghèo không phải là lá bùa để quăng ra thoái thác. Cứ coi như người nuôi bệnh trả tiền dịch vụ sinh hoạt. Thì dịch vụ ấy là những gì? Là một khoảng bê tông hoặc ghế đá, là những cái toilet đậm đặc mùi xú uế tởm lợm. Nói thật với ông Tiến, nếu người bệnh được nằm trong cái phòng sạch trắng tinh tươm. Mỗi ngày y tá hộ lý thay tả bóp vai, tặng hoa hoặc hát cho nghe như trong phim Mỹ, thì thân nhân người ta vạ vật ở đó làm gì? Cũng vì bệnh viện không chăm, không làm được công tác tâm lý, thậm chí còn quát mắng hạch hoẹ, nên người ta mới phải bấu víu vào nhau. Đến cả cái thang máy nhiều lúc cũng không được dùng. Toilet các ông cũng dùng riêng như cách ly người với súc vật thì không thể nói là thu phí dịch vụ được trừ khi các ông nhập chung vào và không phân biệt đối xử. Một cái chỗ đi tắm còn không có mà thu tiền dịch vụ là không công bằng. Các ông lấy lý do bệnh viện quá tải để thu. Vậy người bệnh ba bốn người một giường, nằm tràn ra cả hành lang, các ông có trừ tiền dịch vụ không? Tôi nghĩ là không. Người bệnh và thân nhân nằm thoi thóp ở hành lang mà các ông thu hai suất dịch vụ, lương tâm các ông có bị cắn rứt không? Ông Tiến lại bảo bệnh viện tự chủ chi phí nên phải thu. Như thế là trước giờ bệnh viện lỗ là do mất khoản thu tiền tiểu đại tiện của dân à thưa ông? Trước giờ không hoắng, có chủ trương tự chủ tài chính là các ông giảy nảy như đĩa phải vôi vậy? Có phải trước đây trợ giá nên đầu này các ông báo lỗ, làm Chí Phèo rạch mặt ăn vạ ngân sách, đầu kia làm Bá Kiến lạm thu nhân dân. Nên bây giờ các ông sợ lòi sự thật ra đúng không? Dù bất cứ lý do gì, ông Tiến ạ, một cái tư duy nhắm vào nhu cầu tối thiểu của con người để kiếm doanh thu. Thì chỉ có thể gọi là bần tiện !
......

“Chống đảng Cộng sản và nhà nước, chỉ có thể là tâm thần”.

Joseph Brodsky nhacsituankhanh| Hầu như ai yêu văn chương, cũng đều biết đến nhà thơ người Nga, gốc Do Thái Joseph Brodsky. Đến Mỹ từ đầu thập niên 70, Brodsky trở thành một trong những biểu tượng hàng đầu về ngôn ngữ thi ca. Nhiều giải thưởng quốc tế trao cho ông để vinh danh, trong suốt một thời gian dài, cao quý nhất là Nobel Văn chương năm 1987. Cho tới khi Brodsky qua đời (1996), đa số giới phê bình vẫn đồng quan điểm rằng ba nhân vật quan trọng hàng đầu, là Joseph Brodsky, Octavia Paz và Gabriel Garcia Marquez đã kiến tạo nên sự đẹp đẽ của ngôn ngữ thi ca văn chương thế kỷ 20. Ấy vậy mà, ít ai tưởng tượng được, trong thời kỳ sống và sáng tác ở Liên Xô, Brodsky bị mật vụ đưa vào các trại tâm thần, chỉ vì ông có đường lối sáng tác riêng, cũng như không khuất phục các yêu cầu tư tưởng từ lãnh đạo chính trị. Bị kết án là phi lao động và là thành phần có tư tưởng phản Xô-viết, Brodsky ra tòa vào tháng 3-1964, và bị đưa vào trại tâm thần, bên cạnh việc lao động cưỡng bức. Một nhân vật kiệt xuất của loài người như Joseph Brodsky, mà cũng bị đưa vào trại cưỡng bức điều trị tâm thần, thì có lẽ không còn ai sống trong chế độ cộng sản có đủ nhân tính, đủ tỉnh táo lại được tự do bên ngoài.ư   Trong một lần trả lời phỏng vấn ở Mỹ, sau khi định cư, nhà thơ Brodsky kể rằng mình bị giam trong phòng riêng ở trại tâm thần, và được y tá đến tiêm những loại thuốc ‘an thần’ không tên. Nếu kháng cự, ông sẽ bị trói vào giường và được chụp hình lại để làm bằng chứng trong hồ sơ về mức độ nguy hiểm của giai đoạn tâm thần. Brodsky thường bị đánh thức vào nửa đêm, các bác sĩ và y tá “điều trị tâm thần” dẫn ông đi, xịt nước và bắt ngâm mình trong bồn nước lạnh. Từ thời Josef V. Stalin, việc đẩy các tù nhân chính trị vào trại tâm thần để cách ly với xã hội khá phổ biến, nhưng đến thập niên 60, thời của tổng bí thư Leonid Brezhnev, tâm thần được biến hóa thành một công cụ hoàn chỉnh để loại bỏ các đối thủ chính trị  hay những người bất đồng chính kiến, hoặc thậm chí với những người dám công khai bày tỏ sự mâu thuẫn với giáo điều cộng sản. Trong tiếng Nga, có chữ Psikhushka (психу́шка), mà hầu hết những người có hiểu biết về chế độ cộng sản đều nhớ đến nó như một nỗi ám ảnh. Trong thời đại cưỡng ép mọi người phải cúi đầu trước chủ nghĩa Marx-Lenin và bạo quyền, toàn cõi Liên Xô khi nhắc về Psikhushka, là nhắc những trại tù tâm thần, với đủ các trò tra tấn để hủy diệt con người không chịu khuất phục. Thậm chí, các cuộc tranh luận về tính thực tế của lý thuyết Marx, Lenin… trên báo chí hay các diễn đàn, người thắng cuộc phản biện cũng có thể bị đưa vào nhà thương điên, với chẩn đoán chuẩn mực Xô viết, là những kẻ philosophical intoxication – bị ngộ độc triết học, và cần phải được chạy chữa. Mikhail I. Buyanov, bác sĩ tâm thần và thần kinh học, viết trong cuộc khảo sát lịch sử về tâm thần học của Liên Xô sau khi hệ thống này tan rã, do Uchitelskaya Gazeta xuất bản, viết rằng “các nhà lãnh đạo thỏa thuận với nhau về nội dung: ở đất nước chúng tôi không có những người bất đồng chính kiến ​​- chỉ có những người tâm thần mất trí hay vi phạm pháp luật”. Đến thời của Nikita S. Khrushchev, lời giải thích chính thức kèm theo, trở thành câu nói cửa miệng của giới công an, là “không một người lành mạnh nào chống lại chủ nghĩa xã hội”. Lịch sử vẫn ghi lại rõ tội ác của những kẻ thủ ác, từ những trại tập trung của Phát xít Đức trong đệ nhị thế chiến, cho đến vụ thảm sát dân thường ở Hungary vào năm 1956 của Hồng quân Liên Xô. Thế nhưng ghi chép về các âm mưu biến người bất đồng chính kiến thành các bệnh nhân tâm thần trong thời chiến tranh lạnh, chưa bao giờ tỏ rõ được hết sự man rợ của các nhà lãnh đạo cộng sản. Đặc biệt trong đó có sự hợp tác của các bác sĩ được gọi là chuyên gia tâm thần. Sau này, trong cuốn State of Madness: Psychiatry, Literature, and Dissent After Stalin (tạm dịch: Tình trạng cuồng điên: Tâm thần học, Văn chương và Bất đồng chính kiến thời sau Stalin), tác giả Rebecca Reich gọi các loại bác sĩ đó là những nhà viết kịch bản đại tài để bỏ tù những người bất đồng chính kiến.   Chẳng hạn như với trường hợp của nhà thơ Joseph Brodsky, không có hồ sơ bệnh án nào. Nhưng từ phán quyết của Snezhnevsky, một bác sĩ “chính trị tâm thần” lừng danh trong thời Xô-viết, đã trở thành mệnh lệnh trước tòa để quyết định đưa Brodsky đi “điều trị tâm thần”. Ông này đã nói rằng “nhìn Brodsky là biết có bệnh tâm thần phân liệt”,  và Snezhnevsky kết luận rằng “anh ta không phải là một người có giá trị gì cả và nên cho đi vào trại tâm thần”. Lúc đó, Joseph Brodsky chưa đến 24 tuổi. Liên Xô được coi là văn minh nhất, vì có cả những tòa án xét tội tâm thần. Tại tòa, Brodsky bị đại diện Viện kiểm sát kết án là “đã không thực hiện được nghĩa vụ hiến định của mình là làm việc lương thiện vì lợi ích của Tổ quốc”. Khi ấy, ông bị chất vấn “ai cho phép anh xưng là nhà thơ, ai cho phép anh tự mình đứng vào hàng ngũ các nhà thơ?”‘ – “Không ai cả”, Brodsky trả lời, “Vậy ai đã ghi danh tôi vào hàng ngũ loài người?”. Sau cuộc đối chất đó, Joseph Brodsky bị kết án 5 năm, vừa chữa tâm thần, vừa cải tạo lao động cưỡng bức 5 năm tại tỉnh Arkhalgelsk, miền bắc nước Nga. Tài liệu điều tra của nhà nghiên cứu Benjamin Zajicek (The Psychopharmacological Revolution in the USSR: Schizophrenia Treatment and the Thaw in Soviet Psychiatry, 1954–64), phát hiện rằng vào những năm 1950 và 1960, sự ra đời của các loại dược phẩm tâm thần mạnh mẽ, đặc biệt là Chlorpromazine (Thorazine), các bác sĩ “chính trị tâm thần” Liên Xô đã lạm dụng với tên Aminazine, và sử dụng tùy tiện nơi các tù nhân chính trị, các nhân vật bất đồng chính kiến. Thậm chí, Liên Xô còn hợp thức hóa việc điều trị chuyên biệt ở bệnh viện, sang điều trị ‘hỗ trợ’ trong cộng đồng, tức một người nào bị tạm giam 1 hay 4 tháng để điều tra ở bất kỳ đồn công an nào, họ cũng có thể bị ép hoặc lừa dùng thuốc này, để thao túng lời khai hay trạng thái của người bị giam giữ. Tài liệu này cũng ghi nhận, ít nhất sau 12 tháng điều trị, nếu thấy thể chất của người bị áp dụng thuốc vẫn tốt, thường liều lượng được tăng lên gấp 2 hoặc gấp 4 lần, để phục vụ việc ra tòa hoặc kết thúc nhanh sự vụ. Việc cưỡng bức điều trị tâm thần ở Liên Xô bị tố cáo trong các kỳ Đại hội của Hiệp hội Tâm thần Thế giới ở Mexico City (1971), Hawaii (1977), Vienna (1983) và Athens (1989), gây ra thiệt hại không thể cứu vãn đối với uy tín của nền y học Liên Xô. Thậm chí năm 1974, nhà tranh đấu Vladimir Bukovsky và bác sĩ tâm thần bị giam giữ Semyon Gluzman đã cùng viết cuốn Cẩm nang hướng dẫn đối phó về việc bị cưỡng bức điều trị tâm thần cho những người bất đồng chính kiến, cung cấp cho các nạn nhân tiềm năng của bệnh “tâm thần vì chính trị”, hướng dẫn cách cư xử trong quá trình điều tra để tránh bị chẩn đoán là bệnh tâm thần.   Sự việc bùng nổ hơn vào năm 1968, khi nhà ngôn ngữ học Viktor Isaakovich Fainberg, nhân vật nổi bật của phong trào bất đồng chính kiến ​​ở Liên Xô, cùng 6 người bạn của mình biểu tình ở Quảng trường Đỏ phản đối Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc, qua đó khởi phát Chiến dịch chống lạm dụng tâm thần. Về vấn nạn cưỡng ép người khác biệt quan điểm chính trị hay hoạt động xã hội vào trại tâm thần, có thể được xem Liên Xô là anh cả, kế đến là Trung Quốc và nhiều nước cộng sản đàn em khác. Thập niên 2000, việc đưa vào trại tâm thần được áp dụng nhiều ở Trung Quốc và các nước cộng sản và độc tài, vì rất tiện lợi: không cần ra tòa, chỉ cần có công an và bác sĩ thỏa hiệp với nhau. Nhưng khác với thời chiến tranh lạnh, giờ đây, hành động đó hiển nhiên được coi là tội ác chống loài người, dù được ngụy trang với bất kỳ vỏ bọc nào. Năm 1996, nhà thơ Joseph Brodsky qua đời tại căn hộ của mình ở Brooklyn Heights, New York. Sau đó ít lâu, Vladimir Radunsky, một họa sĩ Nga hâm mộ ông, đến làm một bia mộ, trên đó có dòng chữ tiếng Latin “Letum non omnia finit” (Chết chưa là hết). Diễn ngôn này mô tả danh tiếng của Brodsky, nhưng có lẽ cũng nhắc cho mọi người nhớ, nhà thơ vĩ đại này ra đi, nhưng ký ức về loại tội ác với con người của chế độ cộng sản, mà ông là một trường hợp, sẽ luôn được ghi nhớ.  
......

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân

Le Anh Ngày 30-4-1975, sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện vẫn chiến đấu đến 11 giờ trưa ngày 1/5/1975, Đại Tá Cẩn bị Việt cộng bắt và áp giải giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện.   Ngày 14/8/1975, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ. Trước khi bị bắn, ông khẳng khái tuyên bố: “Tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn, hãy để cho tôi mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối”. CSVN đã từ chối lời yêu cầu của Đại tá Cẩn.   Tuy nhiên, Việt cộng chấp thuận không bịt mắt ông theo lời ông yêu cầu.   “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt. Đả đảo Cộng Sản. Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm”.   Đó là lời nói sau cùng của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn trước khi bị hành hình.   Xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh Đại Tá, một anh hùng Vị Quốc Vong Thân.   ANH HÙNG TỬ, KHÍ HÙNG BẤT TỬ!   "Những ai đã chết vì sông núi, Sẽ sống muôn đời với núi sông". Xem thêm - http://www.viettin.de/content/t%C6%B0%E1%BB%9Fng-nh%E1%BB%9B-%C4%91%E1%BA%A1i-t%C3%A1-h%E1%BB%93-ng%E1%BB%8Dc-c%E1%BA%A9n-g%C6%B0%C6%A1ng-anh-h%C3%B9ng-v%E1%BB%8B-qu%E1%BB%91c-vong-th%C3%A2n ***   ĐẠI TÁ HỒ NGỌC CẨN, ANH HÙNG VỊ QUỐC VONG THÂN   Phạm Phong Dinh     Tên tuổi của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã bắt đầu lừng lẫy từ khi ông còn là một sĩ quan cấp Úy phục vụ trong binh chủng Mũ Nâu Biệt Động Quân ở Miền Tây. Các cấp chỉ huy Biệt Động Quân trong thời điểm đầu những năm 1960 đã để ý nhiều đến tân Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đội Trưởng BĐQ, về những hành động quả cảm đến phi thường trong những cuộc giao tranh. Người Trung Đội Trưởng trẻ mới có 22 tuổi đời đã đứng xõng lưng dẫn quân Mũ Nâu xung phong lên đánh những trận long trời trên chiến trường đồng bằng sông Cửu Long. Những chiếc lon mới nở nhanh theo cùng với những chiến thắng. Chỉ trong vòng bốn năm, Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn đã được vinh thăng lên đến cấp bậc Đại Úy và được điều về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 33 của Sư Đoàn 21 Bộ Binh "Tia Sét Miền Tây". Lúc đó trên lãnh thổ Vùng 4 Chiến Thuật đã nổi lên những khuôn mặt chiến binh dũng mãnh mà đã đƯợc ca tụng là những con mãnh hổ miền Tây, Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn có vinh dự nằm trong số năm vị này. Những vị còn lại gồm những tên tuổi như sau:   - Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Dần, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân. - Thiếu Tá Lê Văn Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 31, SĐ21BB. - Thiếu Tá Vương Văn Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 33, SĐ21BB.   Thật ra bản danh sách này chỉ có tính cách ước lệ và tượng trưng, đâu phải một Miền Tây rộng bát ngát mà chỉ có vỏn vẹn có năm người hùng. Mỗi người lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng được vinh danh là những anh hùng, vì những đóng góp máu xương quá lớn cho tổ quốc.   Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24.3.1938 tại xã Vĩnh Thạnh Vân, Rạch Giá. Thân phụ của ông là một hạ sĩ quan phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (danh xưng của quân đội trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Đại Tá Cẩn không may sinh ra và lớn lên trong thời buổi chiến tranh, nên khi lên bảy tuổi ông sắp sửa cắp sách đến trường, thì chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, việc học của ông bị gián đoạn. Mãi hai năm sau, tức vào năm 1947 ông mới được đi học lại, sau khi tình hình ở các thành phố trở lại yên tĩnh, quân Việt Minh rút về các chiến khu, quân Pháp chiếm đóng các thành phố. Cậu bé Cẩn học muộn đến những hai năm, khi ông học tiểu học được bốn năm thì thân sinh của cậu quyết định xin cho cậu nhập học Trường Thiếu Sinh Quân Gia Định. Có lẽ vị thân sinh của người đã nhìn thấy được những dấu hiệu, những nảy nở của tinh thần và ý hướng, mà sau này sẽ hướng người vào con đường binh nghiệp, sẽ làm nên những công nghiệp lớn có ích lợi cho đất nước   Cuộc đời đèn sách trễ nải của chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn, lúc này đã 17 tuổi, đã ngáng bước đi lên về mặt văn hóa. Theo học quy của Trường Thiếu Sinh Quân, một học sinh ở độ tuổi 17 chưa học xong Đệ Ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. Vì vậy chàng thiếu niên Hồ Ngọc Cẩn được trường gửi lên Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức học khóa chuyên môn CC1 Vũ Khí. Trong lớp văn hóa hồi ở Trường TSQ, ông chỉ ở mức trung bình, nhưng sau ba tháng học ở Thủ Đức, chàng trai trẻ lại đậu hạng ưu. Ông được cho học thêm khóa chuyên môn vũ khí bậc nhì CC2. Sau khóa học này ông quyết định đăng vào phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, với cấp bậc Binh Nhì. Theo quy chế dành cho các Thiếu Sinh Quân, thì ba tháng sau, Binh Nhì Hồ Ngọc Cẩn sẽ được thăng lên Hạ Sĩ, ba tháng kế tiếp được lên Hạ Sĩ Nhất và ba tháng sau nữa được thăng Trung Sĩ. Trong vòng chín tháng kế tiếp, với khả năng ưu hạng về môn vũ khí, Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được chọn làm huấn luyện viên vũ khí cho trường.   Cuộc đời làm huấn luyện của ông những tưởng êm đềm trôi và tài năng quân sự của người sẽ bị mai một trong một ngôi trường khiêm tốn. Nhưng định mệnh đã dành cho người anh hùng một vị trí xứng đáng trong quân đội và những cơ hội thi thố tài năng, mà sau này được mọi người truyền tụng lại như là những huyền thoại, để phục vụ và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quân sự ngày càng nghiêm trọng cho một quốc gia non trẻ và một quân đội còn tập tễnh kinh nghiệm chiến đấu, sĩ quan chỉ huy thiếu hụt. Bộ Quốc Phòng quyết định mở các khóa Sĩ Quan Đặc Biệt bắt đầu từ năm 1962 để cung cấp thêm sĩ quan có khả năng cho chiến trường và nâng đỡ những Hạ Sĩ Quan có ước vọng thăng tiến. Một may mắn lớn cho Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn, mà cũng là may mắn cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, một cựu Thiếu Sinh Quân, đã nâng đỡ cho các đàn em TSQ. Những Thiếu Sinh Quân không hội đủ năm năm quân vụ và có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp vẫn được cho đi học Khóa Sĩ Quan Đặc Biệt. Hơn nữa, dường như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đại Tướng Lê Văn Tỵ có mật lệnh, các tân Chuẩn Úy xuất thân từ Thiếu Sinh Quân đều được đưa về các binh chủng thiện chiến hay đặc biệt như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Quân Báo, An Ninh Quân Đội, Lực Lượng Đặc Biệt. Tổng Thống Diệm và Đại Tướng Tỵ cũng không quên gửi những Thiếu Sinh Quân tốt nghiệp Tú Tài vào học các Trường Cao Đẳng Sư Phạm và Y Khoa để có nhân tài phục vụ xã hội và huấn luyện lại cho những thế hệ tuổi trẻ kế tiếp. Đặc biệt nhiều Thiếu Sinh Quân cũng được cho vào học Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt để làm nền tảng cho cái xương sống chỉ huy chuyên nghiệp trong hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa.   Trung Sĩ Hồ Ngọc Cẩn được cho theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Hạ Sĩ Quan QLVNCH, Đồng Đế, Nha Trang. Các tân Chuẩn Úy Đặc Biệt, trong đó có Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn tung cánh đại bàng bay đi khắp bốn phương và sau này đã trở thành những sĩ quan tài giỏi nhất của quân lực, lưu danh quân sử. Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn được thuyên chuyển về Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật Miền Tây, sau một khóa học Rừng Núi Sình Lầy của binh chủng Mũ Nâu. Lúc đó các đại đội BĐQ biệt lập theo lệnh của TT Diệm, đã được cải tổ và sát nhập thành các tiểu đoàn. Khu 42 Chiến Thuật gồm lãnh thổ các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu và An Xuyên, có hai tiểu đoàn BĐQ, mà lại là hai tiểu đoàn lừng lẫy nhất của binh chủng. Đó là Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân "Cọp Ba Đầu Rằn", và Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân "Cọp Xám". Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn nhận sự vụ lệnh trình diện Tiểu Đoàn 42 BĐQ và làm Trung Đội Trưởng. Khả năng quân sự thiên bẩm, tài chỉ huy và sự chiến đấu hết sức gan dạ của Chuẩn Úy Cẩn, mà đã đem nhiều chiến thắng vang dội về cho TĐ42BĐQ, được thăng cấp đặc cách nhiều lần tại mặt trận, đã nhanh chóng xác nhận Trung Úy tân thăng   Hồ Ngọc Cẩn có khả năng chỉ huy tiểu đoàn. Trung Úy Cẩn được bổ nhiệm làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42BĐQ, đặt dưới quyền chỉ huy của một chiến binh lừng lẫy và nhiều huyền thoại không kém gì Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn. Thiếu Tá Lưu Trọng Kiệt, xuất thân từ Sư Đoàn 21 Bộ Binh, với tác phong chiến đấu dũng cảm làm quân giặc kiêng sợ và thuộc cấp kính phục. Cung cách đánh giặc như vũ bão của Trung Úy Cẩn còn được nhân lên thập bội, khi lời yêu cầu của ông lên cấp chỉ huy xin cho các chiến binh gốc Thiếu Sinh Quân được về chiến đấu chung với ông. Lời yêu cầu này được thỏa mãn một phần, nhưng cũng đủ để cho Trung Úy Cẩn có thêm được sức mạnh cần thiết. Có lần ông tâm sự với một người bạn lý do này: "Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu Thiếu Sinh Quân này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng, mà chúng nó lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng nó về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những gì mà quân trường không dạy. Hai là truyền thống của tôi khi ra trận là chết thì chết chứ không lùi. Vì vậy cần phải có một số người giống mình, thì đánh nhau mới đã. Bọn cựu Thiếu Sinh Quân đều như tôi".   Một câu chuyện dũng cảm và cảm động khác kể về Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Bộ Binh tại mặt trận An Lộc năm 1972. Trong khi quân của Trung Đoàn 15 thuộc Sư Đoàn 9 Bộ Binh bị pháo địch nã hàng ngàn quả ghìm đầu xuống trong những hố cá nhân bên đường Quốc Lộ 13 gần thị xã An Lộc, thì binh sĩ trung đoàn ngạc nhiên lẫn cảm kích khi thấy vị Trung Đoàn Trưởng của họ dẫn vài người lính cũng quả cảm như vị chỉ huy điềm tĩnh đi thẳng lưng dưới cơn hỏa pháo cường kích như bão lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt từ công sự này sang hố chiến đấu kia thăm hỏi chiến sĩ, an ủi các chiến thương và khích lệ tinh thần binh sĩ. Chiến binh Hồ Ngọc Cẩn coi thường cái chết, mà dường như cái chết cũng sợ hãi và tránh xa con người kiệt xuất ấy. Định mệnh sẽ dành cho người một cái chết cao cả nhất, ít nhất cũng chưa phải là trong mùa hè đỏ lửa của năm 1972. Dường như giữa Trung Tá Cẩn và cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí có rất nhiều chất hào hùng quả cảm giống như nhau. Đại Tướng Đỗ Cao Trí thường nói với các phóng viên ngoại quốc đi trong cánh quân của người, khi họ tỏ lòng khâm phục người chiến binh Nhảy Dù ấy đã đứng giơ cao khẩu súng Browning thúc giục binh sĩ tiến lên, giữa những làn đạn đan chéo như vải trấu của địch quân: "Nếu đạn không trúng mình thì mình được tiếng anh hùng, mà nếu đạn có trúng thì mình cũng được tiếng anh hùng luôn"!   Các loại pháo địch từ 122ly đến 130ly, chưa kể đến những loại cối 81ly và các loại súng đại bác không giật 75 ly và 90 ly dội hàng chục ngàn quả lên vị trí của quân ta. Quân Trung Đoàn 15 đánh lên An Lộc dọc theo QL13 từ Tân Khai tiến rất chậm vì đạn pháo giặc. Để tránh bị thiệt hại nặng, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn đã lệnh cho binh sĩ mỗi người đào một hố nhỏ như những cái "miệng ve" để ẩn trú. Nếu pháo dội trúng cái "miệng ve" nào, thì chỉ một chiến sĩ ở chỗ đó bị tử thương mà thôi. Trong một khoảng chiến tuyến mỗi chiều bề dài 300 thước, có hàng mấy trăm cái hố nhỏ, mấy ngàn quả pháo của cộng quân dội xuống, tính trung bình mỗi mét vuông lãnh vài trái. Nếu tính theo lý thuyết toán học thì mỗi chiến sĩ Trung Đoàn "ăn" từ hai trái lấy lên, và như vậy toàn bộ trung đoàn coi như chết hết. Nhưng thật kỳ diệu, chiến thuật "cò ỉa miệng ve" của quân ta lại cứu sống hàng ngàn sinh mạng chiến sĩ. Dứt cơn pháo địch, chiến sĩ ta nhú đầu lên điểm danh quân số, thì thấy rằng, nhờ ơn trời, rất ít chiến thương. Tuy nhiên khi quân Trung Đoàn 15 tiến quân trên QL13 và giao chiến với quân địch, thì con số thương vong lên rất cao. Có nhiều đại đội trên 100 người, khi tàn cuộc chiến trở về Quân Khu IV chỉ còn khoảng ba chục chiến sĩ.   Ở phía Nam Tân Khai, Sư Đoàn 21 Bộ Binh cũng bị thiệt hại nặng vì pháo, nhiều sĩ quan cao cấp bị tử thương. Trung Đoàn Trưởng của một trung đoàn là Trung Tá Nguyễn Viết Cần và một vị Trung Tá Trung Đoàn Phó của một trung đoàn khác hy sinh vì pháo địch quá ác liệt. Trung Tá Nguyễn Viết Cần chính là bào đệ của cố Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh. Ông xuất thân từ binh chủng Mũ Đỏ Nhảy Dù, con đường binh nghiệp đang có nhiều triển vọng đi lên thì ông bị liên can trong vụ thuộc cấp ngộ sát hai Quân Cảnh Mỹ tại Sài Gòn. Thiếu Tá Cần bị thuyên chuyển về SĐ 21 BB, ít lâu sau ông thăng Trung Tá và nắm trung đoàn. Cuối cùng thì dòng họ Nguyễn Viết đã cống hiến cho đất nước đến hai người con ưu tú. Theo lời kể lại của Đại Úy Tiến, một vị Tiểu Đoàn Phó của Trung Đoàn 15 Bộ Binh lên An Lộc tham chiến, thì Trung Tá Cẩn đã lệnh cho ông phải đứng lên điều động binh sĩ giữa lúc đạn pháo giặc dội như bão xuống các vị trí Trung Đoàn. Tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Trung Đoàn đều phải nêu gương dũng cảm cho thuộc cấp và chiến sĩ, để cùng xông lên giải cứu An Lộc. Vì những chiến công ngoài chiến trường, tính đến năm 1970 thì Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn là chiến sĩ được tưởng thưởng nhiều huy chương nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với 78 chiếc của gồm 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 3 Chiến Thương Bội Tinh và 4 Huy Chương Hoa Kỳ.   Sau khi trở về từ An Lộc, Trung Đoàn 15 Bộ Binh còn tăng viện cho các trung đoàn bạn và Sư Đoàn 7 Bộ Binh đánh những trận long trời ở miền biên giới Việt-Miên, các tỉnh bờ Bắc sông Tiền Giang. Những tổn thất và vết thương còn chưa hồi phục từ chiến trường Miền Đông, lại vỡ toác ra từng mảnh lớn khác. Nhưng có sá gì chuyện tử sinh, làm thân chiến sĩ thì người lính của chúng ta chỉ biết tận lực hiến dâng xương máu cho nền tự do của tổ quốc và cho niềm hạnh phúc của dân tộc. Một lần nữa, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được trao cho một chức vụ trọng yếu và hết sức khó khăn, khó có ai đảm đương nổi. Ông sẽ đi trấn nhậm tỉnh Chương Thiện, một tỉnh có địa hình phức tạp nhất vùng đồng lầy Miền Tây, với cái gai nhọn nhức nhối mật khu U Minh Thượng trong lãnh thổ, từ đó quân Bắc Việt và Việt Cộng phóng ra những cuộc đánh phá lớn, uy hiếp các quận xã hẻo lánh. Chọn Đại Tá Cẩn về trấn giữ tỉnh Chương Thiện, vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV biết chắc Đại Tá Cẩn cùng với lực lượng Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thiện chiến của ông sẽ ít nhất hóa giải được áp lực giặc, không cho chúng tiến xuống Cần Thơ. Giữ vững được Chương Thiện tức là bảo đảm an toàn cho lãnh thổ Quân Khu IV ở bờ Nam sông Hậu Giang.   Trong thời gian Đại Tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện, nhiều huyền thoại khác về ông đã được kể lại. Đại Tá Cẩn chẳng những là một nhà quân sự xuất chúng, mà còn là một nhà cai trị và bình định tài ba. Một ngày trước khi ông nhận bàn giao tỉnh Chương Thiện, Đại Tá Cẩn đã ăn mặc thường phục, giả dạng thường dân đi thanh tra ngầm một vòng tỉnh lỵ Vị Thanh. Ông vào các sòng bài, những nơi nhận tiền đánh số đề và những ổ điếm quan sát.   Ngày hôm sau, khi đã chính thức là vị Tỉnh Trưởng Chương Thiện, Đại Tá Cẩn cho gọi người Thiếu Tá Trưởng Ty Cảnh Sát tỉnh đến cật vấn nghiêm khắc về những tệ đoan xã hội trong tỉnh, rồi lập tức cách chức ông này. Thay vào đó là Trung Tá Đường, một vị sĩ quan mẫn cán và tài năng. Trung Tá Đường là cánh tay mặt vững chãi của Đại Tá trong lĩnh vực bình định, xã hội và truy bắt bọn Việt Cộng hoạt động dầy đặc trong tỉnh. Bọn cộng phỉ rất căm thù Trung Tá Đường, đến nỗi sau ngày 30.4.1975, chúng bắt được Trung Tá Đường, chỉ giam giữ ông một thời gian ngắn rồi đem ông ra xử bắn tại Vị Thanh. Cùng đền ơn tổ quốc với Trung Tá Đường còn có Đại Úy Bé, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Thám Báo Tỉnh. Đại Úy Bé đã làm điêu đứng bọn giặc cộng, với những chiến sĩ Thám Báo nhảy sâu vào hậu cứ địch báo cáo tin tức, địch tình, cũng như tọa độ trú quân để Không Quân, Pháo Binh dội những cơn bão lửa lên đầu chúng. Trung Tá Đường và Đại Úy Bé bị giặc tàn nhẫn bắn chết tại chân cầu dẫn vào thành phố Vị Thanh.   Có một ông Quận Trưởng nọ, muốn cho chi khu của mình được an toàn tối đa, chiều nào cũng xin Pháo Binh tiểu khu yểm trợ hỏa lực, nại lý do Việt Cộng pháo kích hay tấn công. Đại Tá Cẩn thỏa mãn tối đa và được báo cáo là quận bị thiệt hại một kho xăng và kho lương thực. Đại Tá tin thật, ông lệnh cho sĩ quan Trưởng Phòng 3 chuẩn bị xe Jeep đi xuống quận. Buổi chiều chạng vạng trên những con đường đất hoang vắng rợn người ở vùng quê Chương Thiện mà vị Tỉnh Trưởng trẻ của chúng ta dám đi xe Jeep cùng với một vài người lính, chỉ có những chiến binh dũng cảm như Đại Tá Cẩn mới làm được. Ông Quận Trưởng đang nằm trên võng rung đùi uống Martell hoảng kinh ngồi bật dậy mặt mũi tái xanh đứng nghiêm chào vị Tỉnh Trưởng đầy huyền thoại. Đại Tá Cẩn đi thẳng xuống Trung Tâm Hành Quân của Chi Khu xem bản đồ và ra lệnh cho ông Quận: "Tôi muốn những ấp loại C sau ba tháng được nâng lên loại B. Những ấp loại B sau ba tháng phải được nâng lên loại A". Ngài Quận Trưởng tạm ngưng uống rượu và làm việc trối chết. Đại Tá Cẩn không trừng trị tội xao nhãng nhiệm vụ của ông Quận, nhưng cung cách độ lượng và cương quyết của Đại Tá Cẩn giống như lưỡi gươm trừng phạt treo đung đưa trên đầu. Đúng ba tháng sau, nhận được báo cáo khả quan của vị Quận Trưởng, Đại Tá Cẩn lại xuống quận ngủ đêm, sau khi đã trân trọng gắn lon mới tưởng thưởng cho ông này. Nếu tất cả 44 tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa đều có những vị Tỉnh Trưởng can đảm, mẫn cán và tài ba như Đại Tá Cẩn, làm sao giang sơn hoa gấm của tổ tiên của chúng ta có thể lọt vào tay bọn cộng nô tay sai Nga Tàu dễ dàng như vậy được. Chúng ta cũng được biết rằng, Đại Tá Cẩn là vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Ông nhận chức vụ này hồi năm 1973, lúc ông mới có 35 tuổi.   Những đóng góp và hy sinh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn lao và nhiều không sao có thể kể được hết, suốt một đời người đã tận tụy với nước non, danh tiếng lừng lẫy và nắm giữ những chức vụ khó khăn, mà người vẫn khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Một người bạn cũ trong một dịp gặp lại Đại Tá Cẩn ở Cần Thơ vào mùa hè 1974, đã hỏi ông: "Anh từng là Trung Đoàn Trưởng, hiện làm Tỉnh Trưởng, anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm Tư Lệnh sư đoàn không"? Con người danh tiếng lừng lẫy trên các chiến trường đã khiêm tốn trả lời: "Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi, mình phải biết liêm sỉ chớ, coi sư đoàn sao được. Làm Tỉnh Trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi Trường Thiếu Sinh Quân, hoặc coi các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi đã trải qua". Ôi cao cả biết ngần nào tấm chân tình với nước non và với thế hệ chiến binh đàn em của người. Con người chân chính để lại cho hậu thế những lời khí khái.   Cuối cùng thì cái ngày tang thương 30.4.1975 của đất nước cũng đến. Dân tộc Việt Nam được chứng kiến những cái chết bi tráng hào hùng của những vị thần tướng nước Nam, của những sĩ quan các cấp còn chưa được biết và nhắc nhở tới. Và của những người chiến sĩ vô danh, một đời tận tụy vì nước non, những đôi vai nhỏ bé gánh vác cả một sức nặng kinh khiếp của chiến tranh. Sinh mệnh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cũng bị cuốn theo cơn lốc ai oán của vận mệnh đất nước. Chu vi phòng thủ của Tiểu Khu Chương Thiện co cụm dần, quân giặc hung hăng đưa quân tràn vào vây chặt lấy bốn phía. Những chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân của Chương Thiện nghiến răng ghì chặt tay súng, quyết một lòng liều sinh tử với vị chủ tướng anh hùng của mình. Đại Tá Cẩn nhớ lại lời đanh thép của ông: "Chết thì chết chứ không lùi". Ông tự biết những khoảnh khắc của cuộc đời mình cũng co ngắn lại dần theo với chu vi chiến tuyến. Ông nhớ lại những ngày sình lầy với Biệt Động Quân, những ngày lên An Lộc với chiến sĩ Sư Đoàn 9 Bộ Binh đi trong cơn bão lửa ngửa nghiêng, những lúc cùng chiến sĩ Sư Đoàn 21 Bộ Binh đi lùng giặc trong những vùng rừng U Minh hoang dã, và những chuỗi ngày chung vai chiến đấu với chiến sĩ Địa Phương Quân-Nghĩa Quân thân thiết và dũng mãnh của ông trên những cánh đồng Chương Thiện hoang dã. Hơn ba trăm trận chiến đấu, nhưng chưa lần nào ông và chiến sĩ của ông phải đương đầu với một cuộc chiến cuối cùng khó khăn đến như thế này.   Khoảng hơn 9 giờ tối ngày 30.4.1975, gần nửa ngày sau khi Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng, Đại Tá Cẩn cố liên lạc về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV xin lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Người trả lời ông lại là phu nhân Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Đại Tá Cẩn ngơ ngác không biết chuyện hệ trọng nào mà đã đưa Bà Hưng lên văn phòng Bộ Tư Lệnh. Bà Hưng áp sát ống nghe vào tai, bà nghe có nhiều tiếng súng lớn nhỏ nổ ầm ầm từ phía Đại Tá Cẩn. Như vậy là Tiểu Khu Chương Thiện vẫn còn đang chiến đấu ác liệt và không tuân lệnh hàng cùa tướng Minh. Trước đó, khoảng 8 G 45 phút tối 30.4.1975 Thiếu Tướng Lê Văn Hưng đã nổ súng tử tiết, Thiếu Tướng Nam đang đi thăm chiến sĩ và thương bệnh binh lần cuối cùng trong Quân Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi người tự sát ngay trong đêm. Bà Thiếu Tướng Hưng biết Đại Tá Cẩn kiên quyết chiến đấu đến cùng, thà chết không hàng, vì đó là tính cách thiên bẩm của người chiến sĩ Hồ Ngọc Cẩn. Nếu có chết thì Đại Tá Cẩn phải chết hào hùng, trong danh dự của một người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa công chính. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cùng các sĩ quan trong Ban Chỉ Huy Tiểu Khu và các chiến sĩ Tiểu Khu Chương Thiện đã đánh một trận tuyệt vọng nhưng lừng lẫy nhất trong chiến sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đánh tới viên đạn và giọt máu cuối cùng và đành sa cơ giữa vòng vây của bầy lang sói. Cuộc chiến đấu kéo dài đến 11 giờ trưa ngày 1.5.1975, quân ta không còn gì để bắn nữa, Đại Tá Cẩn lệnh cho thuộc cấp buông súng. Khi những người lính Cộng chỉa súng vào hầm chỉ huy Tiểu Khu Chương Thiện, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, vị Trung Úy tùy viên và các sĩ quan tham mưu, hạ sĩ quan và binh sĩ tùng sự đều có mặt. Một viên chỉ huy Việt Cộng tên Năm Thanh hùng hổ chĩa khẩu K 54 vào đầu Đại Tá Cẩn dữ dằn gằn giọng:"Anh Cẩn, tội anh đáng chết vì những gì anh đã gây ra cho chúng tôi". Đại Tá Cẩn cười nhạt không trả lời.   Cộng Sản Việt Nam hèn hạ dùng nhục hình để xử tử hình Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ngày 14-8-1975.   Nhưng bọn cộng phỉ không giết ông ngay, chúng đã có kế hoạch làm nhục người anh hùng sa cơ nhưng cứng cỏi của chúng ta. Các sĩ quan tham mưu được cho về nhà, nhưng Đại Tá Cẩn thì không, địch áp giải ông sang giam trong Ty Cảnh Sát Chương Thiện. Vài ngày sau, các sĩ quan Tiểu Khu Chương Thiện cũng bị gọi vào giam chung với Đại Tá Cẩn. Để làm nhục và hành hạ tinh thần người dũng tướng nước Nam, giặc cho phá hủy nhà cầu trong Ty Cảnh Sát và thay vào bằng một cái thùng nhựa. Mỗi buổi sáng, ngày nào chúng cũng bắt Đại Tá Cẩn cùng một người nữa khiêng thùng phân đi đổ. Người ưu tiên được làm nhục thứ hai là vị Phó Tỉnh Trưởng. Dù cho các sĩ quan của ta có đề nghị hãy để cho mọi người làm công tác công bằng, nhưng bọn Cộng vẫn nhất quyết đày đọa Đại Tá Cẩn. Người anh hùng của chúng ta chỉ mỉm cười, ung dung làm công việc của mình. Chúa Jesus đã chẳng từng nói khi lên thập giá: "Lạy Cha ở trên trời, họ không biết việc họ đang làm" đó sao. Bà Đại Tá Cẩn lo sợ bị cộng quân trả thù nên bà đã đem cậu con trai duy nhất của ông bà là Hồ Huỳnh Nguyên, lúc ấy được 5 tuổi, về Cần Thơ ẩn náu và thay đổi lý lịch nhiều lần. Nhớ thương chồng, nhiều lúc bà đã liều lĩnh choàng khăn che mặt xuống Vị Thanh tìm đến Ty Cảnh Sát đứng bên này bờ con rạch nghẹn ngào nhìn sang dãy tường rào kín bưng. Một vài sĩ quan ra xách nước trông thấy bà đã tìm cách dẫn Đại Tá Cẩn ra. Những khoảnh khắc cuối cùng đẫm đầy nước mắt ấy sẽ theo ký ức của bà Đại Tá Cẩn đến suốt khoảng đời còn lại của bà. Đầu năm 1979 bà Cẩn cùng bé Nguyên liều chết vượt biển. Thượng Đế đã dang tay từ ái bảo vệ giọt máu duy nhất của Đại Tá Cẩn. Bà Cẩn và bé Nguyên đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai. Mười tháng sau hai mẹ con bà Đại Tá Cẩn được phái đoàn phỏng vấn Mỹ cho định cư tại Hoa Kỳ theo dạng ưu tiên có chồng và cha bị cộng sản bắn chết tại Việt Nam.   Bọn phỉ không giết Đại Tá Cẩn ngay, chúng muốn làm nhục người và làm nhục quân dân Miền Tây. Bọn chúng sẽ thiết trí một pháp trường và dành cho người một cái chết thảm khốc hơn. Đại Tá Cẩn không thể tử tiết, vì là con chiên ngoan đạo, luật Công Giáo không cho phép con cái Chúa được tự tử. Đại Tá Cẩn thường cầu nguyện mỗi buổi sáng và thổ lộ tâm tư với thuộc cấp trước khi ra trận: "Sống chết nằm trong tay Chúa". Vì vậy viên đạn cuối cùng người bắn vào kẻ thù, để cho chúng biết rằng nước Nam không thiếu anh hùng.   Quân dân Miền Tây đã tiếc thương cái chết của hai vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng trong ngày u ám đen tối nhất của lịch sử Việt Nam. Giờ đây, cũng trong bầu không khí ảm đạm đau buồn của ngày 14.8.1975, người dân thủ phủ Cần Thơ sẽ được chứng kiến giây phút lìa đời cao cả của người anh hùng Hồ Ngọc Cẩn. Bọn sói lang đã áp giải người từ Chương Thiện về Cần Thơ và cho bọn ngưu đầu đi phóng thanh loan báo địa điểm, giờ phút hành hình người anh hùng cuối cùng của Quân Lực Việt Cộng Hòa. Bọn tiểu nhân cuồng sát thay vì nghiêng mình kính phục khí phách của người đối địch, thì chúng lại lấy lòng dạ của loài khỉ và loài quỷ để đòi máu của người phải chảy. Chúng quyết tâm giết Đại Tá Cẩn để đánh đòn tâm lý phủ đầu lên những người yêu nước nào còn dám tổ chức kháng cự lại bọn chúng. Thật đau đớn, trong khoảnh khắc cuối cùng này, bà Đại Tá Cẩn và người con trai còn phải ẩn trốn một nơi kín đáo theo lời căn dặn của Đại Tá Cẩn trước khi ông bị bắt, vì sợ bọn chúng bắt bớ tra tấn, nên bà không thể có mặt để chứng kiến giây phút Đại Tá Cẩn đi vào lịch sử.   Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể có Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn về... và phủ cho một lá cờ Việt Nam Cộng Hòa... mà cố Đại Tá đã suốt đời phục vụ cho lý tưởng của Việt Nam Cộng Hoà.   Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: "Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các ông cứ bắn tôi đi. Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối". Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng. Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào. Rồi người ngạo nghễ ra đi.   Cùng ngẩng cao đầu đi vào chiến sử Việt Nam với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn tại sân vận động Cần Thơ là người anh hùng Thiếu Tá Trịnh Tấn Tiếp, Quận Trưởng quận Kiến Thiện, bạn đồng khóa với Đại Tá Cẩn. Thiếu Tá Tiếp đã cùng các chiến sĩ Địa Phương Quân Chi Khu chiến đấu dũng cảm đến sáng ngày 1.5.1975 thì ông bị sa vào tay giặc. Thiếu Tá Tiếp là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ông đã từng gây rất nhiều tổn thất nặng nề cho quân địch, nhờ tổ chức thám sát chính xác, có lần ông đã gọi B 52 dội trúng một trung đoàn cộng quân và hầu như xóa sổ trung đoàn này. Cộng quân ghi nhớ mối thù này, người anh hùng của chúng ta sa vào chúng, thì chúng sẽ giết chết ông không thương tiếc. Hai người anh hùng cuối cùng của miền Tây đã vĩnh viễn ra đi. Đất trời những ngày đầu mùa mưa bỗng tối sầm lại.   Một nhân chứng đứng ở hàng đầu dân chúng kể lại rằng, trong những giây phút cuối cùng, Đại Tá Cẩn đã dõng dạc hét lớn: "Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả Đảo Cộng Sản"! Năm sáu tên bộ đội nhào vào tấn công như lũ lang sói, chúng la hét man rợ và đánh đấm người anh hùng sa cơ tàn nhẫn.   Người phụ nữ nhân chứng nước mắt ràn rụa, bà nhắm nghiền mắt lại không dám nhìn. Bà nghe trong cõi âm thanh rừng rú có nhiều tiếng súng nổ chát chúa. Khi bà mở mắt ra thì thấy nhiều tên Việt Cộng quây quanh thi thể của Đại Tá Cẩn và khiêng đem đi.   Đúng ra, phải vinh danh Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Chuẩn Tướng Hồ Ngọc Cẩn, vì người đã anh dũng chiến đấu trên chiến trường và vị quốc vong thân. Nhưng Tổng Thống Tổng Tư Lệnh, Tổng Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy từ lâu, Tư Lệnh Quân Khu IV đã tử tiết, lấy ai đủ tư cách trao gắn lon và truy thăng Chuẩn Tướng cho người. Anh linh của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã thăng thiên. Tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử đến ngàn đời sau. Xin người hãy thương xót cho dân tộc và đất nước Việt Nam còn đang chìm đắm trong tối tăm và gông xiềng cộng sản, xin hãy ban cho những người còn đang sống khắc khoải sức mạnh và quyết tâm. Để cùng nhau đứng dậy lật đổ chúng, hất bọn chúng, tất cả bọn tự nhận là con cháu loài vượn đó vào vực thẳm lạnh lẽo nhất của địa ngục.   Phạm Phong Dinh. http://www.duongsinhthucphap.org/new-page/to-quoc---danh-du--trach-nhiem/dhai-ta-ho-ngoc-can-anh-hung-vi-quoc-vong-than      
......

Những bước tiến thần kỳ của hai anh em nhà tướng

  Thao Ngoc   Mấy hôm nay báo chí lề đảng như lên đồng tập thể, khi đưa tin dồn dập về sự thăng tiến vượt bậc của tân Chủ tịch tình Hà Tĩnh Võ Trọng Hải.   Báo Thanh Niên ra ngày 16/4/2021 đưa tin: “Ông Võ Trọng Hải được bầu giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh”. (https://thanhnien.vn/.../ong-vo-trong-hai-duoc-bau-giu...)   Vì sao báo chí lại tập trung vào ông chủ tịch tỉnh này như vậy?   Vì những bước tiến thần kỳ của ông này trong những năm qua. Từ một anh lính biên phòng sinh năm 1968, nhập ngũ năm 1988, nhưng chỉ một thời gian sau đã nghiễm nhiên làm tướng công an, rồi làm chủ tịch tỉnh.   Đặc biệt là từ tháng 7 năm 2018, từ Phó Đồn trưởng, lên Đồn trưởng Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo; Phó Chỉ huy trưởng, Chỉ huy trưởng BĐBP Hà Tĩnh.   Ngày 9 tháng 8 năm 2018, giữ chức vụ Trưởng ban nội chính tỉnh uỷ Hà Tĩnh. Ngày 3 tháng 3 năm 2019,được bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Công an tỉnh Hà Tĩnh. Ngày 8 tháng 6 năm 2020, được bổ nhiệm giữ chứcGiám đốc Công an tỉnh Nghệ An. Ngày 11 tháng 9 năm 2020, được phong hàm Thiếu tướng. Ngày 16/4/2021, được phân công giữ chức vụ Phó Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2020 -2025.   Cũng trong ngày 16/4/2021, HĐND tỉnh Hà Tĩnh với phiên họp bất thường, đã bầu Võ Trọng Hải giữ chức Chủ tịch UBND tỉnh, thay ông Trần Tiến Hưng được đẩy ra HN “ngồi chơi xơi nước” ở Ủy ban Kiểm tra T.Ư. Nghĩa là chưa đầy ba năm, từ tháng 7/2018 đến tháng 4/2021, Võ Trọng Hải nhảy lên 10 bậc.   Điều gì đã khiến Hà Tĩnh phải gấp rút tổ chức cuộc họp HĐND bất thường, để đưa Võ Trọng Hải lên làm chủ tịch, khi nhiệm kỳ chủ tịch tỉnh 2016 – 2021 của Trần Tiến Hưng chỉ còn một tháng nữa là hết? Vậy Võ Trọng Hải là ai?   Võ Trọng Hải quê ơ xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, là em Thượng tướng Võ Trọng Việt, chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh QH khóa XIV, nguyên Thứ trưởng Bộ QP, nguyên Tư lệnh Bộ đội Biên phòng.   Nhưng vì sao Võ Trọng Việt được lên như diều gặp gió vậy?   Từ đầu năm 2000, Trương Tấn Sang đang là Ủy viên BCT, Bí thư thành Hồ, được điều ra Hà Nội làm Trưởng ban Kinh tế Trung ương. Từ một ông vua ở Sài Gòn đầy quyền lực, nay ra HN là “đơn thương độc mã”, thiếu hậu phương hậu thuẫn cho những toan tính về sau. Nhận thấy mảnh đất Nghệ-Tĩnh đầy tiềm năng chính trị, có nhiều cán bộ đảng viên cao cấp nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong hệ thống chính trị qua nhiều thời kỳ. Vậy là Trương Tấn Sang tìm đến xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh để gọi là bái tổ và nhận họ hàng, vì ông cho rằng tổ tiên ổng ở đây.   Với một địa phương như xã Đức Hòa, khi một Ủy viên BCT về nhận gốc gác tổ tiên là một vinh dự lớn. Để cho cuộc đón tiếp thêm phần long trọng , lãnh đạo xã Đức Hòa đã mời Võ Trọng Việt, khi đó là Trung tá bộ đội biên phòng Hà Tĩnh về tiếp khách quý. Nhận thấy đây là cơ hội vàng để tính toán cho cơ hội tiến thân, Võ Trọng Việt xin làm anh em kết nghĩa với Trương Tấn Sang.   Vậy là hai bên cùng có lợi, Trương Tấn Sang nhờ sự hậu thuẫn to lớn của dàn Nghệ-Tĩnh tại trung ương mà sau đó vào Tứ trụ, làm Chủ tịch nước.   Còn Võ Trọng Việt cũng nhờ sự nâng đỡ của Trương Tấn Sang mà tiến thân vùn vụt.   Võ Trọng Việt là người ủng hộ rất nhiệt tình và ba lần yêu cầu QH giữ nguyên dự thảo Luật An ninh mạng. Tháng 6/2018, khi thuyết minh cho Dự luật về An ninh mạng, Võ Trọng Việt đã phát âm Facebook thành Pê-tê-bốc và yêu cầu phải kéo điện toán đám mây về Việt Nam.Và yêu cầu Facebook, Youtube đặt văn phòng tại Việt Nam để dễ kiểm duyệt.   Nhờ mối tơ duyên kết nghĩa này mà đương nhiên Võ Trọng Hải cũng là em của Trương Tấn Sang. Nhờ hai bệ đỡ vững chắc này, cùng với nguồn thu khổng lồ khi làm Đồn trưởng Đồn Biên phòng Cửa khẩu Cầu Treo, một trong những cửa khẩu buôn lậu nổi tiếng nhất VN, thì việc Võ Trọng Hải lên như diều gặp gió không có gì lạ.   Vì cái gì không mua được bằng tiền thì vẫn có thể mua được bằng rất nhiều tiền. Nhất là trong “thị trường”mua quan bán chức gần như công khai hiện nay.   Cũng thật may mắn cho cựu chủ tịch Trần Tiến Hưng, tuy bị cách chức ngang xương và đẩy ra HN ngồi chơi xơi nước.Nhưng không phải kết thúc bằng một vụ…té lầu.   Thao Ngoc 17/4  
......

Liệu châu Âu có sáng mắt?

Nguyen Khan Nếu tình bạn xuyên Đại Tây Dương giữa Mỹ và lục địa già Châu Âu mặn nồng trong Thế Chiến II và sau Thế Chiến II với chương trình phục hưng Châu Âu, gọi khác là chương trình viện trợ Marshall, được hâm nóng lại trong thời kỳ chiến tranh lạnh với Liên Xô. Thì mối tình xuyên Đại Tây Dương ấy bị thử thách nghiêm trọng trong thời ông Donald Trump làm tổng thống Mỹ, đến nỗi khí tổng thống Donald Trump và thủ tướng Canada đến Pháp dự lễ kỷ niệm ngày Mỹ và Canada dưới sự yểm trợ của Anh đổ bộ lên bờ biển Normandy giải phóng Pháp và Châu Âu, lính Mỹ chết la liệt... Nhưng có vẻ như tổng thống Pháp "bằng mặt chứ không bằng lòng" vì trước đó ông Macron đòi thành lập quân đội riêng Âu Châu để không bị phụ thuộc vào NATO do Mỹ lãnh đạo. Lạnh nhạt đôi bờ Đại Tây Dương là do TC (Trung Cộng) chen vào, dùng lợi ích mua chuộc, chia rẽ... Âu Châu được che chở bởi cái ô NATO do Mỹ cầm đầu, Nhưng đóng ngân sách cho NATO không bao nhiêu, phó thác NATO dưới sự bao cấp ngân sách của Mỹ, tỉ mỉ từng đồng đóng góp, thậm chí còn day dưa... Đã vậy còn quan hệ mậu dịch thân mật với Nga (khí đốt), làm ăn mặn nồng với TC, đem nhiều lợi ích về cho TC, so đo tính toán với Mỹ. Âu Châu ăn ý với đảng dân chủ Mỹ thời tổng thống Obama trong chủ trương toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, thỏa hiệp hạt nhân Iran, kềm chế Israel... Hai phía có nhiều điểm tương đồng trong việc xem Nga là đối thủ, TC là đối tác, trái với quan điểm của Ông Trump xem TC là đối thủ chứ không phải Nga. Đó là lý do Ông Trump chỉ trích mạnh, buộc Âu Châu phải đóng thêm ngân sách cho NATO, đàm phán lại việc làm ăn không công bằng giữa đôi bờ Đại Tây Dương, chỉ trích nặng nề thái độ khôn lỏi của Âu Châu, lợi dụng Mỹ nhưng đem lợi ích cho đối thủ của Mỹ. Và đó cũng là lý do Âu Châu lạnh nhạt, ngấm ngầm chống đối Ông Trump, ngầm hùa với đảng dân chủ Mỹ tống khứ ông Trump ra khỏi tòa Bạch Ốc. Trong thời Obama, tổng thống Putin của Nga đã đá đít Mỹ và Âu Châu khỏi Syria, sát nhập bán đảo Crimea của Ukraine vào Nga trước sự bất lực của Âu Châu và Obama. Phía Biển Đông TC chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines, tôn tạo bảy thực thể trong quần đảo Trường Sa cướp của Việt Nam thành những căn cứ quân sự... Triều Tiên liên tục khiêu khích. Tổ chức nhà nước hồi giáo tự xưng IS chiếm gần hết Iraq và một phần Syria. Thế giới thời Obama đầy bất ổn và lửa chiến. Thời tổng thống Trump, thế giới an bình, những nước bất hảo như Nga, TC, Triều Tiên và vùng Bắc Phi - Trung Đông không dám hó hé. Những thỏa hiệp hòa bình giữa Israel và các nước hồi giáo Ả Rập được ký một cách không tưởng nhờ sứ giả hòa bình Donald Trump. Một thời an bình hiếm có trên toàn thế giới, giúp Châu ÂU mua dầu khí của Nga, làm ăn lớn với TC, và... Vễnh râu tận hưởng thái bình. Thời ấy đã qua rồi, thiên sứ hòa bình Donald Trump đã bị đá đít khỏi tòa Bạch Ốc, thỏa mong ước của Âu Châu. Để giờ đây Âu Châu và thế giới trở về thời kỳ bất ổn do hai nước bất hảo Nga Trung quậy phá. Có tin phát ngôn viên của Nga vừa tuyên bố Putin từ chối không gặp trực tiếp Biden và sẽ phong tỏa eo biển Kerch vào tuần tới cho đến hết tháng 9, nghĩa là eo biển nối Biển Đen với Biển Azov bị Nga khóa, chiến hạm Mỹ sẽ không vào được biển Azov ( biển chung của Nga và Ukraine) đề yểm trợ cho Ukraine trước mối đe dọa của Nga. Khả năng xảy ra chiến tranh giữa Nga và Ukraine là rất lớn, tình hình càng ngày càng căng thẳng, Âu Châu đang ngồi trên lửa. Bên Ấn Độ Thái Bình Dương cũng không yên ổn, TC cũng đang quần thảo không phận Đài Loan, tràn ngập tàu chiến xuống Biển Đông. Đám quân phiệt Myanmar được sự chống lưng của Nga Trung đang tắm máu nhân dân Myanmar... Chảo lửa Trung Đông cũng đang nóng giữa Israel và Iran. Có vẻ như thế giới đang bị trừng phạt vì khước từ sứ giả hòa bình Donald Trump, trong đó đóng góp không nhỏ vào việc hạ bệ Donald Trump là Âu Châu. Không biết những ngày sắp tới, khi lửa chiến cháy đít, Âu Châu có sáng mắt sáng lòng...?  
......

Nghĩ về nỗi sợ hãi và hòa giải dân tộc

Luong Tu Tuan   Vài ngày trước, một người bạn vong niên của tôi, người từng tham gia trong cuộc “20 năm nội chiến từng ngày” với tư cách một người lính của Miền Nam VN, kể rằng khi phóng viên hỏi ông: “làm thế nào để hòa giải dân tộc?”, ông trả lời “Chỉ có thể hàn gắn khi cả 2 bên đều hiểu rõ tính chất của cuộc chiến tranh này, một cuộc chiến tranh mà bên nào cũng là nạn nhân của trò chơi chính trị trong tay các siêu cường”. Cả câu hỏi và câu trả lời đều làm tôi suy nghĩ, nó vừa khơi lên nỗi chua chát cùng tận vừa bất mãn mơ hồ. Và tôi muốn thử tìm một lý giải cho mình bên ngoài câu chuyện chính trị. Người Việt phải chăng đã bất hòa với nhau từ lâu xa trong quá khứ chứ không phải từ 54 hay 75 ? Chúng ta bất hòa từ trong gia đình đến họ tộc, làng xóm; bất hòa từ trong nhà ra đồng lúa, từ tông tộc đến xã hội. Con cái và cha mẹ không phải là “gia hòa vạn sự hưng” mà là áp đặt và nghe lời; vợ chồng không phải “tương kính như tân” mà là trên dưới một chiều, anh em không phải “như thể chân tay” mà là “quyền huynh thế phụ”… Người trong nhà rất ít nói chuyện với nhau; khi nhỏ thì thường là cha nói con nghe, khi lớn lên thì im lặng xâm chiếm, mà hễ mỗi khi có chuyện cần bàn thì ngồi lại là liền xung đột. Vợ chồng mới cưới thì ríu rít được vài hôm, ngày qua tháng lại chưa lâu thì “mở miệng là cãi nhau”. “Đi họ bênh anh em nhà, đi chợ bênh anh em họ”. Hãy nhìn nông thôn Bắc và Trung bộ, khó tìm thấy một đám hiếu hỉ ma chay nào mà không lời qua tiếng lại, anh em cự cãi, chửi bới, từ mặt. Nhà càng đông người, nguy cơ “mất đoàn kết” càng lớn. Hễ chung bờ rào là chửi chó mắng gà, rào đường cách lối, nói xấu sau lưng. Hễ chung bờ ruộng là mắng cỏ bới lúa, là xách đòn gánh rượt nhau. Cái cách nói “dân Thanh Hóa, dân Nghệ An, dân xyz” thường mang hàm nghĩa phân biệt vùng miền với ý kỳ thị hoặc tự tôn… Tại sao thế? Những tín điều như “tình làng nghĩa xóm”, như “tối lửa tắt đèn”, như bầu bí nhiễu điều…phần nhiều là để an ủi và phỉnh phờ hơn là một thực tế. Sự ganh ghét độ kỵ, thói ngồi lê đôi mách và nạn “tin giả” (fake news) đã có từ nhiều trăm năm trước. Có một cái gì rất dễ đổ vỡ trong các mối quan hệ Việt. Người ta hoặc gắng gượng, hoặc màu mè, hoặc chịu đựng, hoặc miễn cưỡng…để “che mắt thiên hạ”. Người Việt rất sợ bị “cười” nên họ sẵn sàng “đóng cử bảo nhau”, “tốt đẹp khoe ra xấu xa đậy lại”. Cả khen và chê đều không mấy khi thật lòng mà thường cốt để làm đẹp lòng nhau. Khen thì khen hết lời, lúc chê thì thành mạt sát hủy nhục. Những sự nối kết giữa người với người rất mong manh, nhưng kỳ lạ thay dù “cơm không lành, canh chẳng ngọt” nhưng người ta lại có thể sống suốt đời cùng nhau; chê nhưng không bỏ, khinh nhưng không từ, oán mà không than. Đó là một trạng thái quái gở của quan hệ người – người trong cộng đồng Việt. Ngay cả những người được cho / tự nhận là “đấu tranh dân chủ” ngày nay cũng khó mà ngồi lại cùng nhau. Cùng với việc chửi chính quyền là chửi nhau. Cái “cộng đồng” ấy chia rẽ một cách đáng kinh ngạc. Chính quyền, dân và “giới bất đồng” dường như chẳng bao giờ gặp nhau. Cứ mỗi người một ốc đảo mà hễ lại gần là nghi ngờ, là bất hòa, là tranh cãi. Nói rất nhiều mà dường như chẳng có người nghe. Cãi rất to mà chỉ như tiếng ồn. Giữa người với người dường chỉ có những âm thanh hỗn tạp. Không ai thấy cần thiết phải nghe ai. Tất cả những cái tôi đều to đùng. Một điều tệ hại mà chúng ta ít thấy trong lịch sử: người trí thức ngày càng trở nên vô hình trong mắt dân cày. Người ta không còn trọng tri thức và trí thức nữa. Đây là tiếng chuông báo điểm sự suy tàn tột độ của một xã hội. Phải chăng, chúng ta là một dân tộc “dũng cảm” như lời tụng ca? Điều ấy đáng ngờ. Hình như NỖI SỢ HÃI mới chính là “bản sắc” của nòi giống? Mặc cảm nghèo hèn, mặc cảm nhược tiểu, mặc cảm dốt nát…đè nặng lên dân tộc suốt trường kỳ lịch sử. Càng mặc cảm thì biểu hiện ra càng trái ngược. Kẻ yếu nhược thường hung hăng, người nghèo hèn thường khoe mẽ, dốt thì hay nói chữ… Cái cơ chế phòng vệ này là một sự tinh quái của bản ngã; sự tinh quái đánh lừa chủ nhân của nó có thể suốt cuộc đời; và như thế là suốt chiều dài lịch sử của một cộng đồng. Chúng ta đã bị kẻ láng giềng to con và thâm hiểm bắt nạt suốt cả ngàn năm. Rồi chính chúng ta cũng đã du nhập một chế độ đẳng cấp bất công vào mỗi ngôi nhà, mỗi xóm làng; chúng ta cai trị kẻ khác bằng con đường của chuyên chế. Chồng độc đoán với vợ, cha độc đoán với con, anh độc đoán với em, quan độc đoán với dân, giàu độc đoán với nghèo, lớn độc đoán với nhỏ. Đó là một loại khế ước của “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Nó thâm nhiễm vào tất cả mọi cá thể, và từ nạn nhân của sự cai trị độc đoán, người ta sẽ trở thành những bàn tay độc đoán ngay khi có cơ hội. Đáng sợ hơn, ngày nay cái thiết chế ấy còn phủ trùm trên thân thể xã hội bằng cách nhân danh những thứ thật mỹ miều. Sự coi thường, khinh bỉ hay nỗi sợ hãi và tính hèn hạ được sinh ra từ cái thiết chế “gạo tiền” này. Chúng ta giàu tự ái hơn là lòng tự trọng; chúng ta tự cao hơn là tự tôn; tự phụ hơn tự chủ, tự huyễn hơn tự học… Chúng ta theo đuổi mảnh bằng hơn là truy tầm chân lý; chúng ta theo đuổi tiền bạc mà bỏ quên mục đích của đời sống; theo đuổi địa vị mà quên đi trách nhiệm. Chúng ta nổi nóng với vợ con nhưng dạ vâng trước cường quyền; chúng ta làm từ thiện khắp nơi nhưng bỏ bê họ hàng; chúng ta ngọt ngào với thiên hạ nhưng cộc cằn với người nhà… Một đằng là “tạo dựng hình ảnh”, đằng kia là thể hiện quyền lực. Cả hai đều là biểu hiện sự yếu nhược của một cái tôi nhiều tổn thương và đổ vỡ. Chúng ta cố chống chọi với sự khiếm khuyết của nhân cách mình bằng những lối tiêu cực nhất như thế. Nỗi sợ hãi là căn nguyên của tất cả? Càng sợ hãi, người ta càng hung dữ, càng sợ hãi người ta càng làm màu. Người Việt sợ nhất là bị “cười”, không được để người khác cười, phải mạnh mẽ lên, phải sang trọng lên, phải giàu lên, phải đẹp lên… Phải chứng tỏ rằng “ta đây chẳng kém ai”. Cuộc đời đã bị đánh mất bằng những cách như thế. Người ta bỏ lại phía sau tất cả để trưng ra một hình ảnh “đẹp” nhất – vì cái mặc cảm ấy nên suốt đời họ phải “sống cho người khác xem”. Người ta nhìn nhau để sống, đua nhau để làm: xây nhà to, sắm đồ sang, mua điện thoại xịn, tậu túi xách và đồng hồ hàng hiệu… ngay cả khi không có tiền. “Giải quyết khâu oai” là mục tiêu của mỗi cuộc đời. Oai vì đồ đạc, oai vì áo quần, và đau khổ nhất là oai vì con cái. Để thỏa mãn sự đói khát truyền kiếp, người ta bấp chấp ước mơ của con cái để sẵn sàng đẩy chúng vào những cuộc chiến khốc liệt của trường chuyên lớp chọn, đẩy chúng vào những lớp học thêm bất kể ngày đêm. Họ sẵn sàng “hi sinh đời bố, củng cố đời con”, nhưng thực ra đó là hi sinh đời con cho đời bố nở mặt. Cái sự “hiếu học” của người Việt có lẽ nên nhìn từ một góc độ khác: mặc cảm, mặc cảm của nhiều thế hệ. Người ta quên đi những chân giá trị của sự hiểu biết để tìm những chỗ dựa tiêu cực cho cái bản ngã thất bại của mình. Chúng ta đổ vỡ từ bên trong bởi thân phận nô lệ và yếu nhược, nó làm thành một cuộc chiến tranh triền miên qua các thế hệ trong mỗi cá nhân. Từ sự bất hòa bên trong tinh thần dẫn tới những xung đột bên ngoài xã hội; từ những động loạn của thế giới vô thức biến hiện thành những cuộc chiến của những cái tôi. Ở thế kỷ 21 này, có lẽ tư duy nhị nguyên bị phát tướng nặng nề bậc nhất là trên xứ sở của chúng ta. Đẹp xấu, giàu nghèo, sang hèn, cao thấp… luôn sẵn sàng lao vào nhau để nổ tung thành các mảnh vỡ của xã hội. Cuộc chiến tranh Nam – Bắc đã đi qua gần nửa kỷ mà mặc cảm còn đè nặng thành những lễ kỷ niệm, thành những khúc hoan ca, thành “ngày quốc hận”, thành những trận chiến bất tận trên mạng xã hội. Mọi thứ chỉ có thể được hàn gắn khi mặc cảm được xua tan bởi sự lớn dậy của tư thế con người vượt lên trên thắng bại để sống với những giá trị tự thân mà không cần đến những thứ trang sức “anh hùng”, “thắng cuộc”, “văn minh”… Chừng nào người ta còn phải viện đến những món đồ ấy để làm sang, chừng ấy cuộc chiến còn chưa thể kết thúc. “Không ai có thể làm ta ô uế, cũng không ai có thể làm ta trong sạch”, “như người uống nước, nóng lạnh tự biết” – đó chính là sự trung thực tự thức về giá trị của bản thân. Và ở đây, liêm sỉ và sự tự tôn luôn phải song hành. Những giá-trị-người, mà căn bản nhất và cũng sâu xa nhất là NHÂN PHẨM, phải được đánh thức và nuôi lớn. Nếu không “phổ cập” cái nền móng này trong tất cả cá nhân để mỗi người tự vượt lên trên những cơm áo gạo tiền danh vị mà sống đàng hoàng với sự tôn nghiêm thẳm sâu thì sẽ không cách gì hòa giải được. Bài học của nội chiến Mỹ còn nguyên ở đó, khi cả 2 cùng tôn trọng nhau và tự trọng chính mình. Muốn hàn gắn dân tộc, trước hết cần tự hàn gắn những vết thương do mặc cảm gây nên. Và bên cạnh tất cả những điều ấy, có lẽ chúng ta cần một nỗi đau chung thay cho niềm tự hào? Trên tinh thần đó, sự hòa giải không phải chỉ là câu chuyện Nam – Bắc, mà căn bản hơn là câu chuyện của con người với con người, nhìn như lịch sử của cả một cộng đồng trong suốt chiều dài văn hóa của nó. Thái Hạo  
......

Nhà tướng phải khác nhà dân!

nhà của tướng Lê Công, nguyên tổng giám đốc ngân hàng cổ phần quân đội (MB)   Nguyễn Đình Bổn     Một công trình xây dựng hoành tráng và lạ lùng tại Hà Nội kéo dài mấy năm nay là nhà của tướng Lê Công, nguyên tổng giám đốc ngân hàng cổ phần quân đội (MB) tại số 15, phố Sơn Tây, phường Điện Biên, quận Ba Đình.   Cái đặc biệt của căn nhà này là nó gồm 5 tầng nổi và đến 4 tầng hầm, tổng diện tích sàn xây dựng điều chỉnh lần hai lên tới 2.223,1m2 (trong đó riêng tổng diện tích sàn tầng hầm lên đến 1.070,8m2, chiếm gần một nửa diện tích công trình) do UBND quận Ba Đình cấp phép xây dựng.   Đào sâu như vậy nên các hộ dân cận kề đều kinh hãi, vì âm thanh chát chúa, đất chấn động cả ngày đêm, chịu hết xiết họ làm đơn kiến nghị đến chính quyền thì Bộ xây dựng cho rằng cấp giấy phép có vấn đề.   Kiến nghị này đưa lên chính phủ và dù ông Phúc khi còn là thủ tướng đã chỉ đạo UBND TP Hà Nội xử lý nhưng... chẳng xi nhê, chứng tỏ tướng công rất ngon!   Nghe nói hiện nay Thanh tra chính phủ lại vào cuộc nhưng chưa biết ra răng!    Công nhận lương cấp tướng tại VN nhiều thiệt (ông này chỉ thiếu tướng nha) mới xây một công trình hoành tá tràng như vậy!   Còn 4 tầng hầm? Có lẽ tướng công làm nơi ẩn nấp khi nổ ra chiến tranh hột nhơn Mỹ Trung chăng?  Nguyễn Đình Bổn ***   Tư gia cựu thiếu tướng quân đội CSVN xây bốn tầng hầm giữa Hà Nội Tư gia của ông Lê Công đang xây dựng tại ngõ 15, phố Sơn Tây, quận Ba Đình, Hà Nội. (Hình: Quang Thế/Tuổi Trẻ)     HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau hơn ba năm rời ghế tổng giám đốc ngân hàng cổ phần Quân Đội (MB), tên tuổi Thiếu Tướng Lê Công lại được báo nhà nước nhắc đến qua vụ bê bối xây tư gia bốn tầng hầm ngay giữa Hà Nội. Theo tường thuật của báo Tuổi Trẻ, nhiều người dân sống ở ngõ 15 phố Sơn Tây nói công trình xây dựng nhà phố năm tầng nhưng có đến bốn tầng hầm của Thiếu Tướng Lê Công “làm xuyên đêm gây ồn ào, rung lắc khiến cả khu dân cư nhiều ngày nay không thể ngủ yên.” Tờ báo dẫn lời bà Trần Thị Phi Yến (phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội): “Cứ về đêm là họ làm gây rung lắc nhà như bom nổ không thể ngủ được, gia đình tôi đang phải đi tìm nhà ở nơi khác để tá túc. Mấy hôm nay thì họ làm cả đêm, không chỉ tôi mà nhiều gia đình khác cũng thức trắng. Từ cuối năm 2019 đến nay, tôi thường xuyên phải uống thuốc ngủ để mê man đi.” Liên quan tư gia của ông Công, báo Tuổi Trẻ cho biết thêm, Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội “không trả lời những câu hỏi mà Tuổi Trẻ đã gửi công văn trước đó.” Hồi trung tuần Tháng Chín, theo các báo nhà nước, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội kiểm tra, giải quyết đơn khiếu nại của các hộ dân khu nhà ngõ 15 phố Sơn Tây về căn nhà của Thiếu Tướng Lê Công, cựu tổng giám đốc ngân hàng. Tuy vậy, đến nay, vụ này chưa ngã ngũ và căn nhà nêu trên vẫn đang được tiếp tục xây dựng. Cũng theo tờ Tuổi Trẻ, trước đó, trả lời công dân về việc cấp phép xây dựng cho tư gia của ông Công, ông Bùi Thanh Bình, trưởng Phòng Quản Lý Đô Thị Ủy Ban Nhân Dân quận Ba Đình, “viện dẫn một số tiêu chuẩn, văn bản, tuy nhiên theo nhiều luật sư, tiêu chuẩn từ 16 năm trước đã bị hủy bỏ và là văn bản dưới luật.” “Nhiều kiến trúc sư, chuyên gia lĩnh vực quy hoạch đô thị cũng bày tỏ lo ngại với công trình ngầm này. Vì công trình ngầm là nhà phố nhưng có đến bốn tầng hầm sẽ là tiền lệ xấu cho không gian ngầm không chỉ Hà Nội, Sài Gòn, mà với các đô thị Việt Nam,” theo báo Tuổi Trẻ. Trang tin điện tử An Ninh Tiền Tệ hồi năm 2015 từng ca ngợi ông Công “là người luôn có nhiều đóng góp với ngân hàng MB ngay từ những giai đoạn đầu thành lập từ năm 1994, với ý tưởng xây dựng một định chế tài chính doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp quân đội thành ngân hàng.” Cũng nhờ những “thành tích” trong ngành ngân hàng mà vị thiếu tướng được trao danh hiệu “Huân Chương Lao Động” hạng Ba hồi năm 2014. (N.H.K) [qd] Nguồn; https://www.nguoi-viet.com/viet-nam/tu-gia-cuu-thieu-tuong-quan-doi-csvn-xay-bon-tang-ham-giua-ha-noi/  
......

Bàn về vụ Tất Thành Cang bị khai trừ khỏi đảng

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân| Không ai ngạc nhiên khi báo chí lề đảng loan tin Tất Thành Cang bị khai trừ; nhưng có lẽ ai cũng đặt dấu hỏi “sao lại là lúc này mà không sớm hơn?” Là một trong số các nhân vật chóp bu dưới trào Lê Thanh Hải nắm bí thư thành Hồ, Cang đã gây nhiều sóng gió trong vụ án cướp đất Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Nhưng câu chuyện của Cang trở thành củi của ông Trọng và bị đưa vào lò tưởng trở thành chuyện quá khứ và người ta tưởng đâu nó đã cuốn theo cơn đại dịch Covid-19. Nhưng không… Mới đây, Cang được nhắc đến qua chuyện bị ban bí thư của ông Trọng quyết định “khai trừ ra khỏi đảng,” một hình thức kỷ luật nặng nhất về mặt đảng. Ta thử tìm hiểu xem điều này mang ý nghĩa gì? Đề nghị hình thức kỷ luật của Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương lên Ban Bí Thư cáo buộc rằng, vi phạm của Tất Thành Cang “rất nghiêm trọng, tạo dư luận xấu, bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức đảng.” Nội dung vi phạm của Cang có thể tóm tắt trong 4 điểm: – Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm thẩm quyền, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; – Khi giữ chức giám đốc Sở Giao Thông Vận Tải thành Hồ, vi phạm quy định trong việc ký phê duyệt và ký tắt hợp đồng xây dựng 4 tuyến đường chính trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm; – Chịu trách nhiệm liên quan đến việc bán rẻ 320.000 m² của dự án khu dân cư Phước Kiển cho công ty Quốc Cường Gia Lai; – Trách nhiệm trong vụ Công ty Sadeco (thành viên của Công Ty Phát Triển Công Nghiệp Tân Thuận) phát hành 9 triệu cổ phần, gây thiệt hại ngân sách nhà nước hơn 100 tỷ đồng. Nếu dựa theo những cáo buộc nói trên thì ông Cang đã làm xấu “thanh danh” đảng CSVN, và tổ chức đảng đã dung chứa một cán bộ không ra gì, còn cho giữ những chức vụ quan trọng trong đảng và chính quyền TP.HCM một thời gian dài. Nhưng thử hỏi, tội đó của Tất Thành Cang đâu bằng chính đảng CSVN qua nhiều thập kỷ cầm quyền, đã tự làm ô uế thanh danh của mình qua những vụ án làm chấn động lương tâm dân tộc như Cải cách ruộng đất, Nhân Văn giai phẩm, Tù cải tạo, đàn áp nông dân Thái Bình, trấn áp bà con Đồng Tâm hay Án oan Hồ Duy Hải và những vụ bắt giam, kêu án thật nặng các nhà hoạt động xã hội dân sự… Qua những vụ án này, chính đảng CSVN đã bôi tro trét trấu lên bộ mặt chuyên chính vô sản vốn đã đầy bạo lực của mình, nhất là vụ án Đồng Tâm. So với sai phạm của Tất Thành Cang trong thời gian làm phó bí thư thành ủy, dưới sự chỉ đạo của Lê Thanh Hải và đồng bọn tổ chức cướp đất Thủ Thiêm, bất quá Cang cũng chỉ noi theo truyền thống cướp bóc của đảng. Nếu cho rằng Cang gây bức xúc cho đảng viên, cán bộ, Ban Kiểm tra đã nhắm mắt ngụy biện vì có được bao nhiêu cán bộ đảng viên bức xúc? Trong khi đó, hàng triệu đảng viên khác đều phải hành động không khác Tất Thành Cang thì mới có thể vươn lên trong guồng máy cộng sinh trong đảng. Guồng máy này tuy vô hình nhưng đã nổi tiếng với câu: “Dựa vào nhau để tồn tại, dè chừng nhau để thủ thân, đấu đá nhau để thủ lợi.” Chỉ có những đảng viên không còn trong bộ máy cầm quyền hay có vấn đề mới không làm như Cang để sống còn trong nền kinh tế tư bản hoang dã theo quy luật mạnh được yếu thua. Kết cuộc lại, Tất Thành Cang bị khai trừ ra khỏi đảng không phải để lấy lại thanh danh hay uy tín gì cho đảng mà chỉ nói lên đòn trừng phạt đối với những con dê cần tế thần thế thôi. Bởi vì ngày nay liệu đảng có còn lại chút thanh danh hay uy tín nào sau hàng thập kỷ lừa bịp dân tộc? Sự việc khai trừ đảng diễn ra sau khi ông Trọng cân bằng được quyền lực trong đảng cũng là dấu hiệu chuẩn bị cho Tất Thành Cang và đồng bọn ra trước vành móng ngựa. Phạm Nhật Bình https://viettan.org/ban-ve-vu-tat-thanh-cang-bi-khai-tru-khoi-dang/
......

Sau “liêm chính, kiến tạo”… là cái gì?

Đại hội 13 của đảng CSVN để hợp thức hóa những sắp xếp nhân sự đàng sau hậu trường. Ảnh: Internet Tân Phong – Việt Tân   Thế là sau 5 năm, chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc với khẩu hiệu “liêm chính, kiến tạo” đã kết thúc. Đúng là “thời gian như vó câu vụt qua khung cửa hẹp,” “nhân gian như mộng ảo.” Nghe nói, ông Phúc dù rất mong muốn ở thêm một nhiệm kỳ nữa hầu xây đắp giấc mơ “hùng cường” cho Việt Nam; nhưng ở phút thứ 89, ông Phúc lại bị Phạm Minh Chính giành mất cái ghế đầy quyền lực. Phúc ngậm ngùi chấp nhận cái chức nguyên thủ “hữu danh vô thực,” ngồi nghe ông Tổng Trọng giáo điều dăm ba câu chủ nghĩa Mác và chống mắt ngó Phạm Minh Chính tung hoành trên sân khấu mà mới đây ông còn là “siêu sao” của xứ Đông Lào. Một người “lão luyện” và “gian hùng” ở miền Trung đến nỗi Nguyễn Bá Thanh còn chịu thúc thủ, giờ ông Phúc phải ngoan ngoãn nghe theo sự sắp xếp của đảng, từ bỏ cái ghế thủ tướng cho đàn em mới lên như Phạm Minh Chính thì rõ ràng là chuyện không đơn giản. Khác với chính phủ ở các nước tự do, nhà nước cộng sản toàn trị được thành lập sau kết quả những cuộc “tranh chấp” đầy máu me, sặc mùi tiền bạc và phe đảng lèo lái phía sau hậu trường. Ghế bàn chia chác chưa ngã ngũ thì dân tình đã phải ngửi mùi tanh tanh từ 3 tháng trước, đến khi có thông cáo báo chí thì kết quả sắp xếp nhân sự y chang như bọn báo “phản động” nói từ lâu. Nhưng thôi chuyện sắp xếp nhân sự đã trở thành quá khứ, cái mà dư luận quan tâm là sau nhiệm kỳ “liêm chính, kiến tạo,” chính phủ mới sẽ tung ra khẩu hiệu gì và sự thay đổi chính sách đó có tác động như thế nào tới xã hội Việt Nam? Nếu như ở các nước dân chủ, tổng thống hay thủ tướng phải trình bày kế hoạch, chiến lược đường lối ngoại giao, chính trị, quốc phòng, kinh tế, xã hội… rõ ràng, có khả năng định lượng, giám sát và đánh giá bởi các cơ quan thống kê, các viện nghiên cứu, các tổ chức phi chính phủ, hội nghề nghiệp, công đoàn độc lập. Còn ở xứ cộng sản chuyên chính, các báo cáo luôn đầy màu sắc, tính từ, những con số tăng trưởng lung linh… nhưng không có một ai, tổ chức nào có thể kiểm tra, đánh giá. Việc dự đoán tác động chính sách của chính phủ đều có phần “nghe nhạc điệu đoán chương trình” vì thiếu dữ kiện cụ thể và khách quan. Các dự đoán chỉ có thể giới hạn ở khuynh hướng và định tính nhiều hơn, dựa trên cơ cấu mới ở cả hai hệ thống chính quyền và đảng cầm quyền; các khuynh hướng chính trị đang thắng thế ở giới chóp bu; cũng như sự dịch chuyển cán cân quyền lực giữa Phương Tây và Trung Quốc ở đấu trường Đông Nam Á và Biển Đông thời gian tới. Vậy hãy xem những bộ mặt mới ở đỉnh chóp của hệ thống quyền lực và đường lối chính trị khuynh loát để cho chúng ta một bức tranh tổng quan Việt Nam 2021-2025. Những “chân dung quyền lực” mới Đại hội đảng các cấp lần thứ 13 ghi nhận một tổng bí thư nắm quyền trong ba nhiệm kỳ liên tiếp, trái với điều lệ đảng. Quốc Hội khóa 14 đã chứng kiến một sự kiện vô tiền khoáng hậu, hoàn toàn trái luật là Quốc Hội khóa 13 (quốc hội cũ) đã quyết định và bầu danh sách nhân sự chủ chốt cho chính phủ mới trước cả khi quốc hội khóa mới được bầu. Tất cả hệ thống quyền lực lộn sòng và vô pháp này sẽ tiếp tục cai trị gần 100 triệu người dân Việt Nam bằng lưỡi lê và nhà tù. Hãy xem các bức “chân dung quyền lực” mới trong hệ thống quyền lực song trùng của chính phủ và đảng CSVN thời gian tới để dự đoán về khuynh hướng các chính sách quốc phòng – chính trị, kinh tế – xã hội – văn hóa giáo dục… của Việt Nam 5 năm tiếp theo. Tổ chức chính phủ (Danh sách thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng mới) Tổ chức đảng CSVN (Ban bí thư mới) Thủ tướng Phạm Minh Chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng Phó thủ tướng Lê Minh Khái Thường trực ban bí thư Võ Văn Thưởng Phó thủ tướng Lê Văn Thành Trưởng ban tổ chức TW Trương Thị Mai Bộ trưởng quốc phòng Phan Văn Giang Trưởng ban kiểm tra TW Trần Cẩm Tú     Bộ trưởng bộ nội vụ Phạm Thị Thanh Trà Trưởng ban nội chính TW Phan Đình Trạc     Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên Ủy viên bộ chính trị, chánh tòa tối cao Nguyễn Hòa Bình Bộ trưởng bộ ngoại giao Bùi Thanh Sơn Trưởng ban kinh tế TW Trần Tuấn Anh Bộ trưởng bộ xây dựng Nguyễn Thanh Nghị Bí thư TW Đảng, chủ nhiệm văn phòng TW đảng Lê Minh Hưng Bộ trưởng bộ Tài Chính Hồ Đức Phước Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Bộ trưởng bộ Phát triển Nông thôn Lê Minh Hoan Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bộ trưởng Văn hóa – Thể Thao – Du lịch Nguyễn Văn Hùng Bùi Thị Minh Hoài, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương Bộ trưởng, chủ nhiệm chính phủ Trần Văn Sơn Lê Minh Khái, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ. Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Kim Sơn   Bộ trưởng, trưởng ban dân tộc Hầu A Lềnh   Nhận định về nội các mới Nội các dưới thời Thủ Tướng Phạm Minh Chính có 12 tân bộ trưởng và thêm hai phó thủ tướng. Hai phó thủ tướng mới đều xuất thân từ dân tài chính kế toán, kiểm toán. Nhiều vị trí tân bộ trưởng các bộ quan trọng như Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp, Phát Triển Nông Thôn không có nền tảng chuyên môn và kinh nghiệm ngành quản lý. Tỷ trọng các cán bộ từ tổ chức đoàn, đảng chuyển sang nắm vị trí “tư lệnh ngành” khá nhiều. Ngoại trừ vị trí bộ trưởng bộ giáo dục, còn lại hầu như không mấy người có nền tảng phù hợp. Trong khi đó, ở chiều ngược lại, các vị trí “tư lệnh ngành” quan trọng như Trần Tuấn Anh, nguyên bộ trưởng Bộ Công Thương khóa trước chuyển sang ban đảng nắm một chức trước nay bị coi nhẹ là trưởng ban kinh tế TW thay thế Nguyễn Văn Bình. Lê Minh Hưng, nguyên thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước chuyển sang nắm chánh văn phòng TW đảng. Như vậy, có thể có một nhận định ban đầu là chiều hướng kiểm soát, chỉ huy của phe đảng được tăng cường trong nội các chính phủ mới. Việc kiểm soát về mặt “đường lối” rõ ràng được coi trọng hơn trong xu hướng 5 năm tới ở Việt Nam. Với ông Phạm Minh Chính thì báo chí lề trái, lề phải cũng đã đăng tải quá nhiều thông tin liên quan. Đáng chú ý là ông Chính là một cựu tướng lĩnh công an ngầm. Thời ông công tác ở Quảng Ninh là giai đoạn kinh tế Quảng Ninh phát triển bùng nổ. Tuy vậy, đó cũng là thời gian vi phạm về qui hoạch, quản lý đất đai, khai thác khoáng sản, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất. Ông Chính là tác giả của đề án “đặc khu kinh tế Vân Đồn” và là người hăng hái nhất thúc đẩy các chính sách liên quan tới “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Bắc Bộ” – một hợp phần quan trọng bậc nhất trong chương trình “Một vành đai, một con đường” của Tập Cân Bình. Mục tiêu chính của chương trình “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Bắc Bộ” là phát triển hệ thống hạ tầng cảng biển, khu chế xuất, các thể chế và tổ chức vận hành nhằm khai thác lợi thế địa kinh tế của khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh như là cửa ngõ ra biển cho các tỉnh Vân Nam và Quảng Đông. Thời gian ông Chính ở Quảng Ninh, các doanh nghiệp Trung Quốc được thoải mái đầu tư, thuê mượn đất rừng phòng hộ giáp biên giới với thời gian lên tới 1 thế kỷ, mua các mỏ than, quặng có giá trị cao với giá bèo từ các công ty nhà nước thua lỗ và sự hoành hành của những băng đảng buôn lậu than với sự tiếp tay của toàn bộ hệ thống công an, hải quan, biên phòng của tỉnh này. Đáng ngạc nhiên, là ông Chính chưa bao giờ bị “nhắc nhở” với những sai phạm nghiêm trọng thời gian làm bí thư Quảng Ninh. Trong số nhân sự nội các mới, Phó Thủ Tướng Lê Văn Thành là người đã ghi dấu ấn ở Hải Phòng trong thời gian ông làm bí thư với những thành tựu phát triển kinh tế vượt trội. Thành phố cảng biển quan trọng của miền Bắc đã thoát khỏi cơn ngủ mê gần 20 năm “không chịu phát triển” để trở thành địa phương có tốc độ tăng trưởng GRDP cao nhất toàn quốc trong nhiều năm. Thu hút đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài và cả những tập đoàn lớn trong nước vào thành phố Hải Phòng đang là điều đáng quan tâm. Mặc dù có thông tin cho rằng, ông Lê Văn Thành không muốn lên TW mà muốn tiếp tục ở lại Hải Phòng. Nhưng có lẽ, ông Chính và Bộ Chính Trị khóa mới thấy cần bổ sung một phó thủ tướng có khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và hoạch định phát triển kinh tế vĩ mô trong thời điểm hậu COVID-19 khó khăn. Không rõ, khả năng của ông Lê Văn Thành có được phát huy? Hay lại rơi vào tình trạng éo le như ông Nguyễn Bá Thanh hoặc như… Đoàn Duy Thành năm xưa? Những gương, “chém cây sống, trồng cây chết” ở chính trường Việt Nam có quá nhiều và việc ông Lê Văn Thành lên TW, e rằng Hải Phòng mất đi một bí thư giỏi còn chính phủ có thêm một phó thủ tướng tập sự ở tuổi gần 60. Phó Thủ Tướng Lê Minh Khái, hầu hết thời gian sự nghiệp đều liên quan tới chuyên môn kiểm toán và đồng thời giữ chức vụ bí thư TW đảng, thành phần của Ban Bí Thư, Bộ Chính Trị khóa mới. Nên có thể nói, ông Khái là người của bên ông Trọng, được “biệt phái” sang nắm quyền kiểm soát việc chi tiêu và đầu tư của chính phủ. Với việc bổ sung thêm hai phó thủ tướng, vai trò của ông Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh có lẽ sẽ mờ nhạt đi nhiều. Mặc dù, uy tín của hai ông rất cao và là những người có thực tài, xong đều là những người không có phe cánh mạnh. Với ông Đam, sẽ phải chấp nhận “vai kép phụ” trong lĩnh vực “văn hóa, thể thao, du lịch.” Với ông Minh, sẽ phải ngồi chơi xơi nước và đọc văn bản dài dài khi mà vai trò ngoại trưởng sẽ do Bùi Thanh Sơn (một kẻ đội trên đạp dưới, nổi tiếng hãnh tiến và tham vọng nhưng kém tài) đảm nhiệm. Như vậy, đúng như những gì người viết đã nhận định về vai trò của hai ông Đam và ông Minh từ rất sớm, họ là những miếng chanh đã bị đảng CSVN vắt hết nước và giờ là lúc chuẩn bị bị vụt bỏ không thương tiếc. Sở dĩ, họ còn ngồi lại chức phó thủ tướng (nhưng không nằm trong bộ chính trị và ban bí thư) là vì uy tín của họ với nhân dân rất cao nên đảng CSVN cần họ như những bình hoa trang trí cho bộ mặt chính quyền. Vai trò của các tân “tư lệnh ngành” Trong số các tân bộ trưởng, gương mặt đáng chú ý nhất là Bộ Trưởng Nội Vụ Phạm Thị Thanh Trà, nguyên Bí Thư Yên Bái. Bà Trà là một nhân vật bí hiểm. Bà Trà lên nắm chức bí thư Yên Bái sau một cuộc đại khai sát giới đầy máu me khi chi cục trưởng kiểm lâm, bí thư và chủ tỉnh đã dùng súng nã vào đầu nhau ngày 18 tháng Tám, 2016. Vụ án mạng kinh hoàng lập tức bị khoanh lại vì “nghi can đã tự sát” mặc dù vô số những thông tin rò rỉ cho thấy sự bất nhất về phát ngôn và các chứng cứ chống lại kết luận vội vã của Bộ Công An. Đáng chú ý, trước đó chỉ 11 ngày, ngày 7 tháng Tám, 2016, Tư Lệnh Quân Khu 2, Lê Xuân Duy tử vong với lý do “mắc bệnh hiểm nghèo.” Bà Trà lên nắm chức bí thư Yên Bái sau hàng loạt những thanh trừng sặc mùi xã hội đen và khủng bố như thế. Ít lâu sau, báo chí phanh phui việc em bà là Phạm Sỹ Quý sở hữu những điền trang và biệt phủ nguy nga ở Yên Bái nhờ tiền “bán chổi đót, nuôi lợn” cũng không hề làm khó tới bà. Ông Phạm Sỹ Quý sau đó về Hà Nội, ngồi yên ổn trong cơ quan Liên Hiệp Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam, đọc báo, uống trà và đi massage siêu VIP sau những buổi đánh golf. Một “mảnh ghép” nữa có thể liên quan tới bức tranh “quan lộ” của bà Trà là Thứ Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Lê Hải An – người muốn phanh phui những vụ mua bán điểm và bằng cấp giả mạo của hàng loạt các quan chức tỉnh phía Bắc (phe ủng hộ Nguyễn Phú Trọng) – đã “té lầu” vào tháng Mười, 2019. “Kịch bản” xem ra có cùng một “sắc màu Yên Bái.” Cái chết của ông Lê Hải An đặt dấu chấm hết cho mọi nỗ lực muốn phanh phui các bê bối bằng cấp của quan chức các tỉnh miền núi và vi phạm nghiêm trọng của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo. Vụ án chạy điểm, nâng điểm chỉ “khoanh” lại giới hạn vài “con tốt thí” ở các hội đồng thi cấp tỉnh. Không biết vô tình hay hữu ý, nhưng bước thăng tiến quan lộ của bà Trà quả thật có quá nhiều xác chết. Việc bà Trà ngồi vào ghế bộ trưởng Bộ Nội Vụ chắc chắn sẽ làm nhiều kẻ lạnh gáy khi hình dung họng súng Yên Bái có thể kề vào gáy mình bất cứ lúc nào không hay. “Lá bài tẩy” Phạm Thị Thanh Trà quả thực là một đòn móc sườn hiểm hóc của phe đảng với phe chính phủ của ông Phạm Minh Chính. Tân Bộ Trưởng Công  Thương Nguyễn Hồng Diên, xuất thân từ cán bộ đoàn của tỉnh đoàn Thái Bình. Năm 2000, ông Diên giữ chức chánh văn phòng tỉnh ủy. Từ vị trí này, ông Diên liên tục thăng tiến theo hệ thống đảng và được bầu làm phó bí thư tỉnh ủy Thái Bình năm 2011 sau một cuộc họp bất thường của hội đồng nhân dân. Năm 2015, ông chuyển sang làm chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình thay ông Phạm Văn Sinh. Năm 2018, ông Diên làm bí thư tỉnh ủy Thái Bình ở giữa nhiệm kỳ cũng sau một “cuộc họp bất thường.” Chưa ngồi được nóng ghế, tháng Năm, 2020 thì ông Diên chuyển về Hà Nội làm phó ban tuyên giáo TW, chờ được “sắp xếp” sau đại hội đảng 13. Ngày 8 tháng Tư, ông Diên được bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Công Thương. Với nền tảng cử nhân lịch sử và bằng “tiến sĩ phổ cập” quản lý hành chính công, kinh nghiệm chủ yếu từ phong trào đoàn thanh niên và tổ chức đảng, ông Diên rõ ràng khó có đủ kiến thức về các hệ thống thương mại, ngoại thương, luật lệ hội nhập quốc tế… như người tiền nhiệm Trần Tuấn Anh được đào tạo bài bản và có quá trình làm việc chuyên sâu trong lĩnh vực này. Việc một người của ban đảng là phó ban tuyên giáo TW như ông Diên trở thành bộ trưởng Bộ Công Thương, trong khi người tiền nhiệm Trần Tuấn Anh ngồi ghế trưởng ban kinh tế TW rõ ràng một thay đổi tréo cẳng ngỗng. “Đảng” muốn kiểm soát “siêu bộ” Công Thương – cái “hố đen” đốt quá nhiều tiền vào những dự án sắt vụn ngàn tỷ – nhưng lại không kiếm được người có nền tảng phù hợp. Có thể thấy, ông Diên sẽ đóng vai trò đơn thuần là người kiểm soát và báo cáo, xin chỉ thị của Bộ Chính Trị trong các vấn đề chính sách quan trọng. Còn việc chuyên môn và trách nhiệm của bộ, ông Diên sẽ dựa vào hệ thống tham mưu là 5 thứ trưởng và các phòng ban. Kể ra, làm bộ trưởng như thế thì có lẽ dễ hơn cả việc đi họp quốc hội. (Còn tiếp) Tân Phong XEM THÊM: Phe ông Nguyễn Phú Trọng toàn thắng  
......

Vai trò “trung tâm” của Nhật Bản trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương

Lý Thái Hùng Sự kiện Thủ Tướng Yoshihide Suga bay sang Hoa Thịnh Đốn và là người đầu tiên được Tổng Thống Joe Biden đón tiếp tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 16 tháng Tư, 2021 đã làm nảy sinh hai cảm xúc: vui và lo trong dư luận Nhật Bản hiện nay. Vui là thấy vai trò của Nhật Bản đã trở thành “trung tâm” trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Joe Biden đối với khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Đối với cựu Thủ tướng Abe, người tiền nhiệm của Thủ tướng Suga, và đảng Dân Chủ Tự Do Nhật Bản thì đây là một điều đáng “hãnh diện” vì ý tưởng nối kết và xây dựng Ấn Độ và Thái Bình Dương thành khu vực chiến lược của thế kỷ 21 là do Nhật đề xuất từ năm 2004 cho đến nay, và đã được Tổng Thống Biden chính thức chọn lựa như một thử nghiệm trong quan hệ đối tác đa phương mới, linh hoạt, nhằm định hình sự cân bằng quyền lực ở Ấn Độ – Thái Bình Dương trước sự trỗi dậy khá hung hăng của Trung Quốc. Việc Tổng Thống Biden, đề cử cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Kurt M. Campbell, nằm trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, làm cầu nối quan trọng giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản để khai triển chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương trong 4 năm tới là điều mà Tokyo thấy rằng chính quyền Biden đã chuyển hướng rõ rệt về Á Châu và nhiệt tình nghĩ đến Bộ Tứ. Lo là liệu Tổng Thống Biden nói riêng và chính quyền Hoa Kỳ nói chung sẽ kéo dài “nhiệt tình” đối với khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương đến bao lâu? Giới kinh doanh và chính trị tại Nhật Bản hoan nghênh về sự đối xử đặc biệt của siêu cường Hoa Kỳ đối với Nhật Bản, nhưng cũng quan ngại rằng người Mỹ thay đổi hướng đi rất nhanh một khi quyền lợi không còn phù hợp hay tình hình vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Hoa Thịnh Đốn. Ngoài ra, chính quyền Biden có nhiều mối quan hệ với Châu Âu hơn là Châu Á, và rất ít thành viên cao cấp trong bộ máy quốc phòng và đối ngoại có chuyên môn sâu rộng về Á Châu, đặc biệt là về Nhật Bản hay Ấn Độ. Nhưng cái mà Tokyo cũng lo ngại là liệu Nhật Bản có đáp ứng được hết các đòi hỏi từ Hoa Thịnh Đốn trong thế liên minh mới của Bộ Tứ, trong lúc phải cân bằng các quan hệ thương mại với Bắc Kinh. Khi đến Bộ Ngoại Giao nói chuyện vào tháng Hai, 2021, Tổng Thống Biden đã nói rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ là sự cạnh tranh mang tính địa chính trị, mà quan trọng hơn là cuộc chiến giữa dân chủ và độc tài. Chính từ nền tảng này, chính quyền Biden đã “thuyết phục” Tokyo phải hành động tích cực hơn về dân chủ của Á Châu. Sự thuyết phục này đã thành công khi Hoa Kỳ và Nhật Bản đã cùng lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ Bắc Kinh đã vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng tại Tân Cương cùng các vấn đề khác, sau cuộc họp giữa Bộ Trưởng Ngoại Giao và Quốc Phòng của hai nước (được mệnh danh là cuộc họp 2+2) vào ngày 16 tháng Ba, 2021. Không những thế, Nhật Bản cũng đã linh động hơn quan điểm về Đài Loan kể từ sau cuộc họp 2+2. Trong hơn 5 thập niên qua, Nhật Bản luôn luôn giữ lập trường nhất quán là: “Khuyến khích đối thoại cho một giải pháp hòa bình giữa đôi bờ eo biển Đài Loan.” Nhưng nay, Tokyo đã cho rằng các hành động răn đe quân sự của Bắc Kinh ở eo biển Đài Loan là “sự kiện đáng quan ngại.”  Sau cuộc họp 2+2, Hoa Kỳ và Nhật Bản cam kết tổ chức thường xuyên các cuộc tập trận trên quy mô lớn nhằm tăng cường khả năng phòng thủ quần đảo Senkaku – do Tokyo kiểm soát, nhưng Bắc Kinh cố đòi hỏi chủ quyền và gọi là Điếu Ngư. Nếu nhìn xa hơn dụng ý của các cuộc tập trận này người ta phải ngầm hiểu cũng là nhằm phòng thủ cả Đài Loan. Đó cũng là lý do vì sao trong cuộc gặp mặt ở Tòa Bạch Ốc lần này, Tổng Thống Biden và Thủ Tướng Suga sẽ bàn về tình hình eo biển Đài Loan. Những diễn tiến nói trên, rõ ràng là Nhật Bản đã trở thành “trung tâm” của chính sách đối ngoại mà Tổng Thống Biden muốn qua đó, tiếp cận các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà Trung Quốc đang chiếm đến 65% ảnh hưởng theo cuộc thăm dò mới đây của Trung Tâm ASEAN thuộc Viện Nghiên Cứu Chiến Lược ISEAS Yusof Ishak, Singapore. Mặc dù Bộ Tứ (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc Châu, Ấn Độ) coi khối ASEAN là trung tâm của chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương; nhưng qua cuộc thăm dò nói trên, có đến 40% các nước trong khối ASEAN chưa hiểu rõ chủ đích của Bộ Tứ là liên minh thuần túy quân sự hay kinh tế, và có đến 20% nghĩ rằng đây chỉ là công cụ để các cường quốc tranh giành ảnh hưởng trong khu vực. Cũng qua cuộc thăm dò này, các nước trong khối ASEAN đánh giá cao vai trò của Nhật Bản  trong khu vực. Thứ nhất là về mức độ tin tưởng để cộng tác, Nhật Bản chiếm đến 51%, trong khi Hoa Kỳ chỉ đạt 30%, Trung Quốc 12% và các nước khác 7%. Thứ hai là về vai trò lãnh đạo Á Châu nếu Hoa Kỳ không còn  muốn can dự nữa, thì Nhật Bản được chọn là 40%, Ấn Độ 19%, Trung Quốc 18% và còn lại các nước 23%. Những con số này tuy không nói lên tất cả, nhưng rõ ràng là Nhật Bản có một vai trò “tiên phong” để tranh thủ khối ASEAN hợp tác với Bộ Tứ trong chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương. Tóm lại, Nhật Bản không còn núp sau những “tế nhị” thương mại và an ninh khu vực nữa, mà đã có quyết tâm thay đổi chiến lược để cùng với Hoa Kỳ xây dựng một chiến lược mới nhằm, không chỉ ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc, mà còn thay đổi cục diện tại Á Châu trong cuộc chiến giữa dân chủ và độc tài chuyên chính. Nhưng quan trọng hơn cả là Hoa Kỳ, đặc biệt là chính quyền Biden, phải nhanh chóng có ngay một số thành quả liên quan đến giá trị Mỹ mà nhân loại xiển dương như vấn đề Tân Cương, Hong Kong và nhất là sớm chấm dứt cuộc thảm sát tại Miến Điện mà khối ASEAN đang bất lực giải quyết. Nếu không, Hoa Thịnh Đốn không chỉ đánh mất uy tín, mà còn bị khối ASEAN và thế giới coi là con cọp giấy trước một Trung Quốc đang trỗi dậy một cách hung hãn. Lý Thái Hùng https://viettan.org/vai-tro-trung-tam-cua-nhat-ban-trong-chien-luoc-an-do-thai-binh-duong/  
......

Vở kịch đại hội XIII nhiều tập đã kết thúc

Phạm Nhật Bình - Web Việt Tân Tính đến nay, vở kịch sắp xếp nhân sự cho 5 năm tới (2021-2026) của đảng CSVN chính thức chấm dứt vào đầu tháng Tư, 2021. Đây có thể coi như một vở kịch nhiều tập mà từ tập đầu đến tập cuối đều nằm dưới bàn tay phù thủy: Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng. Vở kịch này được lên khung, dựng tuồng từ tháng Mười, 2018 qua Hội Nghị Trung Ương 8 khai mạc vào ngày 2 tháng Mười, với sự ra đời một số tiểu ban chuẩn bị, trong đó ông Nguyễn Phú Trọng nắm hai tiểu ban nhân sự và văn kiện. Dù chia ra ban này ban nọ nhưng nội dung chính yếu của vở tuồng này là ông Trọng chọn ai ngồi vào ghế tứ trụ (Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội); tất cả còn lại chỉ là phụ. Trong màn giáo đầu, đạo diễn kiêm kép chánh Nguyễn Phú Trọng đưa ra một thông điệp mập mờ là “sẽ nghỉ hưu” vì lý do sức khỏe và đẩy kép phụ Trần Quốc Vượng xuất hiện như một ngôi sao sáng – nhằm thay thế ông Trọng. Trần Quốc Vượng là nhân vật từ chức chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương sát cánh với ông Trọng qua chiến dịch “đốt lò,” đột ngột chuyển qua làm thường trực ban bí thư từ giữa năm 2018 để chuẩn bị kịch bản nói trên. Thâm ý của Trọng muốn cho mọi người tin tưởng một cách mạnh mẽ, ông Vượng là ứng cử viên sáng giá nhất trong vị trí tổng bí thư. Vì thế mà suốt từ Hội Nghị Trung Ương 10 kéo dài cho đến Hội Nghị Trung Ương 14 (tháng Mười Hai, 2020), Nguyễn Phú Trọng lúc nào cũng tìm cách “tiến cử”” Trần Quốc Vượng để được trung ương bầu ở lại thêm một nhiệm kỳ nữa và nếu được chọn ở lại thì ông Vượng chắc chắn sẽ giữ ghế tổng bí thư. Nhưng mọi việc đã không xảy ra như ông Trọng tính. Tuy Trần Quốc  Vượng và Nguyễn Xuân Phúc được Hội Nghị Trung Ương 14 chọn đặc biệt để ở lại thêm một nhiệm kỳ nữa, nhưng phiếu tín nhiệm vào trách vụ tổng bí thư cho đại hội VIII của ông Vượng quá thấp, thua xa Nguyễn Xuân Phúc. Sau khi ông Vượng không còn hy vọng để giành được ghế tổng bí thư cho đại hội XIII, ông Nguyễn Phú Trọng đã “đổi ý” tiếp tục ở lại thêm một nhiệm kỳ tổng bí thư và được Hội nghị 15 (hội nghị trung ương đảng cuối cùng của khóa XII) bỏ phiếu đồng ý với lý do: Đảng vẫn còn cần sự “gánh vác sơn hà” của ông Trọng theo sự yêu cầu của các đàn em trong Bộ Chính Trị như Trần Quốc Vượng, Phạm Minh Chính, Võ Văn Thưởng, Phạm Đình Trạc, Vương Đình Huệ, Trương Thị Mai. Sau khi đã nắm chắc ghế tổng bí thư, ông Trọng cũng sắp xếp 3 ghế còn lại theo ý mình hơn là ý của đảng. Những nhân vật như Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Minh Chính, Vương Đình Huệ đều là do Nguyễn Phú Trọng dàn dựng theo kiểu “đàn em” trong túi áo mà thôi. Và điều này càng xác định thêm sự thao túng của phe Trọng, vì trong khi Quốc Hội khoá 15 mãi đến sau ngày 23 tháng Năm mới có thì Quốc Hội khoá 14 được quyền bầu bán ê-kíp ban lãnh đạo mới! Nói khác đi toàn bộ ê-kíp cũ từ Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ Tịch Quốc Hội, Nguyễn Xuân Phúc, Thủ Tướng Chánh Phủ bị buộc về hưu trước khi mãn nhiệm ngày 23 tháng Năm. Khi cuộc đấu đá trong hậu trường hạ màn, ngậm ngùi nhất là Nguyễn Xuân Phúc phải buông ghế thủ tướng đầy béo bở để bước lên tuyên thệ làm chủ tịch nước của Trọng nhả ra, một vị trí rất tượng trưng trong hệ thống quyền lực cộng sản. Câu hỏi đặt ra là nếu những người được đưa ra đội áo mũ mới hiện nay như Phạm Minh Chính, Vương Đình Huệ mà không được Quốc Hội khóa 15 bầu sau ngày 23 tháng Năm thì họ có bị miễn nhiệm và thay thế không? Hỏi tức trả lời… Dưới một chế độ độc quyền vô luật pháp, làm gì có chuyện đó. Những gì diễn ra ở Việt Nam, nếu không giải thích được bằng luật pháp thông thường, tuyên giáo đảng sẽ dễ dàng giải thích bằng mấy chữ “đúng quy trình” là xong ngay! Bởi vì những nhân sự mới cũng từ trong túi áo tổng bí thư đưa ra để làm trò, nhằm hợp pháp hoá một tình trạng dân chủ giả hiệu. Một đại biểu quốc hội đã ca tụng ông Trọng “đầu bạc hiên ngang” thật quá đúng. Ông hiên ngang cho vở kịch ấy cứ 5 năm diễn một lần và hiên ngang đóng vai kép chính kiêm luôn đạo diễn. Vở kịch nhiều tập đã kết thúc nhưng vẫn còn để lại nhiều tiếng cười chua chát và những lời dè bỉu về thái độ “hiên ngang” của tổng bí thư 3 nhiệm kỳ Nguyễn Phú Trọng. Phạm Nhật Bình XEM THÊM: Sóng gió ngầm trong hội nghị trung ương 13 Về tân trung ương đảng khóa 13  
......

Bà Hạnh

  Tưởng Năng Tiến Tổ chức Người Bảo Vệ Nhân Quyền cho biết hiện có 276 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ tại Việt Nam. Nhà đương cuộc Hà Nội đối xử với họ ra sao?  Tồ Chức Ân Xá Quốc Tế nhận định: “Các nhà tù ở Việt Nam có tiếng là quá đông và không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu. Vietnamese jails are notoriously overcrowded and fail to meet minimum international standards.”  Muốn biết chính xác xem số tù nhân “đông” tới cỡ nào, và họ sống dưới “tiêu chuẩn tối thiểu” bao xa, xin nghe qua lời của năm ba nhân vật đã từng sống qua những năm tháng ở những chốn này. Đặng Thị Huệ: “Chị Huệ nói rằng phòng của chị là 80 mét vuông nhưng mà có những lúc đến 70 người ở hoặc nhiều hơn. Bản thân chị thì chỉ được một góc ngồi bằng một chiếu cá nhân nhỏ, độ khoảng hơn một viên gạch một tí, có nghĩa là khoảng 50 cm. Tất cả đồ đạc và chỗ nằm chỗ ở như thế rất là khổ, không bằng chỗ ở của một con chó!” (Giang Nguyễn. “Thêm Tù Nhân Lên Tiếng Về Tình Trạng Các Quyền Trong Trại Giam Bị Xâm Phạm” - RFA 03/28/2021). Phạm Thanh Nghiên: “Thuở tôi bị giam ở Trần Phú (2008 – 2009) mỗi xuất nằm trên sàn trung tâm giá từ hai đến ba triệu đồng. Sàn đối diện rẻ hơn một chút, dao động từ một đến ba triệu, tùy vị trí. Chỗ nào gần quạt treo tường sẽ đắt tiền hơn. Mỗi sàn có một quạt treo tường. Bây giờ, mọi thứ đắt đỏ, chắc chỗ trong tù cũng đã lên giá.” (Phạm Thanh Nghiên. Những Mảnh Đời Sau Song Sắt. Fall Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2017). Nguyễn Ngọc Như Quỳnh: “Mẹ Nấm-Nguyễn Như Quỳnh đã từng tuyệt thực 15 ngày để phản đối bị dối xử một cách hà khắc, như chế độ ăn uống và không cho mặc đồ lót hay dùng băng vệ sinh. (Hoà Ái. “Tình Cảnh Nữ Tù Nhân Lương Tâm Trong Trại Giam” – RFA 01/03/2018). Tạ Phong Tần: “Đội 10 làm công việc cạo hột điều. Tức là lấy con dao nhỏ cạo cho sạch vỏ chung quanh hột điều cho tróc hết lớp vỏ lụa bên ngoài, hột điều trở nên trắng hết mới được. Mới lên trại học làm thì giao cho cạo một ngày bảy ký lô, sau khoảng nửa tháng thì tăng lên mười lăm ký lô một ngày. Ai cạo không nổi thì bị kiểm điểm, kỷ luật (tức là nhốt vô xà lim), không được xét giảm án. Tụi nó nói xưởng làm việc ẩm thấp, tối tăm, mái lợp tôn thấp lè tè, nóng hừng hực, tù nhân phải tự bỏ tiền ra mua quạt máy, mua bóng đèn neon gắn lên chỗ ngồi của mình quạt cho đỡ nóng mới ngồi làm việc được, nếu không thì nóng chịu không nổi. (Tạ Phong Tần. Đứng Thẳng Làm Người. Westminster, CA: Thiên Thu, 2019). Có thể nói mà không sợ quá lời là hệ thống lao tù hiện tại ở Việt Nam là nơi dùng để bóc lột sức lao động của tù nhân, và trấn lột tiền bạc của thân nhân của họ bằng nhiều hình thức.   T.N.L.T Phạm Thanh Nghiên đặt câu hỏi: “Hãy đặt mình vào vị trí của kẻ ‘không gia đình’, tức là không có người thăm nuôi, không được tiếp tế, bạn sẽ xoay sở thế nào để tồn tại nếu không có sự cưu mang của bạn tù? Bạn tù, tức là những người cũng khốn khổ như mình, có điều hàng tháng hoặc thi thoảng họ được gia đình tiếp tế để không phải ngửa tay đi xin từng cuộn băng vệ sinh, cái bàn chải đánh răng hay ít dầu gội đầu.” Những kẻ không có gia đình” (hay còn gọi là đám con bà phước) đầy nhóc trong mọi trại tù. Sự thiếu thốn những vật dụng cần thiết tối thiểu trong sinh hoạt hàng ngày của họ khiến bất cứ ai còn chút lương tri đều cảm thấy ít nhiều áy náy. Bởi thế, từ lâu nay vẫn có nhiều cá nhân – trong cũng như ngoài nước – vận động quyên góp để có thể giảm thiểu phần nào nỗi khổ cực của những nhân vật bất đồng chính kiến, đang bị giam cầm. Bà Nguyễn Thúy Hạnh, người chủ trương Quỹ 50 K, là một trong những người này – theo tường thuật của Tạp Chí Luật Khoa: Phương châm của Quỹ 50k là giúp đỡ những trường hợp khó khăn ít được công chúng biết đến. Tên gọi của quỹ là nhằm khuyến khích những người dân bình thường đóng góp một số tiền nhỏ, thay vì suy nghĩ phổ biến rằng làm từ thiện thì phải đóng góp nhiều hơn 50 nghìn đồng. Số tiền này cũng đủ nhỏ để giúp những người muốn đóng góp bớt sợ bị công an sách nhiễu… Ý nghĩa của Quỹ 50k vượt xa những hỗ trợ vật chất thông thường cho tù nhân lương tâm. Nó đánh thức những tấm lòng, động viên những người dân bình thường quan tâm đến chính trị, giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi vô hình bủa vây tâm trí. Quỹ 50k, vô hình trung, bình thường hoá những gì bị cho là “chính trị”, là “nhạy cảm”, mang những hoạt động đấu tranh đến với người dân với tất cả sự trong sáng và ý nghĩa đẹp đẽ của nó. Là người yêu cái đẹp và sự lãng mạn, Nguyễn Thuý Hạnh vẽ nên một nét dài đầy tươi sáng của phong trào dân chủ Việt Nam. Nét tươi sáng này, tiếc thay, không giữ được lâu. Phu quân của bà Hạnh, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh cho biết: “…khi vụ Đồng Tâm nổ ra, chúng tui như ở trong tù, không được bước ra khỏi cửa, thực phẩm phải do đứa cháu mang đến rồi nhân viên an ninh mang lên, có thể bị bắt bất cứ khi nào, nhưng nghe Trịnh Bá Phương gọi đến, cô đứng ra nhận giúp tiền phúng điếu viếng tang cụ Kình, Hạnh mở loa ra cho tui nghe vừa đưa mắt nhìn tui, rồi trả lời đồng ý với Phương ngay, khi thấy tui gật đầu. Nếu lúc đó tui lắc đầu, thì Hạnh đã không bị bắt như ngày hôm nay. Nhận lời đưa tài khoản cho Phương rồi, Hạnh và tui mới ngồi bàn và lường hết hậu quả, biết sẽ vô cùng nguy hiểm, nhưng không thể không chia lửa cho Phương, nó cũng đang bị bao vây chặt và bị bắt bất cứ lúc nào vì liên lạc được vài dân oan Đồng Tâm để liên tục đưa tin cập nhật sự kiện, nó lại chỉ một mình, còn chúng tui có hai người, không thể nào để cho nó cô đơn… Rồi tui bắt đầu ngửi ra mùi căng thẳng, tui bảo Phương và Hạnh tuyên bố đóng ngay tài khoản, ngưng nhận tiền phúng điếu. Tuy vậy tiền vẫn tiếp tục đỗ về. Do tui và Hạnh quá cẩn trọng, không để nhập nhằng với quỹ 50K nên hỏng việc, nếu dùng tài khoản của quỹ 50K, có I banking, Hạnh có thể chuyển tiền đi được trước khi bị phong tỏa. Tài khoản VCB bỏ lâu không dùng đến nên không làm I banking. Còn chúng tui bị giam trong nhà nên không ra ngân hàng rút tiền được. Hạnh day dứt, mất ăn mất ngủ vì để mất khoản tiền quá lớn của mọi người, Hạnh cứ thấy mình có lỗi, tui khuyên giải gì Hạnh cũng không vơi đi, luôn nghĩ ra cách để lấy lại. Mới đây, sau khi xử phúc thẩm Đồng Tâm xong, Hạnh ủy quyền cho luật sư Ngô Anh Tuấn viết đơn yêu cầu bộ công an giải tỏa tài khoản phúng điếu. Luật sư gởi đơn lên bộ vài ngày thì Hạnh bị bắt. Nhiều bạn bè cho rằng lá đơn đòi tiền đó là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước vốn cân bằng do sự tính toán cân đo hơn thiệt của nhà cầm quyền trước việc bắt hay không nên bắt Nguyễn Thúy Hạnh. Tui cũng đồng quan điểm đó… Chỉ có cái tâm trong sáng và tấm lòng vị tha như Hạnh mới làm cho quỹ 50K thành công vượt mức mong đợi và gây lo ngại cho nhà cầm quyền. Ban đầu tài khoản của Hạnh nhận phần lớn tiền từ các nhà hảo tâm nước ngoài, số người trong nước còn ít và còn dè dặt, chỉ gởi số tiền rất nhỏ và thường là ẩn danh. Nhưng càng về sau, số bà con hảo tâm trong nước đông dần lên, vượt qua số nhà hảo tâm là kiều bào, vượt qua sợ hãi, công khai tên tuổi, gởi số tiền càng ngày càng lớn hơn. Chính điều này làm nhà cầm quyền e ngại nên quyết ngăn chặn Hạnh.” Ngày 9 tháng 4 năm 2021, BBC có bài viết ngắn (“Phản Ứng Các Giới Trước Vụ Nhà Hoạt Động Nguyễn Thúy Hạnh Bị Bắt”) thu thập ý kiến của những tổ chức quốc tế và nhiều vị thức giả (khắp nơi) về sự kiện này. Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa kêu than: “Một phụ nữ như thế ai không ngậm ngùi và căm phẫn thay khi chịu lao tù?” tuongnangtien's blog  
......

Từ Vũ Hán đến Hà Nội

ẳnh minh họa   Đình Đại    Thông thường thì lời tựa phải nói lên được nội dung của bài viết, nhưng thú thật lời tựa Từ Vũ Hán đến Hà Nội chỉ là một hình thức gợi ý cho dễ nhớ. Bởi vì những điều tôi sắp chia sẻ sau đây chỉ là những suy nghĩ vụn vặt mang tính cá nhân trong mùa đại nạn này.   Từ hơn một năm qua, Vũ Hán đã trở nên nổi tiếng một cách ám ảnh với nhiều cảnh tượng ghê rợn trong những ngày đầu của cơn đại dịch COVID-19. Những cảnh tượng tang thương khủng khiếp đó sẽ còn lặp lại tại nhiều quốc gia trên thế giới.   Dù tên gọi có được gọi khác đi thì nghiễm nhiên Vũ Hán cũng sẽ mãi là cái tên làm gợi nhớ đến cơn đại dịch cúm ghê rợn này.   Thế nhưng có sự liên quan gì giữa Vũ Hán và Hà Nội cơ chứ ?   Vâng ! Chẳng có liên quan gì hết ráo. Chẳng qua chỉ là một sự so sánh ngẫu nhiên của một người sống gần hết tuổi thanh xuân của mình, và cũng ngần ấy năm là nhân chứng của một thứ đại dịch khác : đại dịch cộng sản. Một thứ đại dịch đang tiếp tục tàn phá xứ xở và con người Việt Nam. Tại Việt Nam, cơn đại địch đỏ này đã bùng phát và lây lan nhanh chóng, tuy khó mà nói chính xác được nơi xuất phát của nó, nhưng nghiễm nhiên người Việt nào cũng sẽ dễ dàng trả lời rằng cái nôi của nó là Hà Nội. Ôi ! Hà Nội, thành phố của Hồ Gươm linh thiêng, lãng mạng ấy, cũng đã như thành phố Vũ Hán, đã trở nên « tristement célèbre » : nổi tiếng một cách đáng buồn. Đây không phải là sự kỳ thị vùng miền, vì Hà Nội đích thị là quê Mẹ của tôi, và tôi rất yêu thương, tự hào về Hà Nội lịch sử ngàn năm ấy. Cũng như người ta vẫn yêu thích « Hoàng Hạc Lâu » của thành phố Vũ Hán xa xưa.   Thì rồi nhân loại sẽ phải sống chung với Covid-19 và hy vọng là kháng thể cộng đồng sẽ có thể chống chọi lại được với loại vi khuẩn không ngừng biến dạng này.   Cũng tương tự như thế. Đã có một thời cả thế giới gần như bị cơn sóng đỏ cộng sản nhận chìm. Việt Nam, vốn nằm ở hiểm địa, cũng sớm trở thành một trong những nước bị nhiễm virus cộng sản sớm nhất. Kháng thể Quốc Gia + Cộng Hoà đã giúp cho người Việt cầm cự được vỏn vẹn 20 năm qua sự trợ giúp của thế giới Tự Do. Nhưng thời gian và thời cơ đã không cho người việt có đủ thời giờ để phát sinh được kháng thể cộng đồng ngõ hầu chống lại virus cộng sản. Kết cục là thành trì chống cộng cuối cùng của Đông Nam Á nói riêng và của thế giới nói chung bị sụp đổ. Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng Tư 1975.   Nếu kháng thể để chống lại virus cúm Vũ Hán là khả năng nhận dạng và kích hoạt hệ thống miễn dịch của cơ thể thì kháng thể để chóng lại cộng sản cũng chính là khả năng nhận dạng và kích hoạt ý thức Quốc Gia của mỗi chúng ta. Virus Vũ Hán biến dạng khôn lường thì virus cộng sản cũng thay hình đổi dạng liên tục. Nó có thể đội lốt hiền lương, đạo đức, trí thức, ma cô, tướng cướp… tuỳ theo giai đoạn.Tuỳ theo môi trường. Đặc tính của nó là tấn công Tự Do cá nhân, huỷ diệt tế bào Dân Chủ, để rồi cướp đi từng ngụm Oxy Nhân tính của con người.   Điều bất hạnh là nhân loại sẽ phải tập sống với loài virus Vũ Hán chết người này. Người Việt cũng phải tập chung sống với virus cộng sản đã tàn phá lục phủ ngũ tạng của người Việt Nam hơn 80 năm tại miền Bắc và hơn 40 năm trên cả nước. Cho nên ngày nào người Việt vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của việc tạo cho mình một môi trường kháng thể mạnh mẽ bằng tri thức, bằng sự thiện lương, công chính, bằng vào niềm tin tuyệt đối vào Quốc Gia Dân Chủ Tự Do thì ngày ấy người Việt vẫn thờ ơ nhắm mắt xuôi tay cho cơn đại dịch cộng sản tiếp tục tàn phá đất nước và con người Việt Nam.  
......

Phan Ngọc Thọ xua quân tát vào mặt Nguyễn Phú Trọng hay thực sự là lòng dân ?

Ảnh Phan Ngọc Thọ Thanh Hieu Bui Sự kiện ông Phan Ngọc Thọ chủ tịch Thừa Thiên Huế bị Ban Bí Thư gửi ý kiến ban thường vụ tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế, không đồng ý ông này tiếp tục tham gia ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh, đang là một sự kiện gây chú ý trong tuần qua. Nếu như đây là trường hợp về hưu đúng tuổi ( quá quy định 1,5 tháng ) bình thường, chắc hẳn báo chí không đưa tin nhiều, ban bí thư cũng không phải ý kiến chỉ đạo ông Thọ không được tham gia khoá mới. Theo như cách ông Thọ trả lời báo chí, là dân tình rất mong muốn ông làm tiếp, nhưng chỉ đạo của ban bí thư ông phải chấp hành. Ông mong muốn các đồng chí sau sẽ phát huy tốt. Trong lúc bấp bênh chờ quyết định của Ban Bí Thư, chủ tịch tỉnh Phan Ngọc Thọ đã mời một nhóm nhân sĩ, trí thức yêu nước, cấp tiến, rất có tâm huyết đến đàm đạo.  Ngay sau khi có quyết định BBT không cho ông tham gia tiếp. Những bài viết ca ngợi ông Thọ xuất hiện trên mạng xã hội rất nhiều. Người ta còn lập ra trang Facebook  có tên Những Người Yêu Mến Phan Ngọc Thọ được nhà báo Nguyễn Đăng Hậu kêu gọi mọi người tham gia và kêu gọi 10 người khác tham gia, hoặc trang Ủng Hộ Chủ Tịch Phan Ngọc Thọ. Báo Pháp Luật còn có bài viết mà sự ấm ức với quyết định của Ban Bí Thư được thể hiện ngay trên tiêu đề bài báo. (https://baophapluat.vn/nhip-song-hom-nay/vi-sao-vi-chu-tich-ubnd-tinh-duoc-long-dan-lai-khong-duoc-tai-cu-579332.html) Theo như bài viết của báo Pháp Luật, ông Thọ đã lọt qua 2 vòng hiệp thương và nhận số ủng hộ rất cao. Nhưng chưa đến vòng 3 thì bị chỉ đạo từ trên xuống, ông phải về hưu vì quá hơn một tháng tuổi. Đây cũng hiểu là ông Thọ đã không tự ý rút từ đầu, đến khi có lệnh của Ban Bí Thư ông mới buộc phải rút. Tức nếu cứ để theo lòng dân, hoặc lòng cấp dưới của ông ở Thừa Thiên Huế, thì ông ăn chắc tái cử thêm nhiệm kỳ chủ tịch nữa. Nhà văn, nhà báo Lưu Trọng Văn viết trên facebook bài viết Vị Chủ Tịch Được Dân Yêu. Trong đó có những hình ảnh xúc động khi chủ tịch Thọ gặp người lao công, chị giáo viên, những người dân nghèo lao động... những hình ảnh đầy cảm xúc chỉ có chủ tịch Hồ Chí Minh trước kia và chủ tịch Nguyễn Phú Trọng vừa đây mới có. Những bài viết, những ý kiến của người dân, những bài báo... khắp nơi người ta ca ngợi Phan Ngọc Thọ và buồn, ấm ức với cái quyết định trái lòng dân của Ban Bí Thư trung ương đảng. Những bài viết khiến người ta so sánh tại sao tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng 77 tuổi vẫn ngồi với lý do được dân yêu mến, mà ông Phan Ngọc Thọ còn được dân yêu mến nhiều hơn lại phải về hưu khi mới 58 tuổi.  Càng nhiều bài viết như thế, càng nhiều ý kiến quý mến ông Thọ như thế. Càng cho thấy cái đất nước này quy trình nhân sự của đảng thật khốn nạn. Một người chủ tịch được dân yêu mến, làm được bao điều cho tỉnh của mình, tấm chân tình của ông Thọ khiến cho bao nhiêu nhân sĩ, trí thức yêu nước phải rung động cất lên lời. Vậy mà cái cơ chế khốn nạn của đảng, đã tàn nhẫn loại một người cán bộ yêu nước, thương dân ấy ra khỏi bộ máy vì quá hơn tháng tuổi, trong khi bất chấp mọi quy định, điều lệ để cho một kẻ già nua, ốm yếu như Nguyễn Phú Trọng tiếp tục ở ngôi vị cao nhất. Có lẽ những người hâm mộ, ủng hộ Phan Ngọc Thọ cần khẩn trương sáng tác bài hát. - Anh ơi, xin anh đừng về. May ra Ban Bí Thư sẽ nghe vui tai mà cho ông. Ông Thọ ở lại, như trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng. Nếu tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của người dân Huế đã thể hiện trên các trang Facebook mới lập kia và những bài viết của nhân sĩ, trí thức yêu nước. Ban Bí Thư khoá 13 nên có hành động dũng cảm nhận sai lầm, rút lại quyết định và đồng ý cho ông Thọ được tái cử. Còn không có lý do gì khác, chẳng hạn ông Thọ vướng vụ việc gì, chỉ đúng việc ông Thọ chỉ quá một tháng tuổi, mà can thiệp thô bạo xuống tỉnh để ông Thọ phải về hưu trong sự đau buồn vô hạn của người dân , nhân sĩ thể hiện vừa qua.  Đó là cái tát vào mặc kẻ tham quyền, cố vi Nguyễn Phú Trọng và vạch trần sự thối nát của cái gọi là quy trình nhân sự đảng. Người Buôn Gió    
......

Trí thức và tiếng nói phản biện

Lao Ta Trong bất cứ xã hội nào, t| hì bộ phận có học vấn luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với mọi lĩnh vực. Điều đơn giản này thiết tưởng chẳng cần phải nhắc lại. Nhưng thực tế lịch sử luôn khiến chúng ta không được yên lòng, chủ quan với bất cứ nhận định nào. Số phận của trí thức luôn gắn liền với số phận của những cộng đồng, quốc gia cụ thể, nơi anh ta là thành viên. Trong những xã hội lạc hậu, bảo thủ, trí thức luôn bị dị nghị, bị nghi ngờ, bị lánh xa, thậm chí bị coi thường, bị biến thành kẻ thù nguy hiểm, như chúng ta từng thấy, đang thấy và chắc chắn sẽ còn thấy. Các đấng quân vương, những kẻ độc tài thường đòi hỏi mọi thần dân đều phải nhất nhất tin theo ông bà ta, cấm bàn cãi. Mọi lời ông bà ta ban ra là chân lý cuối cùng, bất khả tư nghị, không ai có quyền nghi ngờ tính đúng đắn tuyệt đối của nó. Trí thức trong những xã hội ấy thường đóng vai trò làm vật trang trí, không có tiếng nói, hoặc quay sang quy phục quyền lực để vinh thân phì gia, chấp nhận làm cái loa cho nó, trở thành những kẻ xu nịnh hèn mạt. Trong khi đó, trí thức là “kho trí khôn” là “túi càn khôn”, là “mỏ trí tuệ” của những xã hội văn minh, đề cao tiếng nói phản biện. Tại đó, trí thức và giới trí thức không chỉ là những người cung cấp ý tưởng, tư tưởng, các sáng kiến, vạch ra kế sách, can dự vào các chính sách, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc bảo tồn những giá trị tinh thần cao quý như đạo đức, lẽ phải, sự tiến bộ, định hình chiến lược giúp quốc gia hướng tới tương lai. Vậy trí thức thực chất là ai? Có khá nhiều định nghĩa thế nào là một trí thức? Theo tiêu chí học vấn và có vẻ cũng dễ được chấp nhận nhất, thì trí thức là người có bằng cấp, có học hàm học vị. Theo tiêu chí công việc, thì trí thức là những người chuyên nghiên cứu, phát minh, sáng chế, quản lý, truyền thụ kiến thức ... nghĩa là làm việc bằng cái đầu. Rồi với mỗi chế độ xã hội lại có những định nghĩa khác nhau, theo quan niệm riêng của mình, về trí thức. Một trí thức lớn (mà tôi không nhớ tên) có một cách nói rất hay, làm nổi bật chân dung của một trí thức. Ông bảo rằng: Người nghĩ ra bom hạt nhân, chắc chắn phải là một bác học.  Nhưng nếu anh ta không thấy trước để cảnh báo về tai họa của bom hạt nhân với nhân loại, thì anh ta chưa phải là một trí thức!”  Một người học đầy mình, có đủ kiến thức đông tây kim cổ nhưng nếu thiếu trách nhiệm với cộng đồng, thiếu đạo đức, vô cảm với nỗi đau đồng loại, thì vẫn chưa phải là một trí thức. Sự quan trọng của trí thức trước hết bởi họ vốn là những người luôn có óc hoài nghi. Người bình thường, những kẻ ít học, có thể yên phận tin theo số đông, nhưng một trí thức thì không, hoặc không dễ tin theo. Thậm chí anh ta sẵn sàng chống lại tất cả để bảo vệ quan điểm, chính kiến của mình.  Nhưng giá trị đích thực, giá trị lớn nhất của trí thức lại ở chính cái phẩm chất ấy?  Thứ hai, trí thức là những người có tầm nhìn xa, có tư duy sắc bén, nhạy cảm với mọi thay đổi. Họ là những người đoán định được tương lai dựa trên những suy tưởng mang tính triết học.  Nhưng có lẽ quan trọng nhất, trí thức là nguồn ánh sáng dẫn dắt sự phát triển lành mạnh của xã hội. Một xã hội không phát triển, chắc chắn là một xã hội không có tương lai. Nhưng sự phát triển thiếu dẫn dắt, thiếu trí tưởng tượng lại rất dễ gây thảm họa, tạo ra thứ chúng ta gọi là nhân tai, thậm chí còn nguy hiểm cả hơn thảm họa thiên tai, như chúng ta vẫn thấy. Chính vì những điều đó mà tiếng nói của trí thức luôn vô cùng quan trọng. Nó cần thiết vào mọi thời điểm, mọi không gian quyền lực chính trị, văn hóa, với mọi thể chế xã hội. Trước mỗi vấn đề lớn của quốc gia, liên quan đến hàng triệu người, thì tiếng nói của trí thức càng phải được lắng nghe một cách nghiêm túc và chân thành. Trên thực tế, thì tiếng nói quan trọng nhất của trí thức thể hiện ở những ý kiến phản biện. Tuy được nhắc đến hàng ngày, nhưng không nhiều người hiểu thấu đáo từ phản biện, hành động phản biện. Vì nó có từ “phản” (luôn được hiểu là chống lại) nên thường phản biện bị gán cho nghĩa tiêu cực. Tiêu cực nhất mà người ta hay quy cho phản biện, là nó làm thất tán sự tập trung, phá rối, gây mất đoàn kết của cộng đồng khi thực hiện một công việc, một chính sách nào đó! Vậy phản biện cần được hiểu thế nào?  Trước hết, phản biện là một tư duy, một thái độ và một quyền. Trong từ điển Đào Duy Anh, thì phản có nhiều nghĩa: Trái; Trả lại; Trở về; Tự xét. Còn từ biện có các nghĩa: Xét rõ để phân biệt; Tranh luận phải trái; …Ghép hai từ lại với nhau thành Phản biện, có thể hiểu là đưa ra một cái nhìn trái chiều mang tính tranh luận, trên cơ sở học thuật và trách nhiệm, để tìm ra những chỗ sai, những chỗ chưa hợp lý, những chỗ chưa chuẩn xác, chưa khôn ngoan, chưa hợp thời… (của một quan điểm, một chính sách nào đó) rồi cùng nhau đạt đến mức hoàn thiện nhất có thể. Như vậy từ sâu trong bản chất, phản biện mang tính trách nhiệm và tinh thần xây dựng, chứ không như nhiều người cho rằng nó nhằm chống lại, phá rối?  Đã phản biện thì đòi hỏi đầu tiên phải có chính kiến. A dua, nói theo thì còn phản biện nỗi gì! Bởi vì a dua là một hình thức xu thời, chắc chắn mang động cơ vụ lợi cá nhân.  Tiếp theo, muốn phản biện, phải có nền tảng học vấn tốt, có tư duy độc lập, không chấp nhận bất cứ CHỈ ĐẠO định hướng nào, của bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào.  Cuối cùng, người đưa ra ý kiến phản biện phải là người có tư cách đạo đức, có tinh thần tự do. (Chiếu theo các tiêu chí này, thì liệu chúng ta có bao nhiêu trí thức, bạn đọc hãy tự trả lời. Rất nhiều người có bằng cấp đầy mình, có hàng chục danh hiệu sang trọng về học vấn đi kèm nhưng thực sự họ chỉ là KẺ GIÚP VIỆC). Vì sao cần tiếng nói phản biện? Trên thực tế không có bất cứ thứ gì là hoàn hảo, vì thế bất cứ thứ gì muốn tiến tới hoàn hảo, cũng cần được soi xét nhiều chiều. Một mô hình phát triển, một đường lối, một chính sách, một điều luật, một chủ trương… có ảnh hưởng lớn đến xã hội, cho dù nhóm soạn thảo có tài giỏi đến đâu, cá nhân nào đó có là thiên tài, thì vì đặc tính “nhân vô thập toàn” của con người, không thể nào bao quát được toàn bộ sự đúng đắn. Sự giới hạn về mặt không gian, thời gian, văn hóa… cũng luôn là một vật cản chắn tầm mắt của những người trong cuộc. Khi đó nó cần các nhà phản biện, như những người có thể giúp họ thoát ra khỏi vấn đề để nhìn nó từ bên ngoài, từ nhãn quan khác, từ phía ngược lại. Bởi vì mục tiêu cuối cùng của phản biện không phải là để tranh hơn tranh kém về tầm vóc học vấn, không phải nhằm tìm cách bôi nhọ, giễu cợt nhau, không nhằm xóa bỏ vô lối, vô lý mà để hoàn thiện thứ bị phản biện. Viết đến đây tôi lại nhớ đến lời của một vĩ nhân: “Dân tộc nào thiếu vắng những nhà phản biện lớn, thì đó là dân tộc đại vô phúc”.  Một đảng phái, một chính thể luôn tuyệt đối hoá mình, tự coi mình là đỉnh cao trí tuệ, là chân lý thời đại để từ đó coi mọi ý kiến không giống mình là sai trái rồi tìm mọi cách đàn áp bằng bạo lực, sẽ không bao giờ có tương lai. 12/4/2021 Tạ Duy Anh  
......

Món nợ tuổi hai mươi

(Đọc Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở chiến trường Quảng Trị 1972) Trần Trung Đạo| Tôi đọc nhật ký Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi của anh Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật ký dày 296 trang tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngã Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Tôi đã có lần đề cập đến Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng. Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đình đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam. Anh viết cuốn nhật ký từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đã gửi cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tròn một năm trong đời quân ngũ. Các hệ thống truyền thông của đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị.” Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung đội truyền tin và cũng là người đã mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi vượt sông Ba Lòng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc còn rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đỡ, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết. Anh đặt tên nhật ký là Chuyện Đời nhưng được thay bằng Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như Nhật Ký Đặng Thùy Trâm, nhật ký Mãi Mãi Tuổi Hai Mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đã trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại Việt Nam. Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng vì tập làm nhà văn nên văn trong nhật ký của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật ký: “Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường… Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay vì ghi lại những gì xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù…” Ngoại trừ tình yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết này vì tôn trọng tình cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lý luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng vì ở tuổi còn nhỏ sự gần gũi và va chạm với xã hội còn khá ít. Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép Đã Tôi Thế Đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven! Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.” Thép Đã Tôi Thế Đấylà một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven... Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!” Anh hổ thẹn vì chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!” Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đã sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi còn rất trẻ. Trần Quốc Toản (1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần Bình Trọng (1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết vì tổ quốc chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy não kia. Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của ký giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đã sống và chết trung liệt như thế nào. Ký giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888: “Một buổi chiều biệt đội của đại uý được tin là sau khi bị đội lính dõng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi cửa chính bị đạp tung ra thì thấy Thiệp đã thức giấc vì tiếng động của vụ tấn công còn vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được gì.Thấy chủ soái thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông [vua Hàm Nghi], nhưng vì quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và còn đang xao động.” Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, còn nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành trình đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện gì với nhau. Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ sĩ còn trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi. Nhưng có một điều chắc chắn họ đã từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không còn làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống bên thành tàu Biên Hòa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi nhục giống nhau. Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó. Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đã trở thành những bãi chiến kinh hồn nhưng trong nhật ký ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hãnh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.” Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam! Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của mình vì đảng đã có sẵn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh. Trong nhật ký ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay câu nói của Lê Duẩn: “Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có tình cảm riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật ký một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc gì thêm. Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xã hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của ý thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật ký ngày 27 tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời mình: “Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế - Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn - Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.” “Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường mòn. Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đã mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh không chống đỡ nổi, đã gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được. Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội. Trong nhật ký ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính mình: “Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập - Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay...” Anh không thể tự trả lời. Tuy nhiên, đoạn nhật ký trong cùng ngày đã giải thích lý do một học sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lý lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức - Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ - Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!” Anh Thạc nhiều tài năng đã chết một cách oan uổng chỉ vì như anh viết “vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai.” Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người gì cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác. Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972: “Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa.” Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lý lịch” trong nhật ký và điều đó cho thấy “vết đen” lý lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau đớn vì lý lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xã hội miền Bắc, đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên cao. Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xã Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lý lịch. Chính trị lý lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế tục về dòng giống nhưng còn bảo đảm mục đích của chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler, đối thủ hàng đầu của Stalin, đã từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lãnh đạo đảng. Stalin phê bình quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lý lịch dựa trên giai cấp xã hội. Anh Thạc có yêu nước không? Tôi tin là có. Không những anh Thạc mà rất đông tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện lên đường “giải phóng miền Nam” cũng vì lòng yêu nước. Nhưng tình yêu nước của các anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Miền Nam mà các anh được đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những cánh đồng bát ngát, những vườn cây sai trái, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa. Người dân miền Nam mà đảng vẽ trong nhận thức các anh là những người đang rên xiết trong gông xiềng “Mỹ Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền hòa chỉ mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một thế kỷ bị thực dân đô hộ. Cũng trong nhật ký ngày 24 tháng 5, anh Thạc tin rằng Sài Gòn ngày đó là một “Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù.” Anh Thạc hiểu thế nào là tổ quốc? Trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc in ở phần cuối của nhật ký, anh phân tích tổ quốc: “Được mang ngòi bút của mình phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng” hay trong nhật ký ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản.” Tổ quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa” hay “gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản” như anh viết nằm bên sông Volga, sông Hoàng Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu. Đoạn văn anh viết được trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hoá, nghị quyết, bài giảng kinh tế chính trị ở trường mà anh đã nhập tâm. Không phải chỉ một mình anh Nguyễn Văn Thạc mà phần lớn nhà văn miền Bắc không ít thì nhiều đều phạm tội đạo văn của đảng. Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa tổ quốc và đảng, giữa ý thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị. Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của đảng không những có khả năng điều khiển hành động mà còn có thể sai khiến cả nhận thức của anh. Trong nhật ký ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết: “Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù.” Anh không biết “Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng khiếp thật. Ai dạy anh viết những câu sắt máu vượt qua tuổi tác của anh như thế, chắc chắn không phải cha mẹ anh mà từ bộ máy tuyên truyền của Đảng. Anh Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục tiêu hàng đầu của tuyên truyền tẩy não CS là đào tạo những con người biết tuân phục. Thuần khiết toàn xã hội qua sách lược trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS. Đó là lý do tại sao các lãnh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro, Pol Pot đều thích hôn nhi đồng. Hình ảnh “hiền từ” của họ bên cạnh nhi đồng là hình ảnh phổ biến nhất tại các nước CS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền Bắc trong bài thơ ông viết năm 1970: Bác Hồ rồi lại bác Tôn Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng Nước da hai bác màu hồng Nước da các cháu nhi đồng màu xanh Giữa hai cái mặt bành bành Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò. Bộ máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một cách sáng tạo” từ cả hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và Trung Cộng nên không lạ gì họ đã lừa gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc một cách dễ dàng. Đọc lại nhật ký của anh Nguyễn Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương tiện tuyên truyền. Trang nhật ký cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc viết: ”Kẻ thù không cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại – Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.” Anh Thạc không trở lại. Nhật ký ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là địa chỉ “Ngã ba đồng lộc.” Hết. Những trang giấy còn lại của cuốn nhật ký cũng không phải là những dòng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngã xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đã đổ xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và những vùng đất miền Nam thân yêu khác. Anh Nguyễn Văn Thạc đã chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã chết. Hàng trăm ngàn cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng phải sống phần đời còn lại trong khó khăn túng thiếu với số tiền phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là ba triệu đồng một tháng cho cả gia đình. Tất cả những mất mát và chịu đựng đó chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đã xác định từ cương lĩnh đảng CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định trong cương lĩnh 1991: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.” Ngoại trừ những kẻ bị tẩy não, một người có nhận thức và theo dõi thời cuộc đều đã nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài và “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bánh vẽ. Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đã chết và còn sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà đảng không thể nào trả nổi, đó là, món nợ tuổi hai mươi. Trần Trung Đạo  
......

Dân chủ nghĩa là ‘không biết, cứ bầu’?

Một screenshot trên trang Facebook của nhà báo tự do Phạm Đoan Trang, kêu gọi bầu cử tự do và công bằng. Hình minh họa. Trân Văn|  Tờ Quân đội nhân dân (QĐND) đang tiến những bước rất dài trên con đường bảo vệ đảng CSVN nhằm… làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”. Những bài mới nhất nhằm biện minh cho sự… đúng đắn của đảng CSVN trong việc sắp đặt cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND vào hạ tuần tháng tới đã cũng như đang đưa thiên hạ đi từ ngạc nhiên đến kinh hoàng... Càng ngày, lối biện giải của tờ QĐND về cách thức tổ chức bầu cử theo kiểu Việt Nam càng kỳ lạ, không chỉ vi phạm hiến pháp hiện hành, phủ nhận các qui định pháp luật liên quan tới nhân quyền, dân quyền mà còn có khuynh hướng muốn …cải tạo nhận thức của… toàn bộ nhân loại về bầu cử mà bài Chiêu trò xúi giục vừa đăng trên tờ QĐND (1) hôm 12 tháng 4 chính là ví dụ mới nhất, rõ ràng nhất… Trong bài viết vừa kể, tờ QĐND chỉ trích kịch liệt quan niệm “không biết, không bầu” đang có khuynh hướng trở thành phổ biến trong cử tri Việt Nam. Nếu “không biết, không bầu” là… rất thâm hiểm như tờ QĐND nhận định thì khoảng một nửa trong số 13 điều trong Chương 1 (Chế độ chính trị) và toàn bộ Chương 2 (Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) trong Hiến pháp Việt Nam (2) trở thành… dư thừa! Cách lập luận của QĐND trong Chiêu trò xúi giục nhằm cổ xúy… không biết vẫn… cứ bầu vì đó mới là cách thức… đúng đắn thực hiện… quyền công dân! Theo QĐND thì “không biết, không bầu”là… chiêu thức cũ, vẫn lấy cảm hứng từ những câu chuyện “dân chủ phương tây”, mà chính những xã hội đó đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề, hố sâu ngăn cách các bộ phận nhân dân như những vết thương không cầm máu! Tranh cử theo kiểu “dân chủ phương tây” (tự do ứng cử, ứng cử viên tự do xây dựng kế hoạch hành động, tự do giới thiệu - vận động tranh cử cử để cử tri xem xét, lựa chọn) bị QĐND xác định là… những “gót chân Asin” mang biểu hiện lợi ích cục bộ, thao túng chính trị, tranh giành cử tri bằng mọi giá, triệt hạ đối thủ bằng mọi cách, gây bất bình giữa các tầng lớp trong xã hội. Những cuộc bầu cử lãnh đạo cao cấp của nhiều quốc gia theo kiểu “dân chủ phương Tây” bị QĐND xem là nguyên nhân gây… bất ổn, náo loạn, đổ máu, càng ngày càng cho thấy những bất đồng, phân biệt về quyền làm chủ của công dân giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội là rất khó có thể điều hòa và… cổ vũ tự do tuyệt đối, tự do vô chính phủ trong lúc này bị QĐND xem là chẳng những thiếu hiểu biết, mà còn rắp tâm phá hoại!... Có lẽ chỉ ở Việt Nam “không biết, không bầu” mới bị miệt thị tàn tệ như vậy. Lối biện giải của QĐND đã xé toạc Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND (3). Muốn bầu cử tại Việt Nam như thiên hạ (phải bảo đảm quyền được biết của cử tri để họ tự do lựa chọn bị cảnh cáo là… không chỉ cổ vũ cho chủ nghĩa tự do tùy tiện và chủ nghĩa dân túy vốn đang là ác mộng của nhiều nước trên thế giới mà nó còn liên quan đến lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền với những ưu việt đã được khẳng định! *** Nếu cách thức tổ chức bầu cử của đảng CSVN (công dân – cử tri chỉ có quyền bỏ phiếu cho những cá nhân đã được hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam chủ động chọn trước, công dân – cử tri chưa bỏ phiếu thì đảng đã chọn và sắp đặt xong nhân sự lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền mà về nguyên tắc phải được dân cử hoặc được các đại diện do dân cử lựa chọn – phê duyệt) thật sự đúng đắn… Nếu… “không biết không bầu” chỉ là… cớ để các thế lực thù địch phản bác sự ổn định chính trị và xã hội ở Việt Nam nhằm… hạ thấp vai trò, uy tín của Việt Nam với bạn bè quốc tế và đối tác, ngăn các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam, thậm chí là… căn nguyên có thể cướp đi việc làm, thu nhập của người lao động trong xã hội và đặc biệt làm giảm động lực tinh thần hướng tới mục tiêu xây dựng Việt Nam hùng cường... Nếu hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam thực hiện thành công… Chỉ thị số 25-CT/TW “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”, phát huy vai trò dẫn dắt, đề xuất ý tưởng của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, thể hiện vai trò của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế như QĐND từng khoe cách nay hai tháng (4), nhân loại sắp phải thực hiện một cuộc… cải tạo toàn diện về nhận thức cho… vài tỉ người về dân chủ, tự do, nhân quyền! Lẽ nào văn minh nhân loại sắp đổi hướng? Chú thích (1) https://www.qdnd.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/chieu-tro-xui-giuc-pha-hoai-656568 (2) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx (3) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Luat-Bau-cu-dai-bieu-Quoc-hoi-va-dai-bieu-Hoi-dong-nhan-dan-2015-282376.aspx (4) https://www.qdnd.vn/doi-ngoai/doi-ngoai/viet-nam-phat-huy-vai-tro-dan-dat-de-xuat-y-tuong-tai-lien-hop-quoc-651652  
......

Cơ hội lưu danh sử sách vẫn đang nằm trong tay những người CS

Ảnh ông Hồ Đình Tùng|   Đỗ Ngà|   Đảng cộng sản đang tồn tại dựa trên 2 lớp thành trì lớn báo vệ: Thứ nhất là tuyên truyền dối trá; Thứ nhì là thành trì bạo lực. Trong tuyên truyền dối trá có công tác báo chí tuyên truyền và giáo dục tuyên truyền. Trong bạo lực có bạo lực công an, có ngành tư pháp công cụ, và dự phòng cho bạo lực công an là bạo lực quân đội nếu xảy ra biểu tình với quy mô lớn. Nghĩa là trong lớp thành trì tuyên truyền đó có 2 lớp tuyên truyền và trong thành trì bạo lực có 3 lớp bạo lực bọc lót cho nhau. Có nghĩa là trì trong thành trì.   Lớp thứ nhất của thành trì tuyên truyền được quản lý bởi Ban Tuyên Giáo và sự hỗ Trợ của Bộ Thông Tin và Truyền thông để điều hành hệ thống báo chí trên 800 tờ báo. Trong hệ thống báo chí đó có 4 “con sếu đầu đàn” dẫn đường, đó là Đài Truyền Hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng Nói Việt Nam - VOV, Thông Tấn Xã Việt Nam, và báo Nhân Dân.   Lớp thứ nhì của thành trì tuyên truyền được quản lý bỡi Bộ Giáo Dục và các hệ thống trường đảng. Bộ giáo dục có nhiệm vụ nhồi sọ cho học sinh sinh viên để những người đó mất đi tư duy độc lập. Các trường đảng làm nhiệm vụ nhồi sọ cho đảng viên được cơ cấu làm lãnh đạo, để đảm bảo rằng, sọ của họ chứa hoàn toàn bã lý luận CS và từ đó những người này trở nên trụ cột bảo vệ chế độ.   Lớp thành trì thứ nhất của bạo lực được biên chế bởi 1,5 triệu công an bủa khắp. Mục đích chấp pháp là phụ còn mục đích truy lùng mầm mống chống đối chế độ là chính. Họ lập hồ sơ theo dõi, tung người đóng giả “những nhà hoạt động dân chủ” đánh phá và chỉ điểm làm tan rã phong trào đối lập từ trong trứng nước, sau đó là hốt hết về đồn và tìm cách ghép một tội gì đó để bỏ tù nạn nhân.   Lớp thành trì thứ nhì của bạo lực chính là tòa án. Bất kỳ vụ án nào liên quan đến chính trị, thì tòa án sẽ kết án theo chỉ đạo và loại bỏ hoàn toàn vai trò bào chữa của luật sư. Những vụ án này thuê luật sư vô ích. Càng cãi nó càng tăng thêm tội.   Lớp thứ ba là quân đội. Thực chất của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hiện nay được đảng hướng đến vai trò sẽ hỗ trợ cho ngành công an nếu cần. Phần chống đỡ kẻ thù phương bắc bị gác lại vì phần đó đã có “các hiệp định hữu nghị” lo. Được biết, việc triển khai 6000 công an bảo vệ đại hội XIII có lực lượng quân đội dự phòng sẵn sàng ứng phó nếu cần.   Với 5 thành trì bảo vệ như vậy, nếu nhân dân muốn tấn công lật đổ CS thì phải vượt qua 5 thành trì đó e rất khó. Tuy nhiên, nếu nội bộ ĐCS tự chuyển biến từ bên trong thì 5 thành trì kia sẽ tự đổ. Nó như hình ảnh công thành trong chiến tranh thời xưa vậy, người ta nói muốn công thành từ bên ngoài thì quân tấn công phải mạnh gấp 10 lần quân giữ thành, còn nếu muốn công thành từ bên trong thì chỉ cần có quân nội gián thực hiện thành công hành động mở thành thì sẽ chiếm được thành trì một cách dễ dàng mà không cần phải đổ máu quá nhiều.   Nước Nga là một hình ảnh về sự sụp đổ thành trì CS từ bên trong. Người mở cổng thành đó không ai khác chính là Mikhail Gorbachev. Hiện nay nước Nga vẫn còn đang chìm trong họa độc tài của những người CS cũ nên vai trò của Mikhail Gorbachev không được thừa nhận đúng giá trị. Tuy nhiên, về sau lịch sử nước Nga sẽ đặt Mikhail Gorbachev đúng vị trí của ông. Nếu Vladimir I. Lenin mang đến chết chóc cho nước Nga và thế giới thì Mikhail Gorbachev là người kết thúc cái chế độ man rợ đó. Thế giới đã đặt Vladimir I. Lenin vào vai trò ác quỷ ngàn năm hiếm có thì thế giới cũng sẽ phải đặt vai trò Mikhail Gorbachev vào vai trò diệt ác ngàn năm hiếm gặp.   Nói về Việt Nam thì ông Nguyễn Phú Trọng không sợ nhân dân, vì rõ ràng ông biết với 5 lớp thành trì như thế và với thực tế tinh thần đối lập CS rệu rã chưa từng có thì ông thừa biết “có đưa súng thì chúng nó cũng quay súng vào nhau mà bóp cò chứ làm gì được CS bọn tao?!”. Tuy nhiên cái mà ông Nguyễn Phú Trọng sợ nhất hiện nay là sự chuyển biến tư tưởng từ bên trong ĐCS. Trong các cuộc họp đảng, ông Nguyễn Phú Trọng chưa bao giờ lơ là công tác chống “Diễn Biến Hòa Bình”.   Chính trị là một cuộc chơi được ăn cả ngã về không. Nếu một lãnh đạo CS mà tập hợp được một lực lượng ủng hộ để âm thầm lên nắm quyền và thực hiện hành động đả đảo ĐCS từ bên trong thì người đó sẽ là anh hùng lưu danh sử sách ngàn năm. Nếu nói ông Hồ Chí Minh là nhân vật lớn nhất của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20 với vai trò là bạo chúa ngàn năm hiếm gặp, thì ngược lại, ai đả đảo được ĐCS người đó sẽ được vinh danh như vĩ nhân cứu nguy cho dân tộc và được lịch sử ngàn đời sau ghi nhận. Chính người đó sẽ vượt trên ông Hồ Chí Minh về vai trò lịch sử.   Cuộc chơi nào cũng vậy, nếu anh là CS mà có tham vọng làm nhân vật lịch sử xóa dấu tích bạo chúa thì anh sẽ phải sẵn sàng tư tưởng trả giá rất đắt nếu chẳng may bị lộ. Những con người đang ngồi bên trong ĐCS kia có dám chơi lớn không? Trong các ông, ắt phải có những người có ước mơ lưu danh sử sách chứ chả nhẽ những người CS các ông chỉ toàn là loại tham vọng tầm thường như đám chuột quan chức hôi thối mà dân hằng ngày chửi rủa không tiếc lời ấy sao?   -Đỗ Ngà- P/S: Hôm nay Cơ quan công an đã bắt giữ ông Hồ Đình Tùng, Phó chủ tịch HĐND TX.Nghi Sơn (Thanh Hóa), để điều tra liên quan đến các hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ông đã thất bại trong hành động, tuy nhiên tôi rất nể ông ông Tùng ạ! Link: https://thanhnien.vn/.../thanh-hoa-bat-pho-chu-tich-hdnd...  
......

Ủy viên BCT Đại tướng Lương Cường sẽ "trôi dạt" về đâu?

  Thao Ngoc|   Nói “trôi dạt” bởi vì sau Kỳ họp Quốc Hội thứ 11 vừa qua, chúng ta thấy với những màn “miễn nhiệm” ngang xương khi chưa hết nhiệm kỳ theo luật, và những đề bạt mới, thì những vị trí quan trọng quanh chiếc “mâm vàng” đã hết chỗ.   Ghế Trưởng ban Tổ chức TƯ, Trưởng ban Tuyên giáo TƯ, và Trưởng ban Dân vận TƯ, Chủ tịch UB Mặt trân.v.v. là những chức mà ông Lương Cường có thể nắm giữ với một UVBCT, đã có chủ.   Thế nhưng màn kịch “miễn nhiệm”cũng không trọn vẹn, khi có hai người nhất quyết “làm đúng luật”, ngồi hết nhiệm kỳ.   Đó là: Phó TT Trương Hòa Bình và Phó Chủ tịch quốc hội  Đỗ Bá Tỵ.   Từ khi Đại hội 13 ĐCSVN kết thúc, nhìn bộ Quốc Phòng (BTQP)  có 2 UVBCT, ai cũng nghĩ ông Lương Cường sẽ lên làm BTQP như Ngô Xuân Lịch trước đây. Để cho tướng chỉ huy trận mạc Đỗ Bá Tỵ sang QH “ngồi chơi xơi nước”. Dư luận đặt câu hỏi rằng, giả sử chiến tranh nổ ra thì sẽ lấy “ông BTQP không đọc được bản đồ tác chiến, và ông Đại tướng không biết bắn súng”( lời của tướng Lê Mã Lương) ra chống giặc ư?   Thế nhưng những chiếc loa của hệ thống truyền thông quốc doanh đang mở hết công suất ca ngợi sự “thành công tốt đẹp” của kỳ họp quốc hội vừa qua, tán tụng bộ máy mới, những gương mặt đầy triển vọng, đầy chất anh hùng ca, thậm chí còn khai thác những hình ảnh thời chăn trâu cắt cỏ, tuổi thơ dữ dội của đương sự. Chỉ chưa thấy đồng chí nào học đèn đom đóm xuất hiện mà thôi.   Tất cả chỉ nhằm nói rằng, kỳ này đã “sáng suốt hơn những kỳ trước”, đã lựa chọn được những nhân vật xứng đáng, mở ra một tương lai cực kỳ sán lạn, và tiếp tục ca bài “chưa có bao giờ đẹp như hôm nay”.v.v.   Nhưng, nếu chúng ta để ý, thì hầu như đại hội đảng hoặc kỳ họp quốc hội nào cũng “thành công rực rỡ ”, không có đại hội/kỳ họp nào dở cả, không có sự lựa chọn nào không sáng suốt cả. Thế nhưng đằng sau cái sáng suốt của mỗi kỳ đại hội hay bầu cử, thì mặt trái của nó dần dần được phơi bày khi bộ máy đi vào vận hành.   Trước đó, có ai dám nói đảng và quốc hội kém sáng suốt, chọn nhân sự sai đâu. Cuối cùng vẫn tòi ra một lũ mọt nước hại dân, từ UVBCT cho đến UVTƯ, từ bộ trưởng cho đến tướng lĩnh, thi nhau đục khoét và “ăn không từ một thứ gì của dân. Cuối cùng lần lượt phải tra tay vào còng.   Nội các chính phủ hiện nay có 2 người là giáo sư, tiến sĩ, 3 người là phó giáo sư, tiến sĩ . Ngoài ra, có 9 tiến sĩ, 13 thạc sĩ, chi có 1 cử nhân. Rất hoành tráng.   Nhưng người dân hy vọng gì khi một bộ trưởng Giao thông vận tải  có cái BOT Cai Lậy vô lý chặn huyết mạch nuôi sống cả nước mà suốt bao nhiêu năm không giải quyết nổi. Cái con rắn Cát Linh - Hà Đông đầy tai tiếng và tốn kém, sau hơn chục năm trễ hẹn vẫn chưa dám đưa vào hoạt động. Thế mà Thể cá tra vẫn tại vị.   Người dân hy vọng gì khi một bộ trưởng Tài nguyên & môi trường vẫn ủng hộ việc phá rừng làm thủy điện, mặc cho lũ lụt và lở đất gây nên những thảm họa kinh hoàng, đã bị một phụ nứ dân tộc vặn cho cứng họng?   Người dân hy vọng gì khi một bộ trưởng Bộ Công thương xuất thân từ cán bộ đoàn, làm bí thư tỉnh mà để Đường Nhuệ lộng hành trong địa phương mình hàng chục năm. Nay nhờ nịnh thối một phát mà phất lên?   Trở lại vấn đề ông Lương Cường. Hiện Thượng tướng Phan Văn Giang(sinh năm 1960) đã là BT/BQP. Chắc chắn sẽ lên đại tướng, nhưng dù sao vẫn là đàn em ông Lương Cường (sinh năm 1957) cả tuổi đời và cấp bậc. Vậy chẳng lẽ ông Lương Cường chịu giữ chức cũ, là Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, chấp nhận khom lưng làm cấp dưới cho đàn em mình? Nếu vậy thì BQP có 2 UVBCT.   Không thể “một rừng hai cọp” được.   Kể cả dù muốn làm một bộ trưởng nào đó cũng không còn chỗ. Hay phải chấp nhận làm phó cho một ban nào đó cho hết nhiệm kỳ và về vườn?   Phải chăng phải có một vụ té lầu,hay sự xâm nhập bất ngờ của virus lạ, mới giải quyết được vụ này?   TN 13/4.    
......

Hội chứng đám đông

Phạm Đình Trọng MỘT. Loài người đã bước vào nền văn minh tin học huy hoàng, tức là đã đi qua nền văn minh công nghiệp sáng lạn. Vai trò lịch sử của văn minh công nghiệp không phải là những phát minh khoa học vĩ đại, cũng không phải là những kĩ thuật công nghệ kì diệu. Vai trò lịch sử của văn minh công nghiệp là tách con người ra khỏi bầy đàn thành những cá nhân, là khẳng định sự có mặt của những cá nhân trong cuộc đời. Và vai trò lịch sử của văn minh tin học là nâng những cá nhân đó lên tầm vũ trụ. Xã hội trước tư bản công nghiệp, con người hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, sống nhờ vào thiên nhiên. Mỗi con người riêng lẻ quá nhỏ bé trước sức mạnh thần linh bí hiểm của thiên nhiên. Sấm sét. Giông tố. Bão bùng. Lũ lụt. Những con người bé nhỏ phải tìm sức mạnh, tìm sự tồn tại trong bầy đàn, trong số đông. Chỉ có số rất it tách ra khỏi bầy đàn, có vị thế cao hơn bấy đàn, có vai trò dẫn dắt bầy đàn. Đó là những tù trưởng, chủ nô, vua chúa. Chỉ tù trưởng, chủ nô, vua chúa mới có cá nhân. Tù trưởng, chủ nô, vua chúa được thể hiện quyền uy, được thể hiện cái Tôi của mình bằng qui định, luật lệ, phép tắc sai khiến đám đông, thâu tóm xã hội, được đòi hỏi bề tôi phải răm rắp phục tùng. Khổng Tử, con đẻ của xã hội phong kiến Trung Hoa chia giống người ra làm hai loại là quân tử và tiểu nhân. Quân tử là người biết chữ thánh hiền, biết phép tắc xã hội, biết đạo lí làm người, răn dạy số đông, răn dạy tiểu nhân. Quân tử là những cá nhân có tên tuổi đã tách ra khỏi bầy đàn. Tiểu nhân là những con người chưa có khuôn mặt riêng, còn lẫn lộn trong bầy đàn vô danh. Không có cá nhân nên trong xã hội không có quan hệ cá nhân với cá nhân, không có quan hệ bình đẳng con người với con người. Chỉ có quan hệ trên và dưới. Trên ban phát và dưới hàm ơn. Đám đông hàm ơn luôn cần được chỉ bảo, dẫn dắt, noi theo. Vì vậy đám đông luôn cần có minh quân cai trị và cần có thần tượng tôn thờ. Đó là xã hội thần dân. Thần phục người cai trị, hàm ơn người ban phát, sùng bái người có danh là tâm lí tự nhiên, là nhu cầu văn hoá, tinh thần của đám đông vô danh. Thời bầy đàn, văn học chỉ có anh hùng ca, ca ngợi những người hùng dẫn dắt bầy đàn chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng các bầy đàn khác. Nhân vật anh hùng ca không có cá tính, không có tính cách tầm thường, dung tục của những con người bình thường mà chỉ có những phẩm chất cao thượng, những đức tính phi thường tiêu biểu cho phẩm chất, đức tính tốt đẹp của cộng đồng mà nhân vật anh hùng ca đại diện. Không gian trong anh hùng ca là không gian linh thiêng tôn giáo. Mối quan hệ trong anh hùng ca là mối quan hệ thần thánh, không có mối quan hệ suồng sã của những con người thường, của cuộc đời thực. HAI. Triết học ánh sáng thế kỉ 18 giúp con người mở bừng mắt nhìn vào thế giới tự nhiên và nhìn vào xã hội loài người. Nhìn vào tự nhiên, khám phá tự nhiên, con người tạo ra liên tiếp những cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật mang lại sức sống mạnh mẽ cho loài người và mang lại sức mạnh phi thường cho từng con người. Nhìn vào xã hội, con người có sức mạnh, có ánh sáng của trí tuệ bừng bừng nộ khí trước bất công xã hội, trước bất bình đẳng giữa con người, giữa vài cá nhân cai trị với bầy đàn bị trị. Cách mạng tư sản dân quyền là sự nổi dậy của những cá nhân trong bầy đàn đòi cá nhân phải được nhìn nhận, đòi con người có mặt trong cuộc đời là những cá nhân, những cái Tôi riêng biệt chứ không phải là bầy đàn, không phải là số không. Xã hội công nghiệp ra đời từ cách mạng khoa học kĩ thuật xác nhận vị trí của cá nhân trong xã hội. Nhà nước dân chủ tư sản ra đời từ cách mạng dân chủ dân quyền xác nhận vị trí cá nhân trong luật pháp nhà nước tư sản công nghiệp. Chỉ đến xã hội công nghiệp con người mới có mặt trong cuộc đời với tư cách cá nhận, tư cách công dân. Trước đó, con người chỉ là đám đông, là bầy đàn, là thần dân. Văn học ghi nhận sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, viết về số phận những cá nhân với cuộc sống, tính cách của những con người bình thường là tiểu thuyết hiện đại với đủ độ dài ngắn. Trường thiên tiểu thuyết như truyện dài Bỉ Vỏ của nhà văn Nguyên Hồng, truyện dài Eugénie Grandet của nhà văn Pháp Honoré de Balzac, truyện dài Bố Già của nhà văn Mỹ Mario Puzo. Đoản thiên tiểu thuyết như truyến ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Không còn mối quan hệ thần thánh giữa cá nhân cai trị ban phát và bầy đàn bị trị hàm ơn. Chỉ còn mối quan hệ bình đẳng, suồng sã giữa cá nhân với cá nhân, con người với con người. Không viết về chiến công, không viết về cái cao cả anh hùng, tiểu thuyết quan tâm khai thác góc khuất số phận những con người bình dị, quan tâm đến nỗi đau và niềm vui, yêu thương và căm ghét, cao thượng và hèn hạ của những cái Tôi. Không có cái Tôi trong cuộc đời thì không có tiểu thuyết hiện đại. Cuối thế kỉ 18, cách mạng tư sản dân quyền mới nổ ra ở một số nước châu Âu, mở đầu sự kết thúc chế độ phong kiến trung cổ châu Âu. Đi trước thời đại hơn thế kỉ, từ đầu thế kỉ 17, nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Carvantes đã viết tiểu thuyết Don Quijote kể câu chuyện loài ngưởi giã từ xã hội phong kiến trung cổ bước sang xã hội mới dù đổ vỡ, mất mát nhưng đầy háo hức và hài hước. Để rồi đến thế kỉ 19 cụ Mac mới nhận ra rằng loài người giã từ chế độ xã hội cũ đều với nụ cười châm biếm, hài hước. Phát hiện của cụ Mác đúng cả với xã hội Việt Nam. Tiểu thuyết Số Đỏ của tài năng văn chương kiệt xuất Vũ Trọng Phụng đã phát hiện, ghi nhận nét hài hước, châm biếm, chất humour của xã hội Việt Nam từ văn minh làng xã ngưng đọng, trì trệ bước vào văn minh đô thị đầy biến động, đầy may rủi bất ngờ và cũng đầy bi hài. Không phải chỉ ghi nhận cái Tôi trong xã hội công nghiệp. Xã hội công nghiệp đầy biến động bất ngờ. Với mẫn cảm nghệ sĩ của nhà văn, tiểu thuyết hiện đại còn là dự báo xã hội. BA. Theo phân chia tiến trình lịch sử loài người của cụ Mác, xã hội loài người đi từ hang động cộng sản nguyên thuỷ, qua vật vã lam lũ nông nô, đến giấc ngủ ngàn năm trong đêm tối phong kiến âm thầm trung cổ, rồi mới vươn vai thức dây bước vào xã hội công nghiệp để hình thành giai cấp công nhân và giai cấp công nhân vĩ đại của cụ Mác sẽ đưa loài người bước lên đỉnh cao chói lọi là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản. Như vậy văn minh xã hội chủ nghĩa còn rực rỡ, còn cao hơn văn minh công nghiệp. Nhưng thực tế nhà nước xã hội chủ nghĩa của đảng cộng sản cai trị người dân đã đưa quan hệ con người với con người thời công nghiệp trở về thời phong kiến trung cổ, chỉ người có quyền lực mới có cá nhân. Còn dân chúng chỉ là đám đông vô danh, chỉ là bầy đàn công cụ, phải chịu sự chăn dắt, sử dụng của quyền lực. Thời văn minh công nghiệp nhưng trong thể chế cộng sản không còn cá nhân, không còn mối quan hệ bình đẳng con người với con người. Chỉ còn bề trên và phận dưới. Chỉ còn ban phát và hàm ơn. Người có quyền hiện nguyên hình là chủ nô, là lãnh chúa được thần thánh hoá thành những con người siêu phàm, cao cả. Một kẻ vô danh lọt được vào hệ thống quyền lực, vừa ngồi lên ghế lãnh đạo nhà nước liền được báo chí thêu dệt thành bậc chí thánh, tuổi thơ nghèo khổ phải ngồi học dưới ánh sáng lập loè đom đóm mà thành tài! Những bần cố nông, cùng đinh dưới đáy xã hội trở thành lãnh đạo nhà nước cộng sản đều mang mặc cảm hèn kém phải cố thêu dệt ra những huyền thoại lung linh, có tài đức xuất chúng, khác người như Thánh Gióng! Quyền lực được thần thánh hoá để ngu dân, để tạo ra khoảng cách thần thánh giữa cá nhân có quyền và bầy đàn dân ngu. Quyền lực càng được thần thánh hoá, xã hội càng tăm tối ngu dân thì người dân càng an phận cam chịu. Dân cứ an phận cam chịu sự chăn dắt của bất kì quyền lực nào, dù là kẻ dẫn dắt mù quáng, dốt nát nhưng đã được thần thánh hoá cũng thành tài giỏi. Dù dân phải chịu những mất mát đau đớn, phải tham gia vào những tội ác man rợ nhưng vẫn phải biết ơn. Ơn đảng, ơn bác trở thành xiếng xích trong tiềm thức, trong tư duy, trở thành công cụ cai trị của nhà nước cộng sản. Mọi lãnh đạo cộng sản đều trở thành những bậc thánh, thánh chết và cả thánh sống là vậy. Từ thánh Hồ Chí Minh, thánh Võ Nguyên Giáp, thánh Trần Đại Quang đã chễm chệ chiếm chỗ ngang hàng tượng Phật trong các chùa chiền, đến Bồ tát Đỗ Mười. Rồi thánh đầu bạc hiên ngang Nguyễn Phú Trọng. Các công thần dựng đảng Trần Phú, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh . . . không hiển thánh trong các chùa chiền thì cũng hiển thánh trong bảo tàng, nhà lưu niệm, lăng mộ bề thế, nguy nga hơn cả những cung điện, lăng tẩm vua nhà Nguyễn. Giữa kỉ nguyên văn minh công nghiệp, Hiến pháp nhà nước cộng sản phải ghi đủ mọi quyền con người của người dân như Hiến pháp mọi nước dân chủ văn minh trên thế giới. Nhưng Quốc hội làm ra Hiến pháp cho người dân mọi quyền con người rồi Quốc hội lại hối hả nặn ra đủ các thứ luật vi Hiến tước đoạt hết mọi quyền của người dân ghi trong hiến pháp. Luật đất đai tước quyền tư hữu mảnh đất sống. Luật bầu cử tước quyền bầu cử, ứng cử. Luật báo chí, luật an ninh mạng, luật tố tụng hình sự . . . tước đoạt sạch sành sanh các quyền khác. Hiến pháp bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân nhưng người dân bộc lộ chính kiến trên mạng xã hội không cùng chính kiến với chính thống liền bị khép vào điều 117 luật tố tụng hình sự: Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước! Còn gì quái gở hơn khi nhà nước làm ra luật mẹ cho người dân quyền, lại làm ra luật con buộc tội người dân thực thi quyền đó là phạm pháp! Người dân không còn cá nhân thì đương nhiên lại trở về bầy đàn. Con người không có quyền công dân làm chủ đất nước thì lại trở về thân phận thần dân, làm công cụ của quyền lực. Với tư cách công dân làm chủ đất nước, người dân biểu tình bày tỏ chính kiến trước những vấn đề hệ trọng của đất nước thì hệ thống truyền thông ra rả “Mọi việc đã có đảng và nhà nước lo”, phủ nhận trắng trợn con người công dân của người dân. Còn công an thì thẳng tay quật dùi cui, dí roi điện, tung chân đá, thoi nắm đấm vào mặt người dân biểu tình. Ra đòn đánh nhừ tử thân xác người dân, công an nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng đánh tơi tả, đánh rách nát Hiến pháp ghi nhận quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, biến Hiến pháp thành mớ giấy lộn. BỐN. Xã hội không còn cá nhân. Quyền lực trở thành thần thánh. Người dân dù là nhà khoa học, trí thức, nghệ sĩ cũng chỉ là những thân phận nhỏ bé, hèn kém, vô nghĩa trong bầy đàn. Và cuộc sống hàng ngày đầy rẫy hội chứng đám đông. Thời đau đớn giống nòi, dân bị dìm trong biển máu và nước mắt, trong chất ngất oan khiên. Nhưng ông nhà thơ không nguyện nói nỗi đau của một thời lịch sử, không nói nỗi khắc khoải của dân mà ông chỉ nguyện làm con chim hót quanh lăng mộ một ông thánh cộng sản: Mai về miền Nam thương trào nước mắt / Muốn làm con chim hót quanh lăng bác! Ông nghị sĩ Quốc hội, giáo sư, tiến sĩ, viện trưởng một viện y học danh giá đứng giữa hội trường Diên Hồng toà nhà Quốc hội nỉ non hót ca ngợi ông thánh cộng sản đầu bạc hiên ngang Nguyễn Phú Trọng. Không có cá nhân, tâm thế bầy đàn, tâm thế tôi tớ, ông giáo sư tiến sĩ dù đã được phong anh hùng vẫn chưa thoát khỏi đám đông bầy đàn, vẫn chỉ là thần dân, thần thánh hoá quyền lực. Lời nhục nhã tâng bốc quyền lực, ngợi ca quyền lực của ông giáo sư nghị sĩ đã làm ô uế lâu đài mang tên Diên Hồng, làm nhục nhã dân tộc đã từng lừng lững khí phách Diên Hồng viết lên những trang vàng son lịch sử. Xã hội Việt bước vào văn minh đô thị, cá nhân đươc nhìn nhận. Cái Tôi của cuộc đời đi vào văn chương đã tạo nên thành tưu rực rỡ của văn học Việt Nam với những tên sách, tên người mãi mãi sáng chói trong văn học sử Việt Nam. Vũ Trọng Phụng với tiểu thuyết Số Đỏ. Nguyên Hồng với tiểu thuyết Bỉ Vỏ, Nguyễn Tuân với những trang bút kí lấp lánh cái Tôi cá nhân lịch lãm, sang trọng. Khái Hưng, Nhất Linh với những truyện tình phố huyện ghi nhận, phản ánh đúng cái Tôi lớp thị dân tiểu tư sản vừa hình thành. Vì vậy Khái Hưng, Nhất Linh không chỉ viết văn mà các ông còn viết lịch sử xã hội Việt Nam. Với tổ chức Tự Lực Văn Đoàn của Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Trần Tiêu… lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, văn chương của người dân được tổ chức thành đội ngũ, thành lực lượng, tham gia vào đời sống văn hoá đất nước, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử. Trên đường đi đến văn minh công nghiệp, văn minh đô thị, xã hội Việt Nam vừa đến phố huyện thì bão táp cách mạng vô sản nổi lên. Những người cộng sản nắm chính quyền nhà nước ở nửa nước rồi cả nước, xoá bỏ cá nhân, đưa xã hội về bầy đàn, về phong kiến trung cổ. Trong khi Bắc Việt Nam cộng sản, văn học lại là ngôi đền vàng son thờ những vị thánh cộng sản từ lớn đến nhỏ, lại là anh hùng ca, ca ngợi cuộc nội chiến đẫm máu người Việt giết người Việt: Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Ca ngợi người lính náo nức đi vào cái chết vì lí tưởng thống trị cả nước của đảng cộng sản. Ca ngợi người mẹ ham chiến vì lí tưởng thâu tóm cả giang sơn của những người cộng sản đến bỏ cả bầy con lít nhít tự trông nhau, mẹ ôm súng xông trận. Ca ngợi người Việt giết người Việt đến mức, đàn bà cũng máu lửa chỉ còn cái lai quần cũng đánh! Những tập sách Hòn Đất của Anh Đức, Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh Châu, Mặt Trận Trên Cao của Nguyễn Đình Thi, cả đến Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi của Nguyễn Tuân đều là anh hùng ca, thần thánh hoá con người thời cộng sản của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Văn học là phát hiện tính Người, đề cao tính Người. Tính Người cao nhất là yêu thương. Ca ngợi máu đổ, ca ngợi chiến tranh bắn giết con người thì không thể là văn học đích thực của thời văn minh công nghiệp, thời cá nhân với khát vọng sống, khát vọng thể hiện mình đã có mặt trong cuộc đời. Đó chỉ là anh hùng ca của thời trung cổ, thời những người hùng phi thường như thần thánh dẵn dắt bầy đàn vào những cuộc chiến tranh liên miên thể hiện quyền uy và tham vọng của những thủ lĩnh đám đông. Trong khi văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mê mải lạc lõng viết anh hùng ca thời bầy đàn thì Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện với những truyện ngắn viết về cái Tôi tầm thường. Không có anh hùng. Không có thần thánh. Chỉ có những con người bình thường đến tầm thường với những góc khuất cá nhân, có khi hèn hạ, có khi tội lỗi. Đó là con người thực của cuộc đời. Cả những danh nhân, nhân vật lịch sử như Nguyễn Du, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh có khát vọng cao cả nhưng cũng có cả dục vọng tầm thường. Có sự nghiệp anh hùng nhưng cũng có cái Tôi của đời thường. Lịch sử đã viết về con người anh hùng. Văn chương phải viết về con người đời thường của những anh hùng, danh nhân đó. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chính là văn chương đích thực của văn minh công nghiệp, văn minh của cái Tôi cá nhân. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã làm cả giới nhà văn Việt Nam giật mình ngỡ ngàng, sửng sốt nhìn lại mình. Công lớn nhất của Nguyễn Huy Thiệp là đánh thức cả nền văn học đang mộng mị, lạc lõng, mê mải viết anh hùng ca biết dừng lại và trở về thời của minh, trở về chức phận đích thực của nhà văn. Chỉ vậy thôi. Nhưng khi Nguyễn Huy Thiệp mất, giới văn học nghệ thuật cả nước lại thành đám đông lảo đảo lên đồng, lảm nhảm tụng niệm, không tiếc lời thần thánh hoá Nguyễn Huy Thiệp. Đánh giá về một tên tuổi là trung thực chỉ ra đúng mức đóng góp của tên tuổi đó. Đưa giá trị lên quá mức, thần thánh hoá giá trị là không nhìn ra giá trị thật và làm hại giá trị đó. Năm 1956 – 1957 hội chứng đám đông xúm lại đấm đá, bóp cổ, đạp xuống bùn đen các nhà văn bị vu tội Nhân Văn Giai Phẩm. Nửa thế kỉ sau, năm 2021, hội chứng đám đông lại gọi nhau tụng ca Nguyễn Huy Thiệp, làm hại Nguyễn Huy Thiệp. Chưa có cái Tôi thật chững chạc, chưa có ý thức cá nhân thật mạnh mẽ thì hội chứng đám đông còn diễn ra. Một bài viết gượng gạo về bạo lực xã hội, không có gì mới và lí giải về nguyên cớ bạo lực cũng không đúng, lí giải chỉ nhằm làm lạc hướng nhìn nhận, đánh giá của người đọc, che giấu, lấp liếm, bảo vệ nguồn gốc thực sự của bạo lực. Gượng gạo về lí lẽ, đánh lạc hướng người đọc về cội nguồn bạo lực, nếu bài viết của hạng thứ dân sẽ chìm nghỉm vô tăm tích. Hội chứng đám đông ở đây là người viết là con trai của một vị thánh cộng sản liền được một người thường la cà với giới quyền lực hú lên, thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Thế là lại lao xao, ồn ào bình loạn. Bên cạnh nhà nước khổng lồ liên tục mang sức mạnh binh đao của đội quân thiện chiến thôn tính lân bang, dân tộc Việt Nam bé nhỏ tồn tại được chỉ nhờ biết thương yêu, đùm bọc dân tộc. Ca dao dân ca về lòng yêu thương chiếm phần lớn trong kho tàng đồ sộ ca dao dân ca Việt Nam. Bản chất người dân Việt Nam rất xa lạ với bạo lực. Bạo lực trong xã hội Việt Nam chỉ có trong thời cộng sản. Bạo lực tràn lan trong xã hội ngày nay đâu phải từ dân mà bảo dân phải thức tỉnh. Nhà nước cộng sản thâu tóm quyền lực bằng bạo lực. Nòng súng đẻ ra chính quyền. Nhà nước cộng sản càng mở rộng không gian thống trị, càng kéo dài thời gian cai trị càng phải thi thố bạo lực, càng phải lạm phát bạo lực. Lạm phát bạo lực từ Xô Việt Nghệ Tĩnh 1930, Trí Phú Địa Hào đào tận gốc, trốc tận rễ. Đến lạm phát bạo lực trong trận ba ngàn cảnh sát cơ động đánh úp thôn Hoành làng Đồng Tâm nhỏ bé, bình yên, xả súng vào buồng ngủ nhà dân đêm 9.1.2020. Những đợt sóng bạo lực nhà nước cộng sản trút xuống đầu dân lành khủng khiếp nhất , man rợ nhất là cải cách ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại hiện đại và đẫm máu nhất là phát động bạo lực chiến tranh người Việt giết người Việt để cộng sản hoá cả dải đất Việt Nam. Bạo lực Nhân Văn Giai Phẩm, Xét lại hiện đại diễn ra dưới thời ai là Bí thư thứ nhất đảng cộng sản? Ai là người thảo Nghị quyết 15 sử dụng bạo lực xoá sổ nhà nước Việt Nam Cộng Hoà? Ai quyết liệt thực hiện bằng được cuộc bạo lực đẫm máu tết Mậu Thân 1968, đưa chiến tranh vào thành phố, vào tận giường ngủ nhà dân? Hàng ngàn dân Sài Gòn chết giữa hai làn đạn. Hàng ngàn dân Huế bị những người từ rừng về thủ tiêu trong Mậu Thân 1968. Chiến dịch đẫm máu dân đó do ai quyết định tiến hành? Không phải chỉ bạo lực bằng sức mạnh vật thể. Người dân còn chịu muôn vàn bạo lực tinh thần từ nhà nước cộng sản. Toà án xử oan sai diễn ra tràn lan. Dân bị chính quyền đỏ và tư bản đen cướp đất diễn ra khắp mọi làng quê. Bạo lực vật thể và bạo lực tinh thần nhà nước cộng sản trút xuống người dân. Người dân dồn nén uất ức, căng thẳng stress nhưng không thể trút trả bạo lực lại với nhà nước đành dồn nén trong lòng. Nỗi oan ức dồn nén làm cho con người mất bình tình, mất tỉnh táo và trở thành hung bạo. Một sự cố nhỏ chợt đến. Sự dồn nén bật tung. Hung bạo xổ ra. Cả nước là dân oan. Cả nước dồn nén chịu đựng. Bạo lực diễn ra hàng ngày trên cả nước là tất yếu. Nhà nước nào cũng là khuôn mẫu của xã hội. Nhà nước ứng xử với dân bằng bạo lực làm sao xã hội không bạo lực. Vì vậy nhà nước phải thức tỉnh. Đừng coi dân là thế lực thù địch rồi quyết thắng dân bằng bạo lực. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Lời Nguyễn Trãi, lời cha ông, lời lịch sử, lời chân lí muôn đời đó. Phạm Đình Trọng  
......

Thời Nhiễu Nhương

Tưởng Năng Tiến Hơn mười năm trước – chính xác là vào hôm 04 tháng 7 năm 2012 – báo Công An Nhân Dân có một bài viết ngắn (“Ấm Lòng Tình Đảng Chan Chứa Lòng Dân”) của nhà báo Hồng Dung, về chuyến đi thăm dân của ông Nông Đức Mạnh, khiến nhiều độc giả phải rơi nước mắt: “Bà con ùa ra, vây quanh Tổng Bí Thư, chân tình, ngây ngất như đón người thân trở về gia đình. Những cái bắt tay, những nụ cười rạng rỡ. Tất cả tạo nên sự đầm ấm đến nao lòng…” Tài đức cỡ Nông Đức Mạnh thì được nhân dân tiếp đãi “như đón người thân trở về gia đình” là chuyện tất nhiên, không có gì để phải suy nghĩ (lăn tăn) hay suy diễn (linh tinh) cả. TBT Lê Khả Phiêu, cũng thế. Tình cảm dân chúng dành cho ông cũng rạt rào đến độ nhà văn Thanh Phong ghi lại được cả một tuyển tập (Mênh Mông Tình Dân) dầy tới 284 trang, và đã được nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia ấn hành vào năm 2008. Trong buổi “Lễ Trao Huy Hiệu 70 Năm Tuổi Đảng” cho đồng chí Lê Khả Phiêu, đương kim Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã không tiếc lời ca tụng thành tích của người tiền nhiệm: “Chúng tôi luôn học tập ở đồng chí về phương pháp, tác phong làm việc sâu sát, cụ thể và hiệu quả.” Nói thế chả qua là vì quá khiêm tốn mà thôi, chứ tài ba và đức độ tới cỡ như Bác Trọng thì xưa nay hiếm, nếu chưa muốn nói là vô song, cần chi mà phải học tập hay noi gương ai nữa.  Báo Người Lao Động, số ra ngày 29 tháng 3 năm 2021, vừa hớn hở đi tin (“Đại Biểu Quốc Hội Cảm Động Về Hình Ảnh Của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước”) khiến cả nghị trường đều cảm thấy nức lòng: ĐB Ngọ Duy Hiểu: “Mỗi khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước xuất hiện ở đâu, người dân, cán bộ, đảng viên đều rất vui mừng, phấn khởi, được truyền cảm hứng mạnh mẽ, xây dựng tình cảm cách mạng, tạo sự đồng thuận trong toàn đảng, toàn dân và toàn quân.” ĐB Nguyễn Anh Trí: “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước mái đầu bạc trắng hiên ngang, với gánh sơn hà nặng trĩu hai vai, là trung tâm đoàn kết, là ngọn cờ tập hợp, là người khơi nguồn tự hào dân tộc.” Thiệt là quá đã, và (hoàn toàn) không có gì quá đáng! Bác Hồ giữ chức Chủ Tịch Đảng kiêm Chủ Tịch Nước từ ngày 19 tháng 4 năm 1948 cho mãi đến khi chuyển qua từ trần, vào hôm 2 tháng 9 năm 1969. Trong hơn hai mươi năm lèo lái đất nước, Người được dân chúng thương mến và ca tụng cả râu lẫn tóc: Đêm qua em mơ gặp bác Hồ, râu Bác dài tóc Bác bạc phơ… Nửa thế kỷ sau, đất nước mới lại xuất hiện thêm một Người Cầm Lái Vỹ Đại mà tóc tai cũng gợi hứng cho giới văn nghệ sỹ. Nhạc phẩm CÓ MỘT MÁI ĐẦU TÓC BẠC do nhạc sỹ Nguyễn Anh Trí sáng tác, Học Viện An Ninh dàn dựng,  ca sỹ Viết Danh (và nhóm Tốp Ca HVANQG) trình bầy – vào hôm 28 tháng 3 năm 2021 – đã khiến cho cả nước ngất ngây suốt mấy tuần qua: Có một mái đầu bạc trắng vinh quang! Có một con người vì nước vì dân Những nỗi lo cho đất nước thoát nghèo Những biển Đông sóng cồn… Tóc trên đầu ông bạc trắng hiên ngang Kia nhìn lên mái đầu tóc bạc của ông Như thấy đỉnh Fanxipan Như bao lớp sóng biển trùng khơi… Cùng lúc báo chí nước nhà cũng đều hân hoan và đồng loạt loan tin: NHÂN DÂN VỠ OÀ CẢM XÚC KHI TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÁI ĐẮC CỬ! Nói nào ngay thì cũng có ít nhất dăm ba “nhân dân” hoàn toàn không có “cảm xúc” gì ráo trọi với bản tin thượng dẫn. Lý do, giản dị, là họ không có cơ hội đi bầu vì đang nằm viện – Viện Tâm Thần. Xin phép được trích dẫn đôi ba đoạn chính, trong thư đề ngày 28 tháng 3 năm 2021 (THƯ GỬI CÁC THẦY THUỐC CÓ LƯƠNG TRI) của CLB Lê Hiếu Đằng– do T.S Mạc Văn Trang chấp bút – để rộng đường dư luận: Thưa các Bác sĩ, các nhân viên y tế trực tiếp đem nghề nghiệp phục vụ nhân dân. Chúng tôi biết rằng, ngoài một số người lợi dụng nghề Y để làm những việc bất chính nhằm trục lợi, số còn lại, các thầy thuốc tuân theo lời thề Hypocrates và những quy định về Y đức của Việt Nam, đều hết lòng vì nhân dân phục vụ. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng chúng tôi viết Thư này gửi đến các Quý vị vì nỗi lo lắng, tình trạng Công an đã chuyển một số Tù nhân lương tâm, vốn là những người bình thường trước khi bị bắt, vào Bệnh viện Tâm thần. Gần đây là trường hợp các ông Lê Anh Hùng, Phạm Thành, Trịnh Bá Phương, cụ thể như sau: 1 - Tin cho biết ông Lê Anh Hùng khi từ chối uống thuốc, đã bị nhân viên y tế tại Bệnh Viện Tâm thần trung ương đánh đập dã man, trói chân tay vào giường và cưỡng bức tiêm thuốc tâm thần. 2 - Trường hợp nhà văn Phạm Thành, vợ ông bà Nguyễn Thị Nghiêm, nói với đài VOA: “Ngày 24/11/2020, họ chuyển anh ấy từ trại số 1 Hỏa Lò thuộc Công an thành phố Hà Nội đến Viện pháp y Tâm thần Trung ương ở huyện Thường tín. Ngày 25/11, Điều tra viên báo với tôi rằng như vậy. Trong lòng tôi rất hỗn loạn. Tôi không biết làm thế nào cả”. 3 - Trường hợp ông Trịnh Bá Phương, vợ ông, bà Thu nói với phóng viên Đài Á Châu Tự Do như sau: "Là anh Nguyễn Thế Bắc (công an), chỉ thông báo bằng mồm rằng đã trích xuất chồng em đi tới Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương 1 vào hôm 1 tháng 3 năm 2021”… Chúng tôi hy vọng và cầu mong các thầy thuốc có lương tri hãy không tiếp tay cho tội ác, mà bằng Y đức và chuyên môn của mình, hãy cứu lấy các Tù nhân lương tâm thoát khỏi “thảm kịch tâm thần". Đó sẽ là Quả phúc của Quý vị do hành nghề lương thiện mà có được. Xin gửi đến các thầy thuốc có lương tri Niềm tin và Hy vọng. Sài Gòn, ngày 28/3/2021 TM CLB Lê Hiếu Đằng Mạc Văn Trang Tôi được tiểu bang California cấp bằng hành nghề trị liệu tâm thần (license number 17705) từ ngày 20 tháng 11 năm 1995 cho đến khi nghỉ hưu, vào hôm 30 tháng 4 năm 2015. Tôi cũng là bạn FB với anh Trịnh Bá Phương, và là độc giả thường xuyên của nhà báo Lê Anh Hùng cùng nhà văn Phạm Thành, từ nhiều năm qua. Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn trao đổi đôi điều tâm sự về những vấn đề thời cuộc. Tuyệt nhiên, tôi không nhận thấy có dấu hiệu bất thường nào nơi họ cả. Vấn đề, chả qua, là cả ba nhân vật thượng dẫn đều không thích cái thói xu nịnh và đã thẳng thắn nói lên những lời trung thực khiến ông Nguyễn Phú Trọng (và cả giới cầm quyền nghịch nhĩ) nên họ đành phải chịu họa – họa trung ngôn – giữa thời buổi nhiễu nhương. Trong một xã hội mà không có nhân cách người ta vẫn sống (thậm chí còn sống béo tốt hơn) thì những người chính trực bị giam trong Viện Tâm Thần … là phải!   tuongnangtien's blog  
......

Kết thúc nhiệm kỳ của một ông thủ tướng

Tưởng Năng Tiến| Tôi có chút giao tình (chả đậm đà gì cho lắm) với Người Buôn Gió nên không biết rằng đương sự là một người khó tính. Tuần rồi, trên trang FB của ông có hình ảnh Nguyễn Xuân Phúc ngồi (rìa) giữa Hội Nghị Thượng Đỉnh G 20, cùng với đôi ba lời bình khe khắt : “Chúng ta nhìn thấy nhiều hình ảnh thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp xúc với các nguyên thủ quốc tế, đặc biệt là bên lề. Vậy thực sự ông ta có khả năng như ghi trong lý lịch là Anh Văn bằng B hay không.? Phúc học đại học bên Sing bằng tiếng gì ? Một nguyên thủ kê khai học vấn như vậy và thực tế như những gì diễn ra trước mắt, đó là một sự lừa dối hiển nhiên. Một nguyên thủ đứng đầu chính phủ mà dối trá học vấn một cách công khai như vậy, toàn dân và toàn bộ máy quan chức, đảng đều không ý kiến gì. Nếu đất nước này thực sự kêu gào đổi mới, chưa cần nói đến chuyện cải cách thể chế, chỉ cần những vị trí lãnh đạo như thủ tướng, chủ tịch nước là những vị trí vốn hay giao tiếp quốc tế, phải là những người biết ngoại ngữ đủ giao tiếp thông thường đã. Tôi thì trộm nghĩ khác. Quí vị lãnh đạo cấp cao của nước ta cứ ngồi im thin thít, mặc cho thiên hạ nghi ngại vẫn hay hơn là họ phát biểu linh tinh (cờ lờ vờ mờ) gì đó, có thể làm phương hại đến thể diện quốc gia. Thế chả lẽ đi dự Hội Nghị mà chả mở miệng nói năng gì cả hay sao?” Vâng, nên vậy. Thà im lặng để bị thiên hạ nghi ngờ là dốt, vẫn hơn là mở miệng ra khiến mọi người đều biết là mình dốt thật và dốt lắm. Im lặng là vàng. Ai cũng đồng ý thế. Trong mọi hoàn cảnh, lắng nghe luôn luôn là một thói quen rất tốt. Vấn đề là ông Phúc chỉ làm bộ nghe thôi nên bị chỉ trích tơi bời. FB Từ Đức Minh chì chiết : “Tai nghe của máy phiên dịch chế tạo khá đơn giản. Nó bao gồm dây cắm xuống máy và chiếc loa tròn để sát vào lỗ tai được giữ bằng miếng nhựa vòng qua vành tai . Nhìn hình ông Phúc kia gắn tai nghe xuống tận má thế này thì ai cũng biết rằng là sai và không thể nghe được . Vậy chúng ta có thể đưa những giả thuyết sau: Ông Phúc rất giỏi tiếng Anh nên không cần dùng tai nghe máy phiên dịch . 2. Ông Phúc là người quá ngu đần không biết sử dụng những thiết bị tối đơn giản như chiếc tai nghe này . 3. Ông Phúc ngồi như một đống thịt thối và chẳng quan tâm gì tới cuộc họp hết. Việc đi họp chỉ như có lệ mà thôi. Họp hay không thì ông Phúc vẫn giàu và người Việt Nam vẫn mãi nghèo hèn.” Nói thế e hơi quá lời. Đi họp cho có lệ và giả vờ nghe là tình trạng chung của cả nước, chứ đâu phải riêng gì quí vị dân biểu quốc hội hay cá nhân ông Phúc. Người Việt còn có khả năng giả vờ làm việc nữa cơ – kể cả công việc chuyên môn – như những ông/bà “lương y” vừa đeo ống nghe (ngoài tai) vừa vờ vĩnh khám bệnh, vẫn nhan nhản hành nghề ở đất nước này. Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ giả vờ đi họp, hay giả vờ làm việc – không chừng – lại còn là chuyện may cơ đấy. Chứ ngài mà cũng săng sái, hăng hái, năng nổ (dựng nhà máy lọc dầu, cất nhà máy điện hạt nhân, khai thác mỏ Bauxit, tạo những quả đấm thép Vinashin …) như mấy ông trước thì mới thật là tai họa. Điều may mắn hơn nữa là ông Phúc chả hề có chủ trương, hay sách lược gì ráo trọi trong bất cứ lãnh vực nào mà chỉ thường hô khẩu hiệu (chung chung) không đụng chạm hoặc phiền lòng ai cả : Cần khắc phục tình trạng nói không ai nghe. Công chức cần xoá bỏ văn hoá sáng cắp ô đi chiều cắp ô về. Văn hóa công sở là phải phục vụ nhân dân tốt hơn. Làm cho văn hóa thật sự là động lực, nền tảng tinh thần của xã hội. Chỉ có mỗi tội là ông trông dáng vẻ hơi lon ton và hay ra những chỉ thị (con con) vớ vẩn, thế thôi: Thủ tướng chỉ đạo xử lý vụ giang hồ bao vây nhóm công an ở Đồng Nai Thủ tướng chỉ đạo xử lý nghiêm vụ thanh tra vòi tiền Thủ tướng chỉ đạo điều tra vụ đầu độc gần 11ha rừng ở Lâm Đồng Thủ tướng chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm vụ điểm thi bất thường ở Hà Giang Thủ tướng chỉ đạo tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy. Nói tóm lại là ông Nguyễn Xuân Phúc hoàn toàn vô hại, so với những người tiền nhiệm. Ông không có cái gì hay, và cũng không có điều chi (quá) dở. Tài sản chìm nổi – sân trước, sân sau – cũng chỉ thuộc loại bậc trung thôi. Về mặt tai tiếng cũng không đến nỗi gì cho lắm. Thiên hạ hay cười chê những phát biểu ngô nghê của ông nhưng họ quên rằng đó là lỗi do thằng đánh máy, chứ ông thì hoàn toàn vô can. Với cái nội các gồm những ông Phó Thủ Tướng (cỡ như Vũ Đức Đam, Phạm Bình Minh, Vương Đình Huệ, Trương Hoà Bình, Trịnh Đình Dũng) và dàn Bộ Trưởng (kiểu như Nguyễn Thị Kim Tiến, Nguyễn Văn Thể, Trần Tuấn Anh, Trần Hồng Hà, Phùng Xuân Nhạ …) bất tài và vô liêm sỉ đến thế thì ông Phúc đúng là một kẻ xứng tầm, vô cùng vừa vặn. Không có gì đáng để phàn nàn hay chê bai cả./.
......

Tân Bộ trưởng Bộ Giáo dục có thể làm được gì?

Đỗ Ngà| Thời Xuân Thu bên nước Tàu, ông Quản Trọng – một nhà cải cách tài ba của nước Tề bên Tàu có câu nói nổi tiếng: “Kế một năm, chi bằng trồng lúa. Kế 10 năm, chi bằng trồng cây. Kế trọn đời, chi bằng trồng người”. Sau gần 3000 năm, ông Hồ Chí Minh đã dạy ngành giáo dục CS rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Ông Hồ Chí Minh nói ra câu đó mà ông không thông báo ông trích dẫn lại lời nói của ai nên được mặc định là của chính ông Hồ. Việc làm này chính là hành động đạo văn. Dùng hành động đạo văn để dạy dỗ nền giáo dục thì nền giáo dục đó đi về đâu? Kết quả thì đã rõ, hiện nay nạn đạo văn rất phổ biến trong nền giáo dục Việt Nam. Ông Bùi Văn Cường bí thư tỉnh Đắk Lắk bị tố đạo văn, ông cựu bộ trưởng bộ giáo dục Phùng Xuân Nhạ cũng bị tố đạo văn v.v… Nền giáo dục thối nát đến nỗi chính quan chức cũng phải dốc hết hầu bao để đưa con cái đi tị nạn khỏi nền giáo dục này. *** Hôm nay trên báo nhà nước và trang facebook của ông tân bộ trưởng bộ giáo dục Nguyễn Kim Sơn có bài viết “Ngành và Nghề của chúng ta”, đáng chú ý là đoạn cuối ông Sơn có viết như sau “Chúng ta cùng chung tay ngay bây giờ, từ lúc này. Trồng người vì trăm năm, chúng ta ươm tạo những trái ngọt mai sau, nhưng ngày hôm nay, cả chúng ta và xã hội đã phải nhìn thấy những cây và lá xanh tươi”. Vâng! Vẫn là “trồng người”. Không biết ông Nguyễn Kim Sơn có thấy rằng, bài dạy “trồng người” của Hồ Chí Minh đã đẩy nền giáo dục Việt Nam đến sự mục nát như hôm nay không? Có nguồn tin cho rằng, ông Nguyễn Kim Sơn cho con đi du học Mỹ. Không biết lời đồn này có đúng hay không, tuy nhiên nếu đúng thì cũng không có gì ngạc nhiên cả. Bởi vì hầu hết quan chức CS đều làm như thế thì ông Sơn cũng đâu dại gì “trồng người” cho con cái mình bằng mảnh đất giáo dục độc hại ở xứ CHXHCNVN này? Thật ra mảnh đất Việt Nam đã bị nhiễm độc toàn diện bởi thể chế chính trị độc tài CS gây ra. Bộ Giáo dục có lấy bao nhiêu thế hệ trồng vào đó thì cũng cho ra cây độc trái đắng là nhiều, chứ không thể có được kết quả “hoa thơm trái ngọt” được. Nền giáo dục Việt Nam chỉ có thể xóa đi và làm lại chứ còn dựa trên bộ máy cũ kỹ này thì nát vẫn hoàn nát. Ông Nguyễn Kim Sơn hãy chuẩn bị tinh thần để hứng chịu búa rìu dư luận là việc làm thiết thực nhất, còn tham vọng “ươm tạo những trái ngọt mai sau” thì quên đi ông à. Ông không có khả năng làm nổi./.  
......

Cách Jokowi đánh bại Trung quốc, trong khi Duterte kết thúc làm tay sai

Timothy Trinh| Cùng là quốc gia thành viên của khối ASEAN, cùng là hai nền dân chủ non trẻ đang nằm trong sự kìm kẹp của chủ nghĩa dân túy, nhưng hai nhà lãnh đạo của Indonesia và Philippines đã tiếp cận mối quan hệ của họ với Trung Quốc khác biệt, và kết quả mà họ nhận được rõ ràng có sự khác biệt. Richard Heydarian, một học giả và nhà báo chuyên mục, cho rằng: chính quyền Jakarta đã biết cách khai thác tốt nhất để đánh bại Trung Quốc, trong khi chính quyền Manila trở thành một kẻ tay sai. Trong bài quan điểm mang tiêu đề “How Jokowi bested China, while Duterte ended up a lackey”, đăng trên tờ Nikkei Asia hôm 29 tháng 3, Heydarian đã phân tích như sau: ======== Nhìn bề ngoài, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và người đồng cấp Indonesia Joko Widodo, được gọi là Jokowi, không chỉ chủ trì hai quốc gia rất giống nhau, mà gần như được cắt từ cùng một tấm vải. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo đã tiếp cận mối quan hệ của họ với Trung Quốc khá khác biệt – và có những kết quả hoàn toàn khác nhau. Trong khi Duterte gắn bó với Trung Quốc trong nhiều năm không mang lại cho ông một khoản đầu tư lớn cho đến nay, chiến lược tinh vi và đàng hoàng hơn của Jokowi đã đảm bảo đầu tư tối ưu, cũng như giao hàng sớm hàng triệu vắc xin COVID-19 do Trung Quốc sản xuất. Một đợt cuối cùng đã đến vào đầu tháng, và một đợt khác vào tuần trước với tổng số một triệu mũi tiêm. Có vẻ như bài học không thể nhầm lẫn là Trung Quốc đối xử khinh thường với các nhà lãnh đạo mềm mỏng như Duterte, nhưng sẽ thực hiện các thỏa thuận đôi bên cùng có lợi với những người như Jokowi, người luôn từ chối để bị đe dọa bởi siêu cường châu Á. Trong những năm gần đây, Duterte và Jokowi, là gương mặt đại diện cho chính trị dân túy ở Đông Nam Á. Cả hai đều là cựu thị trưởng tỉnh, những người đã vươn lên đỉnh cao quyền lực bằng cách vận động chống lại một cơ sở tham nhũng. Trong khi Duterte thể hiện mình là người của nhân dân, Jokowi đã chủ động phục vụ những công dân bình thường trở thành trọng tâm trong chương trình nghị sự của mình. Cả hai đều đã áp dụng các chính sách cứng rắn đối với tội phạm, đặc biệt là đối với ma tuý. Điều quan trọng là, cả hai tổng thống đều đặt chương trình phát triển của họ dựa trên sự rộng rãi của Trung Quốc, trước sự phẫn nộ của các lực lượng bảo thủ đã cáo buộc họ hành động như những kẻ chống lưng cho Bắc Kinh. Chưa hết, Jokowi đã cố gắng phát triển một mối quan hệ tương đối hiệu quả dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau, trong khi Duterte thì lại tỏ ra ngang ngược. Trong khi Jokowi dựa vào chiến lược cân bằng một cách năng động giữa các cường quốc, cho phép ông ấy rộng đường hơn để điều động; trong khi Duterte đã cố gắng từ bỏ quan hệ đồng minh hàng thế kỷ của Philippines với Mỹ như một phần trong chiến lược xoay trục sang Trung Quốc. Là một người mới trong chính sách đối ngoại, Duterte đã vô tình vạch ra lá bài của mình trước khi tuyên thệ nhậm chức tổng thống trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nhà nước Trung Quốc vào đầu năm 2016. “Điều tôi cần từ Trung Quốc là sự giúp đỡ để phát triển đất nước của tôi”, Duterte bày tỏ. Chỉ vài tháng sau, Duterte trở thành tổng thống Philippines đầu tiên chọn Trung Quốc, thay vì Mỹ hoặc Nhật Bản, cho chuyến thăm quan trọng đầu tiên ở nước ngoài. Ông cũng là tổng thống Philippines đầu tiên từ chối đến thăm bất kỳ thủ đô lớn nào của phương Tây – kể cả Washington – trong suốt nhiệm kỳ 6 năm của mình.   Tin chắc vào sự ngây thơ của Duterte, Trung Quốc đã cam kết đầu tư tới 24 tỷ USD, bao gồm một số dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn tại quê hương Mindanao của Duterte. Những cam kết trống rỗng này đủ để thuyết phục Duterte triển khai các nhượng bộ lớn, bao gồm cả quyết định gây tranh cãi không khẳng định chiến thắng trọng tài lịch sử của Philippines trước Trung Quốc ở Biển Đông. Trước sự hài lòng của Bắc Kinh, Duterte thậm chí còn đe dọa sẽ hủy bỏ hợp tác quốc phòng với Mỹ và chia sẻ các nguồn năng lượng quý giá trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines với Trung Quốc. Tệ hơn nữa, Duterte nhanh chóng đứng ra bảo vệ Bắc Kinh khi một tàu dân quân Trung Quốc bị tình nghi đâm vào tàu cá Philippines suýt gây ra chết đuối hàng chục ngư dân Philippines gần Bãi Cỏ Rong vào năm 2019. Tự hào thú nhận “tình yêu” của mình đối với sự lãnh đạo của Trung Quốc, Duterte đã duy trì niềm tin rằng người ta phải “mềm mỏng” để có được “lòng thương xót” của Bắc Kinh. Khi bị thúc ép đứng trước sự xâm phạm của Trung Quốc vào vùng biển Philippines, Duterte đã trả lời rằng ông “vô ích”, quá bất lực để hành động. Sau 5 năm phục vụ chiến lược, Duterte hầu như không thể hiện được gì về việc xoay trục sang Bắc Kinh, thậm chí không có lượng lớn vắc xin COVID-19 miễn phí mà Trung Quốc hứa sẽ cung cấp vào cuối năm 2020. Ngược lại, Jokowi đã đến thăm cả Washington và Bắc Kinh, cũng như cố gắng thúc đẩy hợp tác an ninh mạnh mẽ với từng siêu cường, một cách tương ứng, củng cố đòn bẩy chiến lược của Indonesia. Khi Trung Quốc tăng cường xâm nhập vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia vào cuối năm 2019, Tổng thống Indonesia không chỉ triển khai máy bay chiến đấu và hải quân mà còn đích thân đến thăm khu vực này để nhắc nhở Trung Quốc rằng sẽ “không thỏa hiệp” về các vấn đề hàng hải và lãnh thổ. Và mặc dù Indonesia không có tuyên bố chủ quyền trực tiếp về Biển Đông, các nhà ngoại giao của Jokowi đã chính thức viện dẫn phán quyết trọng tài của Philippines để đặt câu hỏi về các tuyên bố bành trướng của Trung Quốc, cũng như công khai chỉ trích Trung Quốc về các hoạt động can thiệp bầu cử bị cáo buộc.   Đối với đầu tư nước ngoài, Indonesia đã tích cực thu hút không chỉ Trung Quốc mà cả các quốc gia đối thủ như Nhật Bản. Chiến lược đa dạng hóa có ý thức này phần nào giải thích tại sao Jakarta có thể đảm bảo các điều khoản cực kỳ thuận lợi, được cho là tốt nhất trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc, cho dự án đường sắt cao tốc Jakarta-Bandung. Và khi Trung Quốc chùn bước trong việc thực hiện những lời hứa trị giá hàng tỷ đô la, Jokowi đã không né tránh việc lợi dụng Nhật Bản để thu hút sự chú ý của Bắc Kinh. Đến năm 2019, Nhật Bản và Trung Quốc trở thành các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu của Indonesia, với hàng chục dự án cơ sở hạ tầng lớn đang được triển khai, vì Jokowi thoải mái chơi hai gã khổng lồ kinh tế đối đầu với nhau. Phải chăng ở đây, có những bài học cho phần còn lại của thế giới, đặc biệt là các nước nhỏ và đang phát triển, về cách mà hai quốc gia Đông Nam Á này đã đối phó với một Trung Quốc ngày càng quyết đoán. Indonesia đã cho thấy rằng ngay cả các quốc gia nghèo hơn cũng có khả năng định hình hành vi của Bắc Kinh, miễn là họ không ngây thơ thông báo về những nhượng bộ lớn như Duterte. Sự dũng cảm và sắc sảo trong chiến lược của Jokowi cho thấy không phải tất cả những người theo chủ nghĩa dân túy đều giống nhau mặc dù họ lên nắm quyền trong những hoàn cảnh bất hạnh tương tự. ======== Cách thức của Việt Nam ra sao? Có lẽ lãnh đạo Nguyễn Phú Trọng còn “mềm” hơn cả Duterte. Chưa hết, Việt Nam có thêm một kẻ đã từng chủ trương đem dâng đặc khu Vân Đồn cho Trung Quốc sắp làm Thủ tướng. Và rồi Việt Nam sẽ nhận được gì, hoặc nói rõ hơn, các lãnh đạo Hà Nội sẽ nhận được gì từ phía Bắc Kinh./. Người Đà Lạt Xưa  
......

Tại tôi mà Nguyễn Thúy Hạnh bị bắt

ảnh Nguyễn Thúy Hạnh Huynh Ngoc Chenh -  Nguyễn Thúy Hạnh .  Vượt qua mọi mong ước của tui và Nguyễn Thúy Hạnh, trưa ngày 9/4 cơ quan điều tra đã trích xuất Nguyễn Thúy Hạnh ra khỏi trại giam số 2 ở Thường Tín đưa về chung cư Royal để chúng tôi gặp nhau.   Điều tui ân hận nhất là khi Hạnh bị bắt đã không có mặt tại nhà, để nghe những lời cuối, những dặn dò cuối trước khi phải xa nhau chắc chắn là khá lâu. Lúc hạnh bị bắt, vào lúc 10g05 phút ngày 7/4, tui đang ở chiến khu L, hai chúng tui đang chát với nhau rất vui vẻ. Tui đang bày Hạnh cách vào opera để lấy lại tài khoàn Minds, Hạnh vui lắm, tui bày Hạnh từng bước, xong mỗi bước tui hỏi được chưa, Hạnh trả lời được tui mới bày bước tiếp theo, đến bước cuối cùng là lấy password, tui hỏi được chưa, không thấy Hạnh trả lời nữa, cũng không thấy nàng vào đọc câu hỏi của tui. Ban đầu tui tưởng Hạnh đã vào được Minds nên mãi mê, nhưng đến vài giờ sau đó vẫn không thấy Hạnh vào xem và trả lời, đây là chuyện lạ, Hạnh không bao giờ ngưng chat với tui nửa chừng mà không nói lý do hoặc không nói lời yêu thương trước khi ngưng. Tui lại nghĩ đến giờ Hạnh đi tập Yoga, nên tắt máy để tập. Nào ngờ ngay lúc đó Hạnh bị công an ập vào bắt, máy tắt ngay lúc đó. Nguyễn Thúy Hạnh - Huỳnh Ngọc Chênh Khi bị bắt, Hạnh đang ngồi ngoài hành lang trước cửa căn hộ người chị để chờ chị đi chợ về. Buổi trưa hôm đó chị ấy mời Hạnh sang ăn cơm và để chị em tâm sự vì tết vừa rồi do dịch nên không thăm viếng được nhau. Hạnh bị 20 người áp tải đưa ra khỏi khu chung cư ở đường Lạc Long Quân, vừa lúc chị ấy đi chợ về, Hạnh còn xin quay lại đưa con gà cho chị ấy mà không được nói lời nào. Hạnh bị đưa về căn hộ Royal city để làm thủ tục khám xét nhà. Công an bảo Hạnh cho số điện thoại của tui để họ liên lạc, Hạnh không nhớ, Hạnh chỉ nhớ hai số cũ của tui, nhưng hai số đó bị gọi quảng cáo và bị nghe lén nhiều quá nên tui đã bỏ từ lâu rồi, số mới của tui Hạnh không nhớ, công an bảo mở máy ra gọi, Hạnh thừa thông minh để không mở máy. Sau đó an ninh tìm ra số của Dũng em ruột Hạnh nhà ở cạnh đó để gọi qua chứng kiến, nhưng Dũng đang đi công tác xa không về được.   Do vậy hôm bắt Hạnh đưa đi không một người thân nào chứng kiến, không có tui để nói lời chia tay… tui ân hận và đau xót về điều này.   Không ngờ hôm ngày 9 họ đã đưa Hạnh về nhà để chúng tui gặp nhau được trong một giờ đồng hồ. Có lẽ là theo nguyện vọng của Hạnh. Ngay lúc đó nhân viên điều tra nhắc Hạnh là nói với anh Chênh không đưa thông tin về chuyện này, tui nghĩ trong các điều kiện để đáp ứng yêu cầu được đưa về nhà của Hạnh có điều kiện này, do vậy giữ lời hứa, tui đã không đưa tin ngay lên cho mọi người biết dù biết mọi người đang rất trông mong. Nhưng nhiều bạn bè ở cùng chung cư đã thấy sự việc nên báo cho Đặng Bích Phượng và Nguyễn Lân Thắng biết đưa tin lên ngay sau đó.   Một giờ đồng hồ đó với chúng tui vô cùng quý giá, nhưng xúc động quá tui chẳng nói với Hạnh được nhiều, còn Hạnh mãi lo lắng cho tui, mãi căn dặn tui phải giữ gìn sức khỏe, mãi chỉ cho tui anh phải ăn uống những thứ này, thứ này còn ở trong nhà để giữ sức khỏe… làm hơn 10 nhân viên an ninh có mặt lúc đó cũng phải bật cười nói, mình ở tù thì không lo lại lo cho ông tự do sung sướng ở ngoài. Hạnh còn nhắc tui nhiều lần là nói với người thân và bạn bè bên ngoài là Hạnh thoải mái và bình an nên đừng lo lắng chi cho Hạnh. Hạnh là thế đó, luôn lo cho mọi người hơn là lo cho bản thân mình. Hạnh làm giám đốc đối ngoại cho một tập đoàn mía đường lớn nước ngoài nên lương rất cao, Hạnh lại kinh doanh thêm nên rất nhiều tiền, nhưng Hạnh không dùng hàng hiệu, vẫn đi chiếc xe cub 82 mua cách đây hơn 30 năm, vẫn dùng điện thoại cùi bắp ( sau này vì bảo mật Hạnh mới nghe lời tui mua chiếc iphone cũ giá 7 triệu đồng), vẫn một cái túi xách mua chợ trời… Hạnh để dành tiền gởi cho nhiều gia đình, bạn bè bị bắt hồi chưa có quỹ 50 K. Hạnh giúp đỡ nhiều bà con ruột thịt nghèo khó của Hạnh ở quê Hải Dương, Hạnh gởi tiền trợ cấp hàng tháng cho chị ruột nghèo khó và bị bệnh của tui ở Đà Nẵng nữa.   Về sau nghĩ hưu, rồi mãi lo đi biểu tình phải ngưng chuyện làm ăn, Hạnh không còn dư dã, nên muốn giúp đỡ bạn bè bị bắt bớ gặp khó khăn đành phải lên mạng vận động, mỗi lần như vậy được hưởng ứng rất nhiệt liệt, kêu gọi giúp đỡ cho một người lại thừa tiền giúp thêm cho vài người nữa. Quỹ 50 K ra đời trong bối cảnh như vậy.   Hồi đó nhiều anh em trong hội Anh Em Dân Chủ, đều là bạn bè thân thiết của Hạnh, bị bắt và ra tòa, cần tiền thuê luật sư, Hạnh đứng ra kêu gọi quyên góp, số tiền gởi về vượt gấp đối so với yêu cầu. Sau khi gởi các gia đình lo luật sư, tiền thừa Hạnh nghĩ ngay đến các gia đình tù nhân lương tâm đang khó khăn khác, Hạnh xin ý kiến của những người đóng góp, chia số tiền ấy cho các gia đình trên. Vài bạn bè khuyên Hạnh đóng luôn quỹ lại để mọi người khỏi gởi tiền vào nữa, tui bảo Hạnh cứ để nguyên và chuyển thành quỹ hổ trợ tù nhân lương tâm, tên 50K là ý kiến của Nguyễn Hoàng Vi. Nếu Hạnh đừng nghe lời tui thì Hạnh đã không bị bắt như ngày hôm nay.   Từ ngày gặp tui, Hạnh luôn nói, có anh bên cạnh em tự tin hẳn lên, em làm được mọi chuyện mà không thấy bị trống lưng. Hạnh dựa vào tui mà sẵn sàng làm mọi chuyện nguy hiểm, để bây giờ đối diện với hiểm nguy tui chẳng làm được gì cho Hạnh.   Tui với Hạnh riêng nhau nhiều thứ, khác nhau nhiều thứ, nhất là tính cách. Tui hời hợt, cẩu thả, phóng túng, hay đùa cợt, cả với những việc nghiêm túc và nguy hiểm tui cũng hay đùa bỡn. Trái lại, Hạnh sống rất mẫu mực, ngăn nắp, nghiêm túc và rất thành thực trong sáng trong mọi việc. Chúng tui khác nhau nhiều thứ lắm, nhưng có một cái rất giống nhau, rất chung, chính cái đó đã nối kết chúng tui mãi mãi. Đó là lý tưởng, tui và Hạnh chung một lý tưởng. Trong phạm vi đó, tui với Hạnh giống nhau đến không ngờ, giống từ quan điểm lớn đến những suy nghĩ nhỏ vụn vặt. Chưa bao giờ tui và Hạnh tranh luận với nhau về quan điểm trước bất kỳ sự kiện nào. Khi nổ ra sự kiện nào đó, chính trị hay đời thường, gây tranh cãi căng thẳng trong cộng đồng, Hạnh đứng về phía A, y như rằng tui cũng đứng về phía A mà không cần phải bàn thảo nhau trước. Do vậy trước giông tố gây chia rẽ trong phong trào, trong cộng đồng xã hội, trong nhiều gia đình vì khác nhau quan điểm, tui và Hạnh chưa hề khác ý kiến nhau. Chuyện đó nên đi biểu tình, nhiều khi chẳng ai tham gia, tui và Hạnh vẫn cùng nhau tiến hành. Chuyện đó không nên làm là tui với Hạnh tức khắc không làm, chuyện đó phải làm, là tui với Hạnh cùng làm bằng mọi giá…   Giữa lúc căng thẳng vì bị gần 10 nhân viên an ninh bao vây chặt cứng quanh căn hộ và chung cư suốt ngày đêm trong 10 ngày, khi vụ Đồng Tâm nổ ra, chúng tui như ở trong tù, không được bước ra khỏi cửa, thực phẩm phải do đứa cháu mang đến rồi nhân viên an ninh mang lên, có thể bị bắt bất cứ khi nào, nhưng nghe Trịnh Bá Phương gọi đến, cô đứng ra nhận giúp tiền phúng điếu viếng tang cụ Kình, Hạnh mở loa ra cho tui nghe vừa đưa mắt nhìn tui, rồi trả lời đồng ý với Phương ngay, khi thấy tui gật đầu. Nếu lúc đó tui lắc đầu, thì Hạnh đã không bị bắt như ngày hôm nay. Nhận lời đưa tài khoản cho Phương rồi, Hạnh và tui mới ngồi bàn và lường hết hậu quả, biết sẽ vô cùng nguy hiểm, nhưng không thể không chia lửa cho Phương, nó cũng đang bị bao vây chặt và bị bắt bất cứ lúc nào vì liên lạc được vài dân oan Đồng Tâm để liên tục đưa tin cập nhật sự kiện, nó lại chỉ một mình, còn chúng tui có hai người, không thể nào để cho nó cô đơn. Hạnh và tui không bàn thảo chuyện đó nhưng cả hai đều mặc nhiên nghĩ vậy. Tui chỉ bàn với Hạnh là đừng để lẫn lộn với quỹ 50 K, Hạnh lấy tài khoản VCB mà Hạnh mở ra từ thời còn kinh doanh nay bỏ không, để dùng. Chỉ ba ngày, sau khi Trịnh Bá Phương đăng lời kêu gọi, tui và Hạnh chia sẻ lại, tiền đổ về ào ạt, số dư đã lên 570 triệu đồng. Mọi người quá thương xót và kính phục cụ Kình đồng thời cũng tin tưởng vào uy tín của Nguyễn Thúy Hạnh và Trịnh Bá Phương.   Rồi tui bắt đầu ngửi ra mùi căng thẳng, tui bảo Phương và Hạnh tuyên bố đóng ngay tài khoản, ngưng nhận tiền phúng điếu. Tuy vậy tiền vẫn tiếp tục đỗ về. Do tui và Hạnh quá cẩn trọng, không để nhập nhằng với quỹ 50K nên hỏng việc, nếu dùng tài khoản của quỹ 50K, có I banking, Hạnh có thể chuyển tiền đi được trước khi bị phong tỏa. Tài khoản VCB bỏ lâu không dùng đến nên không làm I banking. Còn chúng tui bị giam trong nhà nên không ra ngân hàng rút tiền được.   Hạnh day dứt, mất ăn mất ngủ vì để mất khoản tiền quá lớn của mọi người, Hạnh cứ thấy mình có lỗi, tui khuyên giải gì Hạnh cũng không vơi đi, luôn nghĩ ra cách để lấy lại. Mới đây, sau khi xử phúc thẩm Đồng Tâm xong, Hạnh ủy quyền cho luật sư Ngô Anh Tuấn viết đơn yêu cầu bộ công an giải tỏa tài khoản phúng điếu. Luật sư gởi đơn lên bộ vài ngày thì Hạnh bị bắt. Nhiều bạn bè cho rằng lá đơn đòi tiền đó là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước vốn cân bằng do sự tính toán cân đo hơn thiệt của nhà cầm quyền trước việc bắt hay không nên bắt Nguyễn Thúy Hạnh. Tui cũng đồng quan điểm đó.   Chuyên án lập ra để bắt Nguyễn Thúy Hạnh đã có từ trước khi nổ ra vụ Đồng Tâm. Từ đó cho đến ngày bị bắt, Hạnh liên tục bị canh gát, bị theo dõi, bị triệu tập làm việc. Những lần làm việc đều tập trung vào quỹ 50 K, đều gây áp lực để buộc Hạnh đóng quỹ. Thậm chí an ninh còn cho người gặp riêng Hạnh gợi ý nếu Hạnh đóng quỹ lại sẽ giải tỏa tài khoản tiền phúng điếu cụ Kình.   Biết nguy hiểm, tui và nhiều bạn bè của Hạnh khuyên Hạnh nên đóng quỹ lại, nhưng Hạnh vì quá gần gũi với các gia đình tù nhân lương tâm nghèo khó, biết họ trông chờ vào số tiền nhỏ nhoi vài triệu hàng tháng ấy như thế nào nên cứ lần lại mãi không chịu đóng quỹ. Tuy nhiên Hạnh cũng thấy rằng nếu không đóng quỹ thì tài khoản cũng bị phong tỏa và mất tiền, hoặc bị bắt cũng không còn quỹ nữa, nên vào tháng 12/2020, Hạnh đóng tài khoản, chấm dứt hoạt động từ thiện cứu giúp các gia đình tù nhân lương tâm khó khăn. Hạnh bần thần mất ngủ mấy ngày đêm vì quyết định này.   Chỉ có cái tâm trong sáng và tấm lòng vị tha như Hạnh mới làm cho quỹ 50K thành công vượt mức mong đợi và gây lo ngại cho nhà cầm quyền. Ban đầu tài khoản của Hạnh nhận phần lớn tiền từ các nhà hảo tâm nước ngoài, số người trong nước còn ít và còn dè dặt, chỉ gởi số tiền rất nhỏ và thường là ẩn danh. Nhưng càng về sau, số bà con hảo tâm trong nước đông dần lên, vượt qua số nhà hảo tâm là kiều bào, vượt qua sợ hãi, công khai tên tuổi, gởi số tiền càng ngày càng lớn hơn. Chính điều này làm nhà cầm quyền e ngại nên quyết ngăn chặn Hạnh.   Hạnh điều hành quỹ công khai minh bạch và chính xác thu chi đến từng đồng bạc lẻ. Ví dụ nhận $100, giá thị trường là 2.251.000 đồng thì Hạnh nhập vào quỹ đúng y bon số tiền đó không thiếu một đồng lẻ. Số tiền về nhiều, Hạnh không để đọng lại lâu, lo chuyển đi tức khắc và quyết toán liền mỗi đợt, do vậy mỗi tháng Hạnh quyết toàn đến hai hoặc ba lần, mỗi lần quyết toán đều công khai danh sách người góp và số tiền thu vào, rồi công khai số tiền gởi cho các gia đình tù nhân lương tâm, số tiền còn thừa nhập vào đợt quyết toán sau. Đợt quyết toàn trước nối với đợt quyết toán sau qua số tiền còn thừa và gắn kết bằng một đường link, ai cũng vào xem và kiểm tra được từ đầu đến cuối. Tất cả các đợt quyết toán đó, từ ngày mở đầu cho đến ngày đóng quỹ, nối kết với nhau, tạo ra một hệ brochain đơn tuyến khá vững chắc và minh bạch không thể nào sửa đổi để gian lận được. An ninh và dư luận viên vào canh quỹ hàng ngày, cộng trừ từng đồng để cố bắt lỗi Hạnh nhưng không thể. Và chính vì điều đó mà Hạnh phải đi tù. Nếu Hạnh có gian lận tiền nong của quỹ thì họ tung hô lên để làm mất uy tín Hạnh, mọi người hết tin không gởi tiền nữa, quỹ tự chết mà không cần phải bắt Hạnh để mang tiếng đàn áp việc làm từ thiện.   Tiền của quỹ 50 K duy nhất là để hỗ trợ cho gia đình TNLT, không hỗ trợ bất cứ chuyện khác dù là giúp đỡ vài anh em đang bị khó khăn đột xuất. Nhiều anh em bị đánh, bị cướp điện thoại và tài sản khi đi biểu tình, phải đi bệnh viện chữa trị, Hạnh cũng không xuất tiền quỹ ra hỗ trợ dù đang dư. Ngay cả việc đi xa thăm các gia đình TNLT, đi lên trại giam đồng hành với gia đình TNLT, Hạnh đều xuất tiền riêng lo chi phí đi lại và ăn uống cho mọi người, nếu đi bằng xe của tui thì tui phải tự bỏ tiền ra đổ xăng. Ngay cả đợt tui và Hạnh bị đánh tại trại giam số 6 Thanh Hóa, bị cướp hết điện thoại và số tiền của quỹ mang theo để hỗ trợ cho các gia đình TNLT ở Thanh Hóa và Nghệ An, tui và Hạnh phải xuất tiền túi ra đền vào chứ không hề hô hoán lên mất tiền để trừ vào quỹ. Hạnh không dùng tiền quỹ giúp anh em bên ngoài bị đàn áp vì nếu làm vậy sẽ bị quy chụp ngay tội tài trợ cho khủng bố. Quỹ 50 K là để giúp nhân đạo cho các gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn khi lao động chính bị bắt đi tù.   An ninh và dư luận viên hay chất vấn tại sao không làm từ thiện cho tất cả đồng bào bị khó khăn mà chỉ từ thiện cho gia đình tù. Xin thưa, lo cho người nghèo khó có quỹ phúc lợi xã hội của nhà nước lấy từ thuế của dân, tiền từ quỹ này nếu có cũng không hề đến tay gia đình có tù chính trị đang bị địa phương cô lập.   Hơn nữa làm từ thiện chung chung như vậy thì ai làm cũng được, cả xã hội đang làm, các cơ quan báo chí, tôn giáo, các cá nhân đều làm được, và mỗi lần họ đứng lên kêu gọi có hàng trăm tỉ đồng đổ về dễ dàng vì người hảo tâm đóng góp không phải sợ hãi. Nhưng số tiền đó không có đồng nào chạy về gia đình có tù chính trị đang bị cô lập dù họ đang rất khó khăn. Người lập quỹ cũng rất sợ hãi không dám trao tiền cho các gia đình có tù chính trị.   Mọi người đều sợ hãi, nên trong cả nước chỉ có các anh Nguyễn Quang A, Nguyễn Tường Thụy, Trương Dũng, Ngô Duy Quyền và Nguyễn Thúy Hạnh đứng ra làm, trong đó Thúy Hạnh làm thành công hơn nên bị bắt. Tường Thụy bị bắt trước Hạnh, nhưng vì hội nhà báo độc lập chứ không phải vì quỹ bầu bí tương thân.   Mỗi ai bị bắt đều làm Hạnh thương lo, mất ăn mất ngủ, thấy mình như có lỗi và mắc nợ những bạn bè đó. Hạnh bị sốc nhất là khi cả gia đình Trịnh Bá Phương bị bắt. Hạnh yêu thương Trịnh Bá Phương như con, quý mến Cấn thị Thêu hết mực. Mình Trịnh Bá Phương bị bắt đã gây sốc cho Hạnh rồi, huống chi bắt đến cả ba người, trong đó chị Thêu đã từng đi tù hai lần vì tham gia đấu tranh. Kế đến là Đoan Trang cũng làm cho Hạnh sốc nặng. Hạnh yêu quý và lo lắng cho Trang vì em đang bị bệnh lại phải trốn tránh khắp nơi. Biết trước sau Trang cũng bị bắt, nhưng khi nghe tin Hạnh rụng rời hết tay chân, cả ngày không làm được việc chi, cứ đờ đẫn ra…   Hạnh không chỉ lo tiền nong cho các gia đình TNLT, Hạnh còn đến tận nhà để bỏ công sức ra giúp nếu như có điều kiện. Hạnh từng nhiều ngày vào bệnh viện chăm sóc hai ông bà già Khánh Trâm. Mới đây Hạnh mấy ngày vào bệnh viện chăm con giúp cho vợ Lê Thanh Tùng khi cô ấy phải bận việc khác... Hạnh thương yêu và chia sẻ khó khăn của các gia đình TNLT bằng cả trái tìm của mình...   Bắt giam một tấm lòng trong sáng như vậy nhà cầm quyền đã tự trưng ra cho mọi người thấy họ là của phe bóng đêm.   Hôm Thúy Hạnh được đưa trở lại nhà lần cuối để gặp tui, tui xúc động nhiều, Hạnh rất bình tỉnh và an nhiên, Tui chẳng nhớ ra điều gì để nói với Hạnh, trong khi đó Hạnh dặn dò tui nhiều điều cần thiết, như ghi mã số khóa nhà (tui dùng vân tay nên quên mã khóa), ghi mã ATM lương hưu của Hạnh, nhờ công an đưa chìa khóa và thẻ gửi xe chiếc 82 cùi mà nàng chạy đến nhà chị sáng hôm đó rồi bị bắt nên xe vẫn còn đó, còn ghi cho tui cả địa chỉ nhà chị ấy để tui khỏi vất vã hỏi tìm, rồi nàng chỉ tui thức ăn, mở tủ chỉ tui mấy lọ thuốc bổ quý của cháu Phúc tặng, bảo tui uống để bồi bổ sức khỏe…   Khi họ đưa Hạnh ra thang máy để đi, tui chỉ được nhìn theo, thấy dáng Hạnh bé nhỏ bị vây chặt giữa đám 10 người to lớn, phải nhướng lên mới nhìn thấy tui, Hạnh vẫn bình thản và tự tin nhìn tui mắt ráo hoảnh, tui nói: Hãy để tui thay chỗ của Hạnh, tui đáng bị bắt hơn… rồi nước mắt tui tự nhiên tuôn ra, tui phải quay vội đi để Hạnh không thấy tui mềm yếu, nên đã không thấy cảnh nàng bước vào thang máy. Tui chạy vội vào nhà bật khóc một mình. Thế mà tui cứ tưởng tui mạnh mẽ hơn nàng.  
......

Nguyên nhân chính mà Tô Lâm ra lệnh bắt chị Nguyễn Thúy Hạnh?

Luật Sư Nguyễn Văn Đài ·   Tô Lâm và Bộ CA đã quyết tâm thực thi tội ác đến cùng, thực hiện tội ác sau để che đậy tội ác trước, tội ác chồng lên tội ác!   1/ Có phải vì Quĩ 50K?   Hoàn toàn không! Vì theo Bộ luật dân sự Việt Nam, chị Thúy Hạnh chỉ là người trung gian, người được ủy thác để chuyển quà tặng là tiền hoặc hiện vật từ người cho tới người nhận. Việc làm cho của chị Thúy Hạnh không có thu phí nên không phải đăng ký kinh doanh, không phải thành lập doanh nghiệp. Bất kỳ công dân Việt Nam nào cũng có quyền làm như vậy.   2/ Có phải vì những bài viết của chị trên FB?   Chị Thúy Hạnh có một số bài viết trên FB cá nhân chỉ để bày tỏ những cảm xúc, những bức xúc trước các vấn đề chính trị, xã hội của Việt Nam. Chị không có ý thức dùng những cảm xúc, bức xúc của chị để tuyên truyền chống đối chế độ độc tài CSVN. Đây là lý do mà sẽ được truyền thông nhà nước độc tài CSVN đưa tin. Và là những chứng cứ mà cơ quan an ninh điều tra CATP Hà Nội sử dụng trong kết luận điều tra, VKS sử dụng trong cáo trạng và Tòa án dùng để kết tội chị. Nhưng không phải là bản chất của vụ án.   3/ Bản chất thực sự của vụ bắt giữ là ở số tiền phúng viếng đám tang cụ Lê Đình Kình hơn 500 triệu đồng ở TK của chị ở Vietcombank.   Số tiền này đã bị Bộ CA ra lệnh phong tỏa, sau đó đã xảy ra chiến dịch tẩy chay Vietcombank trên MXH khiến Thứ trưởng Bộ CA Lương Tam Quang và Chánh VP Tô Ân Xô phải họp báo công khai tuyên bố số tiền này liên quan tới khủng bố và tài trợ khủng bố. Nhưng trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, không có 1 từ nào nói về số tiền nói trên.   Bản án vụ Đồng Tâm không nhắc tới số tiền này.   Vậy đó là khoản tiền hợp pháp, chẳng liên quan gì tới khủng bố hay tài trợ khủng bố.   Đương nhiên, Bộ CA phải tháo khoán lệnh phong tỏa và Vietcombank phải trả lại tiền cho chị Hạnh để chị chuyển cho gia đình cụ Lê Đình Kình. Nếu làm như vậy thì gần 100 triệu người dân VN không bao giờ còn tin vào Bộ CA nữa. Bởi Bộ công an đã vu khống, chụp mũ để phong tỏa số tiền trên. Và điều mấu chốt ở đây là người dân VN sẽ không còn tin vào tất cả những gì Bộ CA tuyên truyền về vụ án Đồng Tâm đều là giả dối: như giết 3 cảnh sát chết cháy,…   Điều này thì Bộ CA và Tô Lâm không thể chấp nhận.   Thực tế là đã nhiều lần an ninh gợi ý chị Hạnh thỏa thuận để trả lại số tiền này khi bị ép mời làm việc cũng như nhắn mời đi uống café. Nhưng chị Hạnh đều từ chối.   Không thể thỏa thuận thì Tô Lâm ra lệnh bắt, và việc bắt giúp Tô Lâm và Bộ CA đạt được nhiều mục đích:   1/ Tuyên bố tịch thu và Tô Lâm nuốt trọn số tiền 500 triệu, 2/ Ngăn chặn được nguồn giúp đỡ cho hơn 100 gia đình TNLT 3/ Đe dọa, khủng bố tinh thần những người đấu tranh khác.   Tô Lâm và Bộ CA đã quyết tâm thực thi tội ác đến cùng, thực hiện tội ác sau để che đậy tội ác trước, tội ác chồng lên tội ác!
......

Yếu điểm cố hữu của nền kinh tế, Phạm Minh Chính sẽ không thể làm gì được

Đỗ Ngà|  Hiện nay tổng vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam được phân bổ như sau: khu vực nhà nước chiếm 33,5%, khu vực tư nhân chiếm 44,4%, và khu vực FDI là 22,1%. Tính gộp lại thì khu vực nhà nước và tư nhân chiếm đến 77,9% tổng vốn xã hội tuy nhiên họ chỉ chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và hầu hết sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam là chế biến và gia công. Ngược lại khối FDI chỉ chiếm 22,1% tổng vốn xã hội nhưng chiếm đến 71,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều đáng nói là mặt hàng FDI xuất khẩu phần lớn là sản phẩm công nghệ. Nói chung việc làm nên con số tăng trưởng, tổng thu nhập quốc gia GDP đều chủ yếu nhờ FDI. Được biết, năm 2020 tốc độ tăng trưởng vốn trong khối doanh nghiệp nhà nước là 13%, trong khi đó tăng trưởng vốn của khối doanh nghiệp tư nhân là 3% và tăng trưởng vốn của FDI là -3%. Tuy nhiên, dù vốn giảm nhưng tỷ trọng xuất khẩu của khối FDI lại tăng từ 70% năm 2019 lên 71,9% năm 2020. Điều đó cho thấy sức mạnh của khối doanh nghiệp nội (gồm doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước) là rất kém. Nói cho dễ hiểu thì doanh nghiệp trong nước to xác nhưng cơ thể đầy bệnh hoạn, còn FDI tuy nhỏ nhỏ con nhưng rất khỏe mạnh. Được biết quý I năm 2021, Việt Nam có hơn 40.000 (bốn mươi ngàn) doanh nghiệp bị phá sản. Tuy nhiên điều đáng nói là các doanh nghiệp quốc doanh chẳng ông nào bị phá sản cả. Vì sao vậy? Chả nhẽ doanh nghiệp quốc doanh hoạt động hiệu quả hơn doanh nghiệp tư nhân? Không phải vậy, trong 3 loại doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay thì ông quốc doanh làm ăn bết bát nhất, tuy nhiên nó lại được nâng đỡ bằng nguồn tiền ngân sách. Đó cũng là thứ bất công đã làm nên nền kinh tế Việt Nam trì trệ và mãi phải phụ thuộc vào FDI mà chưa thể trụ được trên loại doanh nghiệp trong nước. Chi phí đầu tư Nghiên cứu và Phát triển – R&D so với GDP là tỷ lệ cho thấy định hướng phát triển của quốc gia đó. Nếu đầu tư vào R&D càng cao thì quốc gia đó càng hướng tới nền kinh tế tri thức, làm việc hiệu năng cao và nền kinh tế sinh lời càng lớn. Ngược lại, mức đầu tư vào R&D quá thấp thì điều đó cho thấy quốc gia đó rất khó chuyển đổi từ nền kinh tế gia công sang nền kinh tế tri thức được. Theo thống kê của UNESCO cho biết thì hiện nay đầu tư cho R&D của Việt Nam chỉ là 0,4% GDP, trong khi đó Trung Quốc là 2%, Mỹ 2,7% và Đức 2,9%. Việt Nam đang bị rơi vào thực trạng là có muốn tăng chi phí R&D cũng không tăng được vì nền giáo dục nước này tạo ra nhân lực kém chất lượng không phù hợp với khả năng R&D. Hằng năm, lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường hàng chục vạn người, tuy nhiên phần nhiều trong họ là thích hợp với chạy Grab hơn là làm R&D, chính vì vậy mà các doanh nghiệp FDI luôn than vãn rằng họ thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao. Đó là thực tế đáng buồn. Phải nói nền giáo dục Việt Nam quá nát và không thể sửa chữa được nữa. Ông tân bộ trưởng Bộ Giáo Dục Nguyễn Kim Sơn chắc chắn cũng sẽ không làm gì được để thay đổi nền giáo dục này. Cái tử huyệt của nền kinh tế Việt Nam là khối doanh nghiệp nhà nước. Loại hình này kém hiệu quả nhất trong 3 loại hình doanh nghiệp. Nguyên nhân là, tiền của thiên hạ chứ không phải tiền túi của mình nên “dại gì không phá”?! Thực tế, trong khối doanh nghiệp nhà nước còn mang nặng bản chất “lý lịch” rất đặc trưng CS, các sếp chủ yếu ưu tiên cho người nhà thay vì ưu tiên cho nguồn chất xám. Mà như ta biết, chất xám ở Việt Nam vốn đã hiếm mà nó lại ít tụ vào khối quốc doanh, vì thế mà loại doanh nghiệp này vốn kém hiệu quả nay lại còn kém hơn. Như vậy ĐCS định hướng cho khối doanh nghiệp quốc doanh làm “sếu đầu đàn” cho nền kinh tế là định hướng sai ngay từ bước đi cơ bản. Để thực hiện chính sách dùng doanh nghiệp nhà nước làm “sếu đầu đàn” thì ngay từ năm 2018, đảng đã cho thành lập Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh Nghiệp. Người đứng đầu Ủy ban này là một Ủy viên Trung ương đảng ngang bằng với cấp hàm bộ trưởng. Người ta gọi Ủy ban này là một “siêu ủy ban” vì nó nắm trong tay 18 tập đoàn và tổng công ty nhà nước với tổng vốn lên đến 100 tỷ đô la. Nhờ Ủy ban này mà các tập đoàn nhà nước thua lỗ là được nhà nước lấy tiền dân giải cứu cho nó. Vụ nhà nước xuất 4000 tỷ cho Vietnam Airlines mượn là một trong vô số ví dụ về sự bất công đó. Để chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam đi từ lượng sang chất thì vấn đề là phải cải cách thể chế chính trị. Khi còn thể chế chính trị này thì nền giáo dục vẫn duy thì sự thối nát như thế này mãi và điều đó kéo theo chất lượng nguồn chất xám cho nền kinh tế cứ thiếu thì làm sao thay đổi được chất cho nền kinh tế? Thêm vào đó chính ĐCS đã định hướng sai ngay từ bước đi cơ bản cho nền kinh tế thì có thể nói dù trăm năm nữa nền kinh tế Việt Nam cũng chưa thể chuyển từ lượng sang chất được. Năm 1999, khi trả lời phỏng vấn của Reuters, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đã nói rằng “việc cải cách kinh tế ở Việt Nam đến đây gặp bế tắc” bởi ông đã đề nghị Nguyễn Văn Linh cải cách thể chế chính trị cho người ngoài đảng vào nắm vị trí quản trị đất nước nhưng bị từ chối. Ông tân thủ tướng CS Việt Nam – Phạm Minh Chính là người được ca tụng là đã viết sách về kinh tế. Tuy nhiên nếu ông Phạm Minh Chính trên cương vị mới mà không nhận ta chính sách sai căn bản như đã nêu thì xem như ông cũng không làm gì khác ông Nguyễn Xuân Phúc. Được biết chủ trương dùng doanh nghiệp nhà nước làm “sếu đầu đàn” là của đảng chứ không phải của chính phủ. Vậy nên cũng nói thẳng là ông Phạm Minh Chính cũng sẽ không làm gì được để thay đổi chủ trương thiếu sáng suốt này đâu. Phạm Minh Chính lên cũng chẳng hứa hẹn gì nhiều. Nếu tìm lối thoát cho nền kinh tế, chỉ còn một con đường là ngã về Tàu để xúc tiến chính sách đặc khu kinh tế, hết./. -Đỗ Ngà- Tham khảo: https://baodautu.vn/von-dau-tu-toan-xa-hoi-9-thang-tang… https://www.thesaigontimes.vn/…/hon-40000-doanh-nghiep… https://vietnambiz.vn/duyet-tai-cap-von-toi-da-4000-ty… https://www.thesaigontimes.vn/…/co-nen-de-dnnn-dan-dat… http://uis.unesco.org/…/research-and-development-spending/ https://nhandan.com.vn/…/infographic-nam-hoc-2018-2019…/ https://www.voatiengviet.com/…/a-19-a-2003…/516513.html  
......

Đại hội Đoàn luật sư thành phố Hà Nội - Cuộc hội ngộ hay buổi phân tranh?

Tuan Ngo   Đại hội Đoàn luật sư thành phố Hà Nội đang diễn ra ngày thứ nhất. Tới phần bầu Ban Chủ nhiệm, Ban điều hành đại hội đã đưa ra danh sách 16 ứng viên do đại hội giới thiệu, sau đó, tới phần tự ứng cử và đề cử. Có 3 luật sư tự ứng cử và 19 luật sư được đề cử; đa số họ là những luật sư tài năng, nhân cách. Tuy nhiên, 18/19 luật sư được đề cử đều xin từ chối không tham gia, duy nhất chỉ một đại biểu không rút lui. Danh sách còn lại là 4 luật sư tự ứng cử được đưa ra để chọn 2 ứng viên vào vòng “thi thố” cuối cùng với 16 ứng viên được giới thiệu.   Một điểu bất ngờ xảy ra là khi người chủ trì chuẩn bị lấy ý kiến đại biểu để chốt danh sách thì Ban Tổ chức thông báo ngay là 4 ứng viên này đều không đủ tư cách ứng cử, đề cử vì những lý do khác nhau nhưng chủ yếu là thiếu thời gian tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ bắt buộc (có người chỉ thiếu 1 buổi bồi dưỡng cách đây gần 6 năm). Và rồi, “đấu trường dân chủ” cuối cùng kết thúc trong sự bất ngờ pha lẫn sự chán nản của nhiều đại biểu - Không một ai ngoài danh sách của ban tổ chức đưa ra được chấp nhận, mọi chuyện vẫn y như cũ.   Một số luật sư và tôi giơ tay có ý kiến thì khi cầm micro thì bị ngắt kết nối âm thanh, thay micro khác thì tình trạng cũng như vậy trong khi trước đó mấy phút tất cả vẫn hoạt động bình thường. Có vị bức xúc, bước lên bục phát biểu cũng bị mời về. Trong khi cuộc bầu bán sắp diễn ra, người ta không quên màn đấu tố người mà họ coi là đối thủ trực tiếp tất nhiên, họ đủ khôn ngoan khi không cần phải tự mình làm điều đó.   Đến lúc này thì tôi hiểu tại sao rất nhiều luật sư có uy tín như Nguyễn Tiến Lập, Ngô Quốc Kỳ, Lê Đình Vinh, Nguyễn Huy Thiệp, Trương Thanh Đức, Trương Anh Tú, Bùi Đình Ứng... đã thi nhau xin rút lui. Có lẽ họ không muốn uy tín của mình bị tổn hại bởi những cuộc ganh đua mà bản thân họ cho là vô bổ; họ không muốn khoác lên mình những thứ hư danh. Sẽ khó có một sự bất ngờ nào về kết quả của cuộc đại hội này và dù ai làm chủ nhiệm đi nữa, sau cuộc bầu bán này, sẽ khó có sự đổi mới nào để giúp đoàn đi lên, thành viên gắn bó hơn và xa hơn là xã hội nhìn vào giới luật sư với con mắt trọng thị hơn.   Tôi không biết được, việc có chân trong Ban Chủ nhiệm nó giúp người ta có được những quyền lợi gì họ ham hố tới vậy; thậm chí có người còn bất chấp sĩ diện để chen bằng được một chân vào mới thôi. Đây là lần đầu tiên và rất có thể sẽ là lần duy nhất tôi tham gia đại hội Đoàn luật sư nếu như cách thức tổ chức không thay đổi.   Khi tôi viết status này cũng là lúc các luật sư vẫn nhịn đói từ sáng sớm, ngồi trong hội trường nghe điểm danh lần thứ 3 trong một buổi. Nhiều người muốn bỏ về nhưng vẫn phải cố ngồi lại ở đây tới ngày mai vì theo quy định, không được bỏ về giữa chừng...
......

Cộng sản và cuộc đánh tráo khái niệm mỹ học, đạo đức

VietTuSaiGon| Mấy ngày gần đây, hay nói chính xác hơn là những ngày diễn ra bầu bán ở trung ương đảng và đại hội 13 trung ương đảng cộng sản Việt Nam, tình hình bắt bớ trở nên nghiêm trọng, những người tưởng chừng sẽ không bao giờ bị bắt bỗng dưng bị triệu tập và bắt một cách bất thường. Cái sự bắt bất thường sau một chuỗi dài bắt nguội, bắt nóng khiến cho số lượng tù nhân lương tâm ngày càng nhiều và tình hình xã hội ngày càng hỗn loạn cho thấy rằng chúng ta, hay nói chính xác hơn là các dân tộc sống dưới thể chế chính trị Cộng sản đang trải qua một cuộc lột xác mỹ học và đang phải gánh chịu một nền chính trị mà ở đó, văn hóa, đạo đức và mỹ học đã bị đánh tráo khái niệm bằng bạo lực cách mạng, bằng kết quả biện minh cho phương tiện. Ngay từ những ngày đầu “thống nhất” đất nước, nhà cầm quyền Cộng sản đã dùng chiêu trò với nhân dân, đẩy nhân dân vào chỗ tán gia bại sản bằng chiêu bài đánh tư bản. Chưa dừng ở đó, các giá trị đạo đức bị xóa sạch và áp đặt bằng một hệ thống “đạo đức xã hội chủ nghĩa” mà cái hệ thống ấy chẳng ai biết nó là thứ quái quỉ gì. Nhưng người ta biết, để có thứ đạo đức đó, người trí thức, quân nhân và nghệ sĩ miền Nam phải đi học tập cải tạo nhiều năm, từ một con người với dáng bộ khỏe khoắn, mạnh mẽ, tự tin, họ trở thành một thứ ngợm da dẻ xanh xao, tái mét, buồn thảm, thểu não và có thể chết bất kỳ giờ nào nhờ cái đạo đức mới học được. Cái thứ đạo đức giúp cho họ biết sợ chết và biết mình sẽ chết bất kỳ giờ nào. Bên cạnh đó, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã khai thác triệt để kĩ năng đấu tố của con người từ trứng nước. Từ việc tổ chức các đội cờ đỏ, sau này gọi là sao đỏ, một kiểu hoạt động tiền thân của hồng vệ binh kiêm đấu tố trong nhà trường. Có thể nói rằng các thế hệ học sinh sau 1975 đã phải trải qua một môi trường học tập đầy tính chiến đấu và thiếu hẳn tình người, cái thời kỳ mà các cậu học trò, cô học trò có thể vu khống nhau để lấy điểm và dìm bạn mình. Khi tính chiến đấu, khả năng đấu tố được kích hoạt thì không còn chỗ nào để tình yêu thương, lòng lân mẫn phát triển. Chính các thế hệ này tiếp tục lớn lên và dạy học cho các thế hệ sau, hệ quả của nó là nền giáo dục đang nhìn thấy. Đương nhiên, không phải cứ ai trong môi trường giáo dục này cũng trở nên mất tính người, nhưng chắc chắn số lượng bị tác động bởi sự căng thẳng này cao hơn nhiều so với số không bị tác động. Khi giáo dục được định nghĩa bằng tính chiến đấu thì văn chương, văn học cũng bị mặc định bằng tính chiến đấu và tính tuyên truyền. Các tác phẩm văn học “chính thống” phải đảm bảo hai tính chất này và không được vượt ra khỏi khuôn khổ của nó. Trong các hình thái và đường dẫn truyền thụ, có vẻ như đường dẫn văn chương nhanh đi đến tâm hồn và có tác động lớn nhất đối với mỗi số phận học sinh. Đường dẫn tâm hồn của giáo dục xã hội chủ nghĩa đầy rẫy sự manh mún, giết tróc, hãnh tiến, hiếp đáp, coi thường nhân phẩm, thậm chí đạp lên nhân phẩm người khác để đạt mục đích… Tất cả như một sự trả thù trước những giá trị văn hóa ổn định của đối phương. Và di chứng của nó là vết sẹo tâm hồn quá lớn trong các thế hệ, nó khiến cho yếu tố tranh đua, đạp lên nhau mà sống có mặt ở mọi ngóc ngách cuộc đời. Đó là trong môi trường trại cải tạo, trong học đường, còn ngoài xã hội, thời kinh tế tập trung bao cấp đi qua với hàng triệu sinh mệnh bị đe dọa bởi những ông tổ trưởng, nhóm trưởng, đội trưởng sản xuất, những con người vốn dĩ chữ ‘o’ viết không đủ tròn, cái tên viết không hết lỗi chính tả nhưng dám tuyên bố với người nông dân rằng “tao chỉ cần lật bàn tay là mày chết!”. Cái thời mông muội, u tối đó đi qua để lại vết thương quá lớn trong lòng dân tộc và nó được tiếp quản bởi thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một lần nữa con người đi từ chụp mũ, hung bạo với sợ sệt đến chỗ cơ hội, léo hánh với bợ đỡ, xin xoe. Và hệ quả của mọi xung động xã hội là các giá trị văn hóa, mỹ học và đạo đức bị thay đổi đáng kể, bị bóp méo, bị vò nát và lương tri trở thành thứ gì đó xa xỉ, xa lạ trước cuộc sống. Muốn tồn tại thì phải đạp lên nhau, muốn giàu có thì phải biết bất chấp và chà đạp người khác. Và, đến thời điểm hiện nay, có thể nói tuy mọi mặt đều phát triển, kinh tế, vật chất, cơ sở hạ tầng đều trương nở, phát triển nóng. Nhưng thay vào đó là hệ qui chiếu về đạo đức, lẽ phải và công lý đã hoàn toàn thay đổi. Sự méo mó và phản đạo đức được chính qui hóa thông qua cánh cửa an ninh. Muốn bắt bớ, đe dọa, khủng bố tinh thần, ngành an ninh đều có thể làm nó một cách công khai, không còn phải che giấu, bởi mọi thứ được chính qui hóa, hợp thức hóa. Nếu như những năm tháng bao cấp, ngành an ninh có thể bắt bớ, đánh đập người dân một cách tàn bạo trong chiếc áo công an, trong bộ dạng an ninh thì bây giờ, họ cũng có thể làm như vậy một cách gắt gao, sắt máu hơn nhưng không phải bằng bộ dạng an ninh hay công an mà nó được khoác bằng chiếc vỏ xã hội đen. Sự xuất hiện và lộng hành của xã hội đen vừa đóng vai trò là cái cớ cho an ninh siết chặt mọi giới nghiêm vừa là đất dụng võ cho một kiểu xã hội đen trá hình từ an ninh để đảm bảo các hoạt động khủng bố với người dân, khiến cho dân tình hoang mang và đặc biệt, họ dần dà xem việc này như một hoạt động thường nhật trong đời sống, chọn im lặng và thỏa hiệp trước mọi cái xấu. Nếu không phải vậy, thì chỉ cần đặt một câu hỏi rất giản đơn: Mỗi năm bao nhiêu khóa an ninh tốt nghiệp, mỗi năm kinh phí cho ngành an ninh tăng bao nhiêu và đương nhiên biên chế ngành tăng vọt hằng năm nhưng tại sao xã hội thêm phần rối reng, xã hội đen thêm tràn ngập. Chỉ có một lý giải duy nhất: Thể chế chính trị Cộng sản xã hội chủ nghĩa là một thể chế chính trị mà con người đã bị đánh tráo mọi thứ về nhân phẩm, đạo đức và mỹ học.   VietTuSaiGon's blog  
......

Pages