2019

Triều Tiên họp báo nửa đêm, lá bài thứ 3 và tính cách Trump

Nguyễn Văn Phước| Lần đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên tổ chức Họp Báo tại Melia lúc hơn 12h đêm. Các nhà báo quá bất ngờ nên chỉ có một số nhà báo quốc tế và Việt Nam túc trực ở Melia mới tham dự đc sau khi kiểm tra an ninh kỹ lưỡng. Đúng là quốc gia có những luật lệ lạ nên cái gì cũng lạ. Họp báo càng lạ... ko tiếng Anh, ko phiên dịch qua tiếng Việt. Cũng ko quan tâm có ít hay nhiều nhà báo tham dự vì cánh nhà báo tất cả đều ko kịp ứng biến. Cách của Triều Tiên luôn đi ngược với thế giới. Ngoại trưởng Triều Tiên Ri Yong-ho bắt đầu buổi họp báo bằng việc thông báo kết quả cuộc họp Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2, cho biết hai bên không đạt được bất kỳ thỏa thuận nào. Ông Ri Yong-ho khẳng định: "Trong hai ngày họp Thượng đỉnh, nhà lãnh đạo của CHDCND Triều Tiên Kim Jong Un và Tổng thống Mỹ Donald Trump đã có các cuộc thảo luận về nhiều vấn đề với sự kiên trì, tin tưởng lẫn nhau trên cơ sở kết quả đạt được tại cuộc gặp lần thứ nhất ở Singapore". Giải thích về nguyên nhân khiến hai bên không thể đạt được thỏa thuận, ông Ri cho biết: "Chúng tôi đã đưa ra các đề xuất có tính thực tiễn tại cuộc gặp lần này. Nếu Mỹ dỡ bỏ một phần các lệnh cấm vận nhằm vào nền kinh tế Triều Tiên nói chung và cuộc sống của người dân Triều Tiên nói riêng, chúng tôi sẽ dỡ bỏ hoàn toàn cơ sở sản xuất hạt nhân tại Yongbyon". "Triều Tiên đang phải chịu 11 lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc và chỉ yêu cầu Mỹ dỡ bỏ 5 lệnh trong số này. Trong đàm phán, 2 bên đã thảo luận về việc ngừng lâu dài việc thử hạt nhân cũng như thử tên lửa tầm xa. Tuy nhiên, phía Mỹ yêu cầu chúng tôi phải tiến xa hơn, loại bỏ hoàn toàn các cơ sở hạt nhân. Chính vì yêu cầu này mà thỏa thuận đã không thể đạt được", ông Ri Yong-ho cho hay. "Mặc dù việc đảm bảo an ninh là điều quan trọng nhất đối với chúng tôi khi bắt đầu các bước phi hạt nhân hóa, chúng tôi cũng hiểu rằng rất khó để Mỹ dừng hẳn các cuộc diễn tập quân sự. Đó là lý do vì sao chúng tôi đã đề xuất việc dỡ bỏ từng phần cấm vận tương ứng với hoạt động giải trừ hạt nhân", ông Ri nói. Ngoại trưởng Triều Tiên nói thêm: "Trong suốt cuộc gặp thượng đỉnh này, chúng tôi đã nhấn mạnh ý định của mình về một cam kết dừng dài hạn các cuộc thử hạt nhân và thử nghiệm tên lửa tầm xa để giúp Mỹ hạ thấp các quan ngại. Nếu hai bên có thể hợp tác trong suốt quá trình xây dựng lòng tin này, nó sẽ giúp thúc đẩy việc phi hạt nhân hóa ở tốc độ nhanh hơn". Những đề xuất này đã không hài lòng Trump khi Hoa Kỳ muốn Triều Tiên ngưng và dỡ bỏ tất cả hoạt động hạt nhân trên toàn quốc gia này mới dỡ bỏ lệnh cấm vận hoàn toàn như đề nghị của Trump ban đầu ở Singapore. Trump không đồng ý chỉ vì Kim Jong Un mặc cả sẽ dỡ bỏ nhà máy hạt nhân Yongbyon với điều kiện ông Trump phải dỡ bỏ 5 lệnh cấm vận. Cả phái đoàn Triều Tiên ngạc nhiên nhìn nhau khi Trump nhắc đến tên một cơ sở hạt nhân gần Yongbyon cần dỡ bỏ do tình báo phía Mỹ phát hiện ko được Triều Tiên công bố. Điều này nằm ngoài dự tính ban đầu của Kim, có thể cơ sở này có tầm quan trọng nên Kim đã không đồng ý. Tính cách Trump rất linh hoạt, hiểu biết, lịch sự, tôn trọng, đề cao Kim nhưng khẳng khái và trước sau như một. Với Trump là phải chân thành và không trì hoãn, kèo nài hay mặc cả. Dù cuộc gặp lịch sử Mỹ - Triều được chuẩn bị tốn kém nhất chưa đi đến một kết quả nào hết nhưng Việt Nam và hầu hết người dân được chứng kiến tường tận tính cách của đại diện hai quốc gia, sự khác biệt vì lợi ích cộng đồng của hai bên và hiểu rõ vấn đề mâu thuẫn vì sao Trump quyết tâm loại bỏ hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Rất có thể cuộc gặp thứ 3 Trump sẽ cẩn trọng hơn rất nhiều và chỉ đồng ý khi Kim Jung Un phải cam kết dứt khoát một số điều, mà điều này dường như khó xảy ra vì hình như Kim Jung Un vẫn còn lệ thuộc Trung Quốc, không thực sự thoát Trung như từng cố thể hiện mà rất nhiều người đã tin. Có vẻ Kim muốn dựa vào Trung Quốc như tìm một yếu tố, chỗ dựa, thêm một lá bài bảo kê để mặc cả với Trump. Ngay sau khi rời Việt Nam, Kim Jung Un sẽ đi Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình. Chẳng lẽ Kim Jung Un ko hiểu rằng khi làm vậy uy tín, hình ảnh của chính mình sẽ giảm sút mà chỉ làm cho Trump cảnh giác với Kim và quyết liệt với Trung Quốc hơn hay sao ? Rất mong rằng Kim có thể tham khảo ý kiến của Tập Cận Bình nhưng cần nghĩ đến quyền lợi và tương lai người dân Triều Tiên cũng như tiến trình hoà bình hoà hợp Nam - Bắc Triều Tiên mà tất cả thành bại đang đặt vào tầm nhìn, ứng xử và hành động của Kim Jung Un. Nếu ai tinh ý sẽ nhận ra trong Kim Jung Un có hai con người, một con người rất hiểu biết, khôn ngoan từng học ở Thuỵ Sĩ về, và một con người cố hữu thừa hưởng từ người ông Kim Nhật Thành tính độc tài một thời rất độc đoán, thích quyền lực độc tôn. Trong cuộc chơi lớn có thể làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc Triều Tiên này, nếu con người trí thức, có lương tâm, vì nhân dân Triều Tiên và ý thức lưu truyền lịch sử của Kim Jung Un thức tỉnh trỗi dậy mạnh hơn thắng được con người cố hữu vốn có kia, thì cuộc gặp với Trump mới có ý nghĩa và thành công. Bất cứ nhà lãnh đạo độc tài nào thực ra cũng đều có hai con người cả. Ăn thua là bên nào mạnh hơn thôi. Câu chuyện lãng mạn, tốt đẹp màu hồng như cổ tích về mối tình Trump - Un dường như đã kéo màn kết thúc quá sớm so với kỳ vọng của cả hành tinh, trong đó có tôi và rất nhiều người Việt Nam chúng ta vì hai con người trong Kim đang giằng xé nhau. Mặc dù Trump rất cương quyết, khẳng khái nhưng luôn tỏ ra Đắc nhân tâm trong từng cử chỉ khi ứng xử và phát biểu về Kim Jung Un, để cố gắng đánh thức, khơi dậy con người thứ hai trong Kim, dù nội bộ nước Mỹ còn nhiều vấn đề mới vừa xảy ra mà Trump bay về sẽ bắt tay vào giải quyết ngay. Và con người cố hữu vốn có của Kim Jung Un, Trump cũng đã quá rõ, nhưng nếu chỉ đối xử với con người ngang ngược, thích thách thức ngạo mạn này - thì tai hoạ chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra. Rất đánh giá cao và nể Trump ở điểm này - nhưng tôi cũng biết giới hạn của sự kiên nhẫn này - tích cách không bao giờ lùi bước, quyết đoán bất chấp tất cả của Trump một khi không đè nén được rồi sẽ đến lúc trỗi dậy. Và Trump vì việc lớn cũng đang rất trầm tĩnh, lịch thiệp để đè nén tính cách vốn có của mình. Trong những ngày qua, Việt Nam là tâm điểm thu hút được cả thế giới truyền thông lại là quốc gia có lợi nhất về hình ảnh trong tất cả. Mong rằng dù tiến trình Triều Tiên còn bế tắc nhưng Việt Nam, sau khi trải nghiệm, thấu hiểu tất cả, sẽ bước qua một giai đoạn thực sự chuyển mình đổi mới.
......

Đàn áp và lạm dụng đằng sau dáng vẻ hòa bình của Việt Nam

Trong khi các nhà lãnh đạo Việt Nam kêu gọi hòa bình và hoà giải tại hội nghị thượng đỉnh Kim-Trump, thì các nhà hoạt động dân chủ và nhân quyền phải đối mặt với sự quấy rối và quản thúc tại gia. Trong khi chờ gặp một nhà hoạt động Việt Nam trong một quán bar kín đáo ở trung tâm thành phố Hà Nội, người phóng viên này đã nhận được một tin nhắn qua WhatsApp: “Tôi bị an ninh theo dõi”. Vài giờ sau đó tại một địa điểm khác – cách xa trung tâm thành phố, ông Nguyễn Chí Tuyến, một nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng, có tên “Anh Chí” trên mạng xã hội, đã giải thích rằng các cơ quan an ninh đã tăng cường giám sát các nhà hoạt động và các nhà vận động Việt Nam như ông, ngay trước Hội nghị thượng đỉnh của Tổng thống Mỹ Donald Trump và nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-un. Ông Tuyến cho biết ông đã được chính quyền ra lệnh là không được đi vào trung tâm Hà Nội vào ban ngày, và một nhóm công an mặc thường phục đã “đóng chốt” bên ngoài nhà của ông. Ông dự đoán là các nhân viên an ninh sẽ tiếp tục theo dõi sự đi lại của ông và các nhà hoạt động khác cho đến khi hội nghị thượng đỉnh kết thúc. Ông Tuyến không phải là người duy nhất phải đối mặt với sự quấy nhiễu của nhà nước trong lúc Việt Nam rình rang tổ chức hội nghị thượng đỉnh Kim-Trump. Các nhà hoạt động nhân quyền trên cả nước đã đăng lên Facebook hình ảnh các nhân viên an ninh canh gác trước nhà của họ; có người đã đăng video thâu các cuộc tranh cãi với những an ninh canh chừng họ. Cả những người ở TP.HCM, trung tâm tài chính phía nam nằm cách Hà Nội hơn 1.700 km, cũng bị theo dõi và quấy nhiễu. Một nhà vận động dân chủ yêu cầu giấu tên cho biết: “Nhiều nhà hoạt động bị cấm đi ra khỏi nhà, thậm chí là để đi làm kiếm sống; Nhiều người bị an ninh hộ tống khi đi mua sắm hoặc đưa con đến trường”. Cơ quan truyền thông Tiếng nói của Hoa Kỳ, phiên bản tiếng Việt (VOA) cũng đã đưa tin rằng một số nhà vận động cho biết họ hiện đang bị quản thúc tại gia trong suốt thời gian diễn ra hội nghị. Trong khi thế giới theo dõi các cuộc đàm phán hòa bình Mỹ – Bắc Triều Tiên diễn ra ở thủ đô Việt Nam, các phương tiện truyền thông quốc tế, với khoảng 3.000 nhà báo, phần lớn đã bỏ qua sự việc phong trào dân chủ Việt Nam bị đàn áp. Các thông điệp gởi ra từ hội nghị thượng đỉnh chủ yếu nói về Việt Nam như là một “phép màu kinh tế” mà một ngày nào đó Bắc Triều Tiên cũng có thể được như vậy, hoặc như là một điều mới lạ đối với nhiều phóng viên chưa từng đến thăm đất nước này. Nhưng sự kìm kẹp bằng bàn tay sắt bạo lực của Đảng Cộng sản cầm quyền và hồ sơ nhân quyền vô cùng tồi tệ không khó để nhìn thấy. Truyền thông Việt Nam gần như hoàn toàn là của nhà nước, trong khi các blogger độc lập chỉ trích chế độ thường xuyên bị bắt hoặc bị đe dọa. Trong những năm gần đây, các tổ chức xã hội dân sự bắt đầu xây dựng các chi nhánh địa phương trên toàn quốc nhưng đã bị nhà nước triệt tiêu. Trong đợt đàn áp giới bất đồng chính kiến gần đây nhà cầm quyền đã bỏ tù hơn 100 nhà hoạt động cho dân quyền, với một số người bị kết án lên đến 20 năm tù, chỉ vì đã chỉ trích Đảng Cộng sản trong các thông điệp đăng trên mạng xã hội. Chính quyền cũng đã bắt đầu sử dụng nhiều công an mặc thường phục hơn và thuê những tên côn đồ trộm cướp để đe dọa các nhà hoạt động, các tổ chức bảo vệ nhân quyền cho biết. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Human Rights Watch, một tổ chức giám sát nhân quyền, đã dẫn chứng hàng chục trường hợp các nhà vận động bị đánh đập tàn nhẫn trong khi mua sắm hoặc đưa con đến trường. Ngày nay, có nhiều nhà vận động dân chủ phải đối mặt với việc bị bắt giữ và có thể phải ngồi tù sau khi chính phủ đưa ra luật an ninh mạng mới, có hiệu lực từ đầu năm nay, mở rộng phạm vi các hoạt động trên mạng bị coi là bất hợp pháp. Ông Tuyến nói rằng những kỹ thuật giám sát, quấy nhiễu mà các nhà hoạt động phải đối mặt không có gì là mới. Bản thân ông đã từng phải đối mặt với sự quấy nhiễu của công an vì những bình luận chỉ trích chính sách đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, lực lượng an ninh thường xuyên hạn chế việc đi lại và các hoạt động của các nhà vận động nổi tiếng trong thời gian diễn ra các hội nghị quốc tế. Nhiều nhà hoạt động nói rằng, đúng ra họ đã phải đối mặt với nhiều đàn áp hơn trong tuần này, nhưng vì chính phủ Việt Nam chỉ mới được biết vào đầu tháng này là họ sẽ tổ chức hội nghị thượng đỉnh Trump-Kim, nên việc tổ chức canh chừng các nhà vận động đã không được chặt chẽ như những lần hội nghị quốc tế trước đây, bao gồm cả chuyến thăm Việt Nam năm 2017 của Tổng thống Mỹ Barack Obama. Cho đến nay, gần như không có một đề cập nào đến các điều kiện nhân quyền trong nước từ ông Trump hoặc các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ, kể từ khi họ đến Hà Nội vào hôm thứ ba. Trong các cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào thứ Tư, ông Trump đã chỉ có những lời khen ngợi dành cho chủ nhà. “Việt Nam đang nỗ lực để giúp cho Tổng thống Trump và chính phủ Hoa Kỳ, và cho đến nay việc tổ chức hội nghị thượng đỉnh này có lẽ là món quà lớn nhất. Đổi lại là Washington tiếp tục im lặng về hồ sơ nhân quyền tồi tệ của Hà Nội”, ông Phil Robertson, phó giám đốc của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đặc trách Châu Á, nói. “Chắc chắn là Đảng Cộng sản Việt Nam hy vọng rằng việc thu hút được sự ủng hộ lớn hơn trong cộng đồng quốc tế sẽ cho phép Việt Nam đàn áp các nhà hoạt động dân quyền và dân chủ mà không bị can thiệp hay chỉ trích”, ông nói thêm. “Các nhà lãnh đạo và các nhà ngoại giao của Việt Nam rất mưu mô và hiện nay họ đã hướng được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế theo ý họ muốn”. Các nhà hoạt động ở Việt Nam nói, hy vọng trước đó, rằng Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy cho tự do nhiều hơn ở Việt Nam, đã tiêu tan khi các chính quyền Hoa Kỳ ưu tiên các quan hệ thương mại và an ninh, hơn việc thúc đẩy nhân quyền và dân chủ. “Về phương diện dư luận, Việt Nam là một trong những quốc gia yêu chuộng Hoa Kỳ nhất trên thế giới, ngay cả trong thời đại Trump. Người Việt Nam trông mong ở Hoa Kỳ, chứ không phải Trung Quốc hay Nga, như một ngọn hải đăng của hy vọng và tiến bộ”, ông Hoàng Tứ Duy, , phát ngôn nhân của Việt Tân, nói. Việt Tân là tập hợp của những người Việt Nam khắp nơi trên thế giới đấu tranh cho dân chủ, mà Hà Nội coi là một tổ chức bất hợp pháp. “Hoa Kỳ sẽ bỏ lỡ một cơ hội, nếu Hoa Kỳ định nghĩa ‘Việt Nam’ một cách hạn hẹp chỉ là giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thúc đẩy nhân quyền và tự do chính trị tại Việt Nam sẽ mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ trong dài hạn”, ông Hoàng Tứ Duy nói thêm. Chính phủ Việt Nam rất muốn sử dụng hội nghị thượng đỉnh trong tuần này như một công cụ tuyên truyền quan trọng. Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội vào hôm thứ Tư đã kêu gọi cư dân thành phố phải thể hiện thái độ cư xử tốt nhất và cho thế giới thấy người Việt Nam là “những người văn minh, thanh lịch, thân thiện và hiếu khách”. Mặc dù đã gia tăng sự kiểm soát, nhưng chính quyền Việt Nam cũng nhận ra rằng hầu hết các nhà báo nước ngoài đến Hà Nội là những người theo dõi về tình hình Bắc Triều Tiên, với ít quan tâm đến các vấn đề trong nước của Việt Nam. Thẻ báo chí được trao cho các nhà báo ngoại quốc với quy định rõ ràng cấm mọi tường trình bên ngoài những vấn đề liên quan với hội nghị thượng đỉnh. Tuy nhiên, các blogger độc lập Việt Nam nhấn mạnh rằng các phóng viên ngoại quốc không nên quên rằng Việt Nam vẫn là một quốc gia độc đảng và là một trong những chế độ vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất của Châu Á. Vào tuần trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói rằng hội nghị thượng đỉnh sẽ cho phép Việt Nam chứng minh với toàn thế giới rằng đây là một đất nước hòa bình, thân thiện và trật tự. Đáp lại, tạp chí trực tuyến độc lập The Vietnamese đã khẳng định rằng “cái giá phải trả cho một hình ảnh như vậy là tự do của những người dám thực thi quyền lập hiến của họ”. “Việt Nam đã lật ngược tình thế với một nền kinh tế phát triển nhưng đầy dẫy tham nhũng dưới sự bảo trợ của chế độ độc tài đảng trị chà đạp nhân quyền, và Hoa Kỳ quá háo hức đón nhận họ,” ông Phil Robertson của Tổ chức Theo dõi Nhân Quyền, HRW, nói. “Những người bị thua thiệt nhiều nhất là người dân Việt Nam, vì nhân quyền của họ sẽ ngày càng bị chính quyền của họ chà đạp”. Hà Nội, 28 tháng 2 năm 2019 David Hutt Nguồn: Asia Times  
......

Tàu cười, Mỹ khóc, Tây lo

Thủ Tướng Đức Angela Merkel chỉ ra rằng Châu Âu mới là nơi phải gánh chịu những hậu quả của các cuộc phiêu lưu của Mỹ. Trong hình, bà Angela Merkel (phải) và Phó Tổng Thống Mỹ Mike Pence tại Hội Nghị An Ninh Munich lần thứ 55 ở Munich, miền Nam nước Đức, vào ngày 16 Tháng Hai, 2019. (Hình: Christof Stache/AFP/Getty Images) Thường thường phiên họp thường niên về an ninh xuyên Đại Tây Dương thường được tổ chức tại Munich vốn vẫn chỉ là một cơ hội cho hai bên mặc áo thụng vái lẫn nhau mà thôi. Nhưng năm nay thì khác. Vào lúc kết thúc hội nghị, hôm Chủ Nhật, 17 Tháng Hai, người đứng ra tổ chức, ông Wolfgang Ischinger, cựu đại sứ Đức tại Washington, đưa ra một kết luận bi quan: “Chúng ta có một vấn đề hầu như không sao giải quyết được.” Bản chất của vấn đề có thể thấy rõ trong suốt ba ngày hội nghị. Mỹ không những đụng đầu với các đối thủ Nga và Trung Cộng mà còn với cả các đồng minh tại Châu Âu và những bộ phận của hệ thống trật tự thế giới mà chính Washington bỏ công nhiều năm để xây dựng. Quan trọng hơn nữa là sự lo sợ mà người ta có thể cảm thấy được là cái keo dán nối liền các nước phương Tây của các giá trị dân chủ đang từ từ tan rã. Người ta có thế thấy sự chia rẽ này qua những tràng pháo tay được nổ ra hay không trong những bài diễn văn của các nhân vật. Khi Phó Tổng Thống Mỹ Mike Pence đọc bài diển văn trong một sảnh đường đầy ắp đến 800 người tham dự bao gồm cả các vị tổng thống, thủ tướng và các bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao các nước thì chỉ có một vài tiếng vỗ tay lẻ tẻ từ phía phái đoàn Mỹ tham dự mà thôi. Trong khi đó bài diễn văn của bà Thủ Tướng Đức Angela Merkel thì được những tràng pháo tay giòn giã đón nhận mỗi khi bà dừng lại để lấy hơi. Vì sao lại có một sự khác biệt trong cách đón nhận hai bài diễn văn như vậy? Bài diễn văn của ông phó tổng thống Mỹ là đánh dấu mức cao điểm của một tuần du thuyết tại các thủ đô Châu Âu, đặc biệt là cuộc hội nghị tại Warsaw trong đó Washington tìm cách ép buộc các đồng minh Châu Âu đi theo mình trong việc chế ngự chế độ thần quyền tại Iran. Thế nhưng bài diễn văn ở Munich vượt xa hơn, bảo các đồng minh Châu Âu hãy “học sống với Trump” và các chính sách cứng rắn của Trump mà cho người ta thấy rõ quan điểm “America First” về hợp tác với chính quyền Trump: Mỹ đơn phương quyết định và các đồng minh chỉ có quyền đi theo, một chính sách mà theo bà Constqanze Stetzenmuller, một chuyên gia cao cấp của viện nghiên cứu Brooking Institution tại Washington gọi là chính sách “You’d better join us or else.” Trong bài diễn văn ông Pence đòi hỏi Châu Âu phải tích cực ủng hộ đường lối cứng rắn của Mỹ đối với Iran, Venezuela và nguy cơ xâm nhập không gian ảo của Trung Quốc bằng cách cấm công ty Huawei tham gia vào việc xây dựng hạ tầng cơ sở điện thoại di động thế hệ thứ 5, tức 5G. Một trong những viên chức cao cấp Châu Âu có mặt gọi bài diễn văn này là “bẩn thỉu.” Bài diễn văn trả lời của bà Angela Merkel cũng rất thẳng thừng, nói rõ quan điểm của Châu Âu về chính sách độc đoán đế quốc của Mỹ, đặc biệt là những cố gắng của ông Trump nhằm cô lập Iran và chính sách bảo hộ mậu dịch của ông Trump. Bà chỉ ra rằng Châu Âu mới là nơi phải gánh chịu những hậu quả của các cuộc phiêu lưu của Mỹ kể cả việc đột ngột rút quân ra khỏi Syria và Afghanistan. Người Âu, bà thủ tướng Đức nói thêm sẽ không đi theo Mỹ trong việc hủy bỏ thỏa hiệp hạch nhân với Tehran và họ sẽ tiếp tục tìm những giải pháp đa phương cho các vấn đề tỷ như thay đổi khí hậu. Trả lời khuyến dụ của ông Trump rằng các công ty xe hơi của Đức là một nguy cơ cho an ninh Hoa Kỳ, bà chỉ ra rằng cơ sở sản xuất xe hơi lớn nhất của công ty Đức BMW là tại tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ, chứ không phải là Bavaria nơi công ty này có tổng hành dinh. Có lẽ trong hội nghị này sung sướng nhất là Trung Cộng. Trung Cộng đã gởi một phái đoàn khổng lồ sang Châu Âu tham dự, do ông Dương Khiết Trì, quốc vụ khanh đặc trách ngoại vụ, dẫn đầu để tìm cách hợp tác với Châu Âu trên phương diện canh tân và kỹ thuật cao chống lại một nước Mỹ càng ngày càng thù nghịch đối với Trung Quốc. Và quả thật, thái độ kiêu căng của chính quyền Trump đã tạo ra hậu quả tốt cho Trung Quốc. Chỉ vài ngày sau khi ông Pence đòi hỏi các nước Châu Âu phải không cho phép công ty Trung Quốc Huawei tham gia vào việc cung cấp thiết bị cho hệ thống 5G, cả Anh và Đức vốn trước đây đã ngầm ngăn chặn không cho các công ty viễn thông của mình mua thiết bị của Huawei nay đổi giọng nói rằng có thể dùng thiết bị của Huawei trong một số trường hợp. Và New Zealand vốn đã chính thức cấm không cho Huawei dự thầu cung cấp thiết bị 5G nay cũng nói rằng có thể xét lại. Nhưng sự chia rẽ càng ngày càng sâu đậm giữa Châu Âu và Mỹ cũng là một mối lo đáng kể cho những nước Châu Âu, nhất là những nước nhỏ đứng trước sự đe dọa của Nga. Cựu Tổng Thống Estonia Toomas Lives đuợc ghi lại là đã lo lắng đưa ra câu hỏi: “Những hành động của Mỹ càng ngày càng làm cho người ta lo sợ và khiến người ta phải tự hỏi ‘Chúng ta phải làm gì bây giờ? Chúng ta có thể tự đi một mình hay không?’” Câu trả lời là không; ít nhất là trong giai đoạn hiện thời. Cái dù an ninh mà Hoa Kỳ phủ cho Châu Âu quá lớn và sức hút kinh tế quá mạnh. Ngay cả những người chủ trương một Châu Âu độc lập cũng phải công nhận là không có Mỹ và sau Brexit, không có Anh, Châu Âu phải mất một thời gian dài mới có thể xây dựng được một lực lượng mạnh đủ để bảo đảm an ninh cho mình. Đúng là Tàu cười, Mỹ khóc, Tây lo./.  
......

Nếu EVFTA phải đàm phán lại?

Đó sẽ là nỗi thất vọng và hụt hẫng đến mức khó thốt nên lời của giới chóp bu Việt Nam - lần thứ hai sau cái lần đầu tiên xảy ra vào đầu năm 2017 khi Trump quyết định Mỹ rút khỏi Hiệp định TPP mà trong đó Việt Nam được xem là đối tác hưởng lợi nhiều nhất (với điều kiện có sự tham gia của Mỹ).   Cũng khá tương đồng với hoàn cảnh TPP khi đã phải đàm phán lại sau khi không còn nước Mỹ, chính thể độc đảng độc trị ở Việt Nam đang rơi vào một giai đoạn đàm phán khác và mới về EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam).   Thật ‘đáng tiếc’ cho Nguyễn Phú Trọng và những đồng đảng của ông ta, triển vọng EVFTA phải đàm phán lại đang hiện ra khá rõ, nhưng không phải chỉ là đàm phán về những vấn đề thương mại và kỹ thuật như khi TPP chuyển sang CPTPP, mà EVFTA sắp tới sẽ phải bàn và nhấn mạnh một chủ đề mà Bộ Chính trị Việt Nam hết sức căm thù lẫn ngao ngán: nhân quyền.   Thực thế: “Hiệp định Thương mại Tự do EU – Việt Nam có thể sẽ phải đàm phán trở lại. Chúng tôi cũng thúc đẩy cho việc kết thúc nhanh chóng các cuộc đàm phán về Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam” - Ngoại trưởng Đức Heiko Maas nói với báo chí sau cuộc gặp với Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh tại Berlin vào ngày 20/2/2019.   Đức, với tư cách là đầu tàu kinh tế và chính trị ở châu Âu, cũng như có quyền quyết định lớn nhất trong việc có thông qua EVFTA hay không, không còn nghi ngờ gì nữa, đang quyết định lộ trình cần phải có của hiệp định này cũng những điều kiện then chốt mà chính quyền Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ. Thông điệp của Đức cũng là thông điệp của EU.   Đây là thông tin về lộ trình mới nhất cho EVFTA hiện ra sau khi hiệp định này bị Hội đồng châu Âu quyết định hoãn vô thời hạn vào tháng 2 năm 2019 và khiến cho hy vọng của giới chóp bu Việt Nam về một ‘EVFTA sắp được ký kết, phê chuẩn và thông qua’ mòn mỏi theo ngày tháng.   Theo lịch trình trước đây của EU, nếu EVFTA được Hội đồng châu Âu phê chuẩn và nhận dược sự ủng hộ của Ủy ban Thương mại quốc tế châu Âu (một cơ quan tham mưu rất quan trọng của Nghị viện châu Âu về các hiệp định thương mại), EVFTA sẽ được đưa ra Nghị viện châu Âu để xem xét bỏ phiếu thông qua vào tháng 5 năm 2019. Tuy nhiên, giớp chóp bu Việt Nam chỉ muốn ăn sẵn và ăn ngay đã bị một cú sốc thình lình khi nhân quyền - yếu tố mà trước đây chỉ là một điều kiện không ưu tiên trong EVFTA và bị chính quyền Việt Nam xem thường, đã trở nên chính yếu và tạo ra cú knock-out hoãn EVFTA ngày vào lúc Hà Nội sắp mở tiệc ăn mừng ‘thoát nạn’.   Từ trước và sau cuộc điều trần EVFTA - nhân quyền tại Brusells vào tháng 10 năm 2019, chính quyền Việt Nam đã và vẫn chưa có bất kỳ cải thiện nhân quyền nào dù chỉ mang tính tượng trưng hay mang tính đối phó. Thậm chí chính quyền này vẫn tiếp tục bắt bớ những người bất đồng chính kiến và đàn áp các cuộc biểu thị lòng yêu nước của người dân phản đối Trung Quốc.   Thông báo của Ngoại trưởng Đức Heiko Maas về khả năng ‘đàm phán lại’ EVFTA cũng có nghĩa là sẽ chẳng có cuộc họp nào của Hội đồng châu Âu vào tháng 3 năm 2019 để phê chuẩn hiệp định này, và càng không có cuộc họp chuyên biệt nào của Nghị viện châu Âu vào tháng 5 năm 2019 để bỏ phiếu thông qua EVFTA.   Mà phía Việt Nam sẽ phải quay lại gần như điểm xuất phát của nó: ngồi vào bàn đàm phán với EU, nhưng trước hết là với một số nước quan trọng trong khối EU, để chỉ nói về… nhân quyền.   Trong trường hợp khả quan nhất, nghĩa là chính quyền Việt Nam chịu thỏa mãn nhanh chóng những điều kiện nhân quyền của châu Âu, mới có thể diễn ra việc ký kết EVFTA và có thể cả phê chuẩn hiệp định này trước khi diễn ra bầu cử quốc hội châu Âu. Tuy nhiên do vấn đề thời gian đã quá gấp gáp với Nghị viện châu Âu nên sẽ quá khó để nghị viện này tổ chức thông qua EVFTA, mà phải chờ nghị viện mới quyết định. Khi đó, thời điểm bỏ phiếu thông qua EVFTA (nếu có bỏ phiếu) sớm nhất cũng phải vào cuối năm 2019 hoặc đầu năm 2020.
......

Không có thỏa thuận

Đó là tuyên bố dứt khoát của Tổng thống Donald Trump và cũng không có cam kết sẽ có một cuộc gặp thượng đỉnh một lần nữa trong cuộc họp báo chiều nay (28.2.219). Thất bại chăng? Không, ông Trump cho rằng đã có nhiều tiến bộ và khoảng cách 2 bên đang ngắn lại. Kim Jong Un muốn gì, Triều Tiên sẽ dỡ bỏ hoàn toàn vũ khí hạt nhân đồng thời với việc Mỹ chấm dứt lênh cấm vận. Trump nói, tôi đã chuẩn bị sẵn văn kiện, sẵn sàng để ký, tôi có thể sẽ bị phê phán vì hội nghị này không đạt được kết quả nhưng tôi thà “Làm đúng còn hơn làm nhanh”. Chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ nhưng cũng sẵn sàng bỏ đi. Nhưng bỏ đi trong tinh thần “rất nhiều ấm áp”. He he…ông già gân này đúng là một hoạt náo viên như ông ta đã cam kết trở thành khi ra tranh cử. Vấn đề là, ông Trump thuyết phục Kim rằng Triều Tiên nhờ vào vị trí địa chính trị hoàn toàn có khả năng trở thành một cường quốc kinh tế, nó không nằm ở vũ khí hạt nhân hay lệnh cấm vận (đừng mang nó ra làm điều kiện mặc cả). Ông còn nói “Chúng ta hiểu đến từng cm trên đất nước này”. Rất thật thà, khi có phóng viên hỏi về lãnh tụ 2 nước ở hai chế độ chính trị khác nhau làm sao tìm được điểm chung, Trump nói rằng về mặt cá nhân chúng tôi “thích nhau” cũng như với ông Tập Cận Bình, ông Putin, nhưng là lãnh đạo thì cũng phải hiểu chúng ta cho đi cái gì và nhận lại cái gì. Khi một phóng viên TQ hỏi liệu China có thể giúp đỡ gì trong việc thúc đẩy quá trình đẩy mạnh quan hệ Mỹ- Triều, ông Trump cười tươi : Chủ tịch Tập giúp đỡ nhiều lắm, sau khi kể một hồi chàng cow boy thả một câu “Hơn ai hết TQ không muốn có một kho vũ khí hạt nhân sát nách mình” He he…đúng tim đen, dù phụ thuộc rất nhiều vào Tàu (93% hàng nhập khẩu) nhưng người ta cũng thấy chưa bao giờ Triều Tiên quá quỵ lụy trước ông láng giềng này (ngư dân Tàu mà đánh cá trong vùng biển Bắc TT là bị bắt liền, mang tiền mà chuộc tàu với người về). Một thành công, đó là Kim đồng ý cho Mỹ đến thanh sát vũ khí hạt nhân ở “Những địa điểm mà chỉ chúng tôi biết”- Theo lời Trump. Về vấn đề nhân quyền khi ông Trump nói đến vấn đề đàn áp, các trại giam giữ, cải tạo với hàng triệu người đang bị đọa đầy thì Kim nói rằng “tôi không biết điều đó”- “Tôi nghe ông ta nói thế”- Trump. Ông Trump cũng nói chưa thể dỡ bỏ lệnh cấm vận nhưng cũng không tăng thêm các điều kiện ngặt nghèo hơn vì “người dân Bắc Hàn cũng còn phải sống”. Đúng là đàm phán kiểu Mỹ “Step by step”, không ai chơi trò này giỏi hơn người Mỹ. Nếu xét lại lịch sử, ta sẽ thấy rằng có những bước tiến lớn. Khi Triều Tiên bắt đầu làm giàu Urinaum, tổng thống Clinton đã can thiệp quyết liệt vào chuyện này, kế hoạch này của Triều Tiên đã thất bại. Nhưng đến 2 đời tổng thống là Bush và Obama, Bắc Hàn đã tiến bộ vượt bậc, đã có được tên lửa mang đầu đạn hạt nhân có thể bắn tới Mỹ, mỗi lần tên Chí Phèo này nổi cơn ăn vạ là các vị nguyên thủ lại phải xoa dịu, năn nỉ. Trump đã làm được việc mà các đời tổng thống trước không làm được. Tuyên bố sẵn sàng xóa sổ Bắc Hàn, gọi Kim là “thằng bé tên lửa” nhưng cũng sẵn sàng chìa tay. Cao thủ. Bắc Hàn được gì? Lần đầu tiên, quốc gia này, lãnh tụ này bước ra thế giới mà được quan tâm, được chú ý, được ngồi đàm phán với siêu cường số 1, điều mà cả ông nội lẫn cha của Kim Jong Un không làm được. Lần đầu tiên nhân dân Bắc Hàn nhìn thấy ánh sáng le lói cuối con đường hầm. Điều đó không đáng vui mừng và lạc quan sao? Không phải các đời Tổng thống Mỹ trước quá kém cỏi, cũng không phải Trump quá xuất sắc, mà nước Mỹ đã thay đổi, dân Mỹ đã có tư duy khác về những hệ thống chính trị quá khác mình, cách hành xử của nước Mỹ cũng khác, như Tocqueville từng viết :”Muốn thay đổi nước Mỹ là phải thay đổi cả khối nhân dân Mỹ chứ không phải thay đổi ông Tổng thống”. Trump cũng nói trong diễn văn nhậm chức “Trả lại quyền lực cho nhân dân Mỹ”./. Ps: Việt Nam học được gì nếu muốn đàm phán với Mỹ ? Mà Trump tệ thật, nước chủ nhà hết lòng như thế mà bỏ bữa ăn, không đi ăn bún chả miễn phí, kết thúc họp báo còn tuyên bố : " Bây giờ tôi phải lên máy bay trở về miền đất tươi đẹp".
......

Thủ đoạn sàng lọc đảng viên của ông Trọng

Phạm Nhật Bình| Trải qua nhiều kỳ hội nghị Trung ương, đảng CSVN đã thừa nhận và nhắc đi nhắc lại nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Nhưng gần đây, tự diễn biến nội bộ không còn là nguy cơ mà trở thành chuyện đe dọa trực tiếp cho sự tồn vong của chế độ bình nhưỡng… “Một số đảng viên có biểu hiện giao động, hoài nghi về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.” Đó là những gì được đảng đề cập công khai và cũng là mối ưu tư của các lãnh đạo cộng sản hiện nay khi họ muốn duy trì địa vị độc tôn của đảng cộng sản trước những trào lưu đòi thay đổi hướng về dân chủ của người dân Việt. Hiện nay không khó để nhìn thấy bộ máy cai trị của đảng ngày càng chìm sâu trong nạn tham nhũng, cửa quyền và sự xa lánh của quần chúng bị trị. Vì thế, xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh luôn luôn là chuyện hàng đầu của nhóm lãnh đạo. Qua chỉ thị số 28 của Ban Bí thư ban hành ngày 21/1/2019 về việc sàng lọc đảng viên cho thấy mục tiêu của họ là muốn nâng cao chất lượng đảng viên, lấy lại niềm tin… để có thể tiếp tục duy trì sự sống còn của đảng. Thế nhưng trong thời buổi cả đảng đang suy thoái trầm trọng, đại đa số đảng viên chạy theo con đường làm giàu bất chính và mâu thuẫn đấu đá nhau vì ăn chia không đồng đều, nên việc Ban Bí thư muốn sàng lọc để giữ lại những viên ngọc quý “vừa hồng vừa chuyên” không khác chuyện mò kim đáy biển. Đây là chuyện mà đảng đã ra sức làm nhưng không làm nổi và thỉnh thoảng được nhắc đi nhắc lại như phương pháp chữa trị ngoài da cho một con bệnh đã lờn thuốc. Nếu chỉ tính từ năm 1975 sau khi đảng nắm quyền trên cả nước, tình trạng số lượng đảng viên ngày càng tăng cao là điều dễ hiểu. Vì lúc ấy đảng đang trong tình trạng độc chiếm quyền lực, một mình một chợ, không chia xẻ với ai và không ai có khả năng tranh giành với mình. Như Nguyễn Phú Trọng đã từng tự hào “thực tế ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác ngoài đảng CSVN có đủ bản lĩnh…và khả năng lãnh đạo đất nước.” Có đảng tịch là có quyền lợi đi theo và quyền lợi đảng viên tương xứng với chức vụ là điều thật quyến rũ, nên vào đảng là miếng mồi béo bở đối với nhiều người. Còn lý tưởng cộng sản ngày nay là chuyện chỉ còn trên lý thuyết. Dắt tay nhau trên con đường làm giàu, đảng viên cộng sản chẳng những chia nhau quyền lực chính trị mà còn ăn chia quyền lợi vật chất để cùng tồn tại. Nhưng nguồn lợi do kinh tế thị trường mang lại ngày càng tập trung thành con số khổng lồ, làm nảy sinh ra tình trạng cạnh tranh do chia chác không đồng đều. Nhìn vào thực tế, ngày nay động cơ vào đảng không phải để đi theo một lý tưởng cao siêu nào đó hay tạo ra môi trường đóng góp tài năng của mình để xây dựng đất nước. Nó hoàn toàn nhắm vào lợi nhuận sẽ kiếm được do chia chác lẫn nhau. Móc ngoặc ăn chia là hình thức thường thấy trong hệ thống cai trị độc quyền mang danh nghĩa xã hội chủ nghĩa này. Hiện tượng đấu đá, suy thoái tư tưởng cũng bắt đầu từ đây. Với trên 4 triệu đảng viên các cấp, việc sàng lọc theo lệnh Ban Bí thư cũng có nghĩa là loại ra những thành phần không cùng phe nhóm đang cầm quyền và bị gán cho là suy thoái, tham nhũng, biến chất. Cuối cùng chỉ giữ lại những cục sạn lớn cũng là những tay tham nhũng gộc nhưng cùng phe nhóm. Trước khi bước vào nhiệm kỳ 13 (2021-2026), vấn đề nhân sự được Nguyễn Phú Trọng và toàn ban ráo riết chuẩn bị. Mục đích để củng cố thế lực và giữ vững được vây cánh của mình, bảo đảm cho sự độc chiếm diễn đàn trung ương. Vì thế đích thân Nguyễn Phú Trọng nắm luôn 2 Tiểu ban văn kiện và Tiểu ban nhân sự là tiểu ban quan trọng nhất để điều động, giới thiệu cán bộ “chiến lược” vào bộ máy đảng. Như vậy từ việc “dựng lò đốt tham nhũng” cho đến chỉ thị “sàng lọc đảng viên” gần đây, được coi như màn cuối cùng mà ông Trọng và phe cánh muốn loại hết đàn em Nguyễn Tấn Dũng còn rơi rớt sau đại hội 12. Ngày 23/2 tức một tháng sau khi Trần Quốc Vượng ký ban hành chỉ thị 28, vụ bắt giữ Trương Minh Tuấn và Nguyễn Bắc Son như phát pháo lệnh mở màn cho chiến dịch sàng lọc đảng viên. Cho dù được nói là cánh tay đắc lực của Nguyễn Phú Trọng trong đại hội 12, lần này Trọng không thể không hy sinh Trương Minh Tuấn để hoá giải những luồng chỉ trích bất lợi cho mình từ trong nội bộ. Mặt khác cũng có thể coi đây như lời cảnh báo rõ ràng nhất trực tiếp gởi đến phe nhóm Lê Thanh Hải đang ngồi trên đống lửa trong vụ án Thủ Thiêm. Thông điệp mang ý nghĩa là đảng viên ở bất cứ cấp nào cũng không có thể đứng ngoài cuộc sàng lọc lần này. Nói cách khác, sàng lọc đảng viên chỉ là một cuộc thanh trừng trong nội bộ đảng mà thôi. Nhưng nếu làm không khéo chỉ e nó biến thành hai phe đấu đá một mất một còn, trong khi vận may của đảng chẳng còn bao nhiêu thời gian. https://viettan.org/thu-doan-sang-loc-dang-vien-cua-ong-trong/  
......

Tự hào nên dành cho dịp khác

Nguyễn Anh Tuấn - RFA | Không có gì bất ngờ trước niềm phấn khích của nhiều người Việt Nam với Hội nghị Thượng định Trump-Kim được tổ chức ở Hà Nội lần này vì đã lâu rồi Việt Nam mới có chút gì đó đóng góp để giải quyết những vấn đề quốc tế. Cảm xúc này của công chúng đáng được trân trọng bởi lẽ sâu xa nó phản ánh khát vọng của một dân tộc muốn thoát dần ra khỏi thân phận tầm gửi luôn dựa vào sự giúp đỡ của quốc tế để vươn lên có một địa vị nào đó trên trường quốc tế và đóng góp cho quốc tế. Hân hoan một chút như thế cũng tốt, nhưng dĩ nhiên không nên để cảm xúc dẫn chúng ta đi xa quá. Nhất là khi nhìn vào lý do mà Việt Nam được chọn đăng cai hội nghị lần này. Bên cạnh việc thuận tiện về hậu cần đi lại, còn có một hậu ý chính trị mà cả đôi bên, Hoa Kỳ và Triều Tiên đều không hề giấu giếm. Với Triều Tiên, Việt Nam mặc dù đã cải tổ kinh tế song đảng Cộng Sản vẫn giữ được địa vị thống lĩnh xã hội. Với Mỹ và cộng đồng quốc tế, việc Bắc Hàn trở thành một Việt Nam thứ hai không phải là lựa chọn tồi, nếu không muốn nói là khá lý tưởng, bởi thế giới bớt được một nỗi lo hạt nhân, bù lại bằng việc cho phép Triều Tiên hội nhập, mở mang kinh tế. Tóm lại Việt Nam được chọn như một tấm gương cho Bắc Hàn noi theo. Nhưng không phải lúc nào được chọn làm gương cũng đáng tự hào. Câu hỏi đặt ra là vì sao Việt Nam không được chọn làm gương cho các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, hay ngay cả là Cambodia, Myanmar, mà chỉ là cho Bắc Hàn – một thảm họa cả về kinh tế lẫn nhân quyền? Phải chăng Bắc Hàn như một đứa bé ngỗ nghịch vừa quậy nhà mình vừa phá nhà hàng xóm khiến cộng đồng quốc tế không mong gì hơn là đứa bé ấy thành một Việt Nam thứ hai, vẫn còn ngỗ nghịch nhưng khi được cho kẹo thì chỉ quậy nhà mình thôi để hàng xóm làng giếng được yên thân? Mà nếu thế thì liệu có gì đáng tự hào? Chỉ khi nào kinh tế phát triển vượt bậc đi kèm với pháp trị được củng cố, dân chủ được thúc đẩy, nhân quyền được tôn trọng, như những gì được chứng kiến ở Nhật Bản (Sự Thần kỳ Nhật Bản), Hàn Quốc (Kỳ tích sông Hán), hay Đài Loan (Kỳ tích Đài Loan) thì chúng ta mới có nhiều lý do hơn để tự hào. Nguyễn Anh Tuấn
......

Tự do hoạt động hàng hải ở Đông Á liệu có đủ không?

Nguyên tựa: Are Freedom of Navigation Operations in East Asia Enough? The National Interest ngày 23/02/2019   Tác giả bài báo:  James Holmes Người dịch: Lam Du - Dân Quyền (The National Interest: James Holmes là chủ tịch nhiệm khoa Chiến lược Hàng hải tại Học viện Hải quân mang tên J. C. Wylie. Các quan điểm được trình bày ở đây là của riêng tác giả.) Câu hỏi đặt ra là một câu hỏi vĩnh cửu đối với những người thi hành chiến lược hàng hải ở châu Á: liệu những hoạt động tự do hàng hải có là đủ hay không? Liệu những chuyến hải hành định kỳ qua các vùng biển nơi một quốc gia ven biển tuyên bố các quyền và đặc quyền vượt ra ngoài những gì đã được quy định bởi một hiệp ước liệu có đủ để đảm bảo tự do hàng hải hay không?   Câu trả lời: các hoạt động tự do hàng hải là cần thiết nhưng không đủ để bảo đảm cho “quyền tự do biển” (“freedom of the sea”), bởi vì đó là quyền tự do gần như vô hạn để sử dụng biển cho mục đích quân sự và thương mại, và cho hệ thống tự do thương mại và buôn bán trên biển.   Các hoạt động tự do hàng hải là cần thiết LÀ VÌ những lý do pháp lý. Như đô đốc hải quân Hoàng gia đã nghỉ hưu, ông Chris Parry, vẫn thường hay nói, các quyền tự do hàng hải là một cái gì đó giống như “quyền đường đi” (something like the “right of way”)  trong luật pháp phổ biến của nước Anh. Chúng (các quyền tự do hàng hải) vẫn còn tồn tại chừng nào mà những người đi biển vẫn còn sử dụng chúng. Quyền đường đi cho phép các công dân đặt chân lên, đi qua các tài sản, sở hữu tư nhân dọc theo những con đường nhất định mà được chứng minh rằng mọi người có thực sự hành dụng các quyền đó (to traipse across private property along certain pathways provided people actually exercise that right). Nếu không ai hành dụng, quyền đường đi sẽ mất dần theo thời gian. Quyền sở hữu lại trở về với chủ sở hữu đất đai một cách đầy đủ.   Hãy hành dụng các quyền ấy hoặc để mất chúng.   Một cách tương tự, nếu một quốc gia ven biển như Trung Quốc hay Nga khẳng định các yêu sách quá đáng đối với quyền tài phán đối với các vùng biển ngoài khơi và không ai thách thức các yêu sách đó, thì tuyên bố của họ - cho dù là những tuyên bố bất hợp pháp – cũng có cách để trở thành một tập quán quốc tế theo thời gian (and no one challenges those claims, its claims - even though unlawful - have a way of calcifying into international custom over time). Luật quốc tế là một hệ thống các luật lệ theo phong tục, tập quán cũng như nó là một hệ thống các hiệp ước và thỏa thuận được thể hiện bằng văn bản. Nếu các hạm đội hải quân và các hạm đội thương thuyền không thực hiện các quyền của họ theo luật biển một cách đầy đủ nhất, thì việc chấp hành các yêu cầu của các quốc gia ven biển đó có thể bắt đầu bị nhìn nhận giống như sự đồng ý với các yêu cầu đó (compliance with the coastal state’s demands could begin to look like consent to those demands). Sự chấp hành, chấp nhận đó (Acquiescence) có thể trở thành một phong tục thống trị và, nếu như vậy, thì tự do biển sẽ bị hạn chế, bị thu hẹp lại trong những vùng biển đang có vấn đề, đang bị tranh chấp (and if so freedom of the sea will have been abridged in the waters at issue).   Do đó, cần phải thách thức các tuyên bố, các yêu sách vượt quá các chuẩn mực luật pháp một cách không chậm trễ và thường xuyên (Hence the necessity to defy extralegal claims early and often = TỨC LÀ CẦN PHẢI THÁCH THỨC MỘT CÁCH KHÔNG CHẬM TRỄ VÀ THƯỜNG XUYÊN CÁC TUYÊN BỐ, CÁC YÊU SÁCH CỦA TRUNG CỘNG VỐN ĐÃ THỰC SỰ VƯỢT QUÁ CÁC CHUẨN MỰC LUẬT PHÁP– người dịch).   Các hoạt động hải hành tự do trên biển là không đủ CÒN VÌ các lý do quân sự và ngoại giao. Đó là các “hoạt động đến và đi” trong khi đó một thế giới rộng lớn của những người đi biển cần phải ĐƯỢC ĐI QUA những vùng biển tranh chấp và ĐƯỢC DỪNG LẠI Ở ĐÓ để đưa ra tuyên bố mà sẽ khuyếch trương tự do biển (should go to contested waters and stay in order to make a statement that resonates regarding freedom of the sea).   Hãy suy nghĩ về điều này. Một chiến hạm Mỹ đã hoàn thành điều gì khi đi ngang qua một thực thể đá ở Biển Đông (biển Nam Trung Hoa) do Trung Quốc kiểm soát rồi sau đó chiến hạm Mỹ này rời đi (when it passes by a Chinese-held rock in the South China Sea)?. Năm 2016, một tòa án quốc tế đã phán quyết rằng không có một hòn đảo nào ở Trường Sa hay Hoàng Sa là có đủ điều kiện để được là một hòn đảo theo đúng nghĩa pháp lý. Chiến hạm Mỹ đã thực hiện quyền qua lại được quy định rõ trong luật biển. ĐÓ LÀ MỘT ĐIỀU RẤT TỐT.   Nhưng rất có thể có một tàu chiến Trung Quốc sẽ theo sát nó, sẽ ra lệnh cho nó phải rời đi, và có thể đã quấy rối nó trong quá trình di chuyển. Thực tế là việc các tàu Hải quân Hoa Kỳ thực hiện các chuyến tuần tra “đến và đi” đã khiến cho các trình thuật ngoại giao của Bắc Kinh trở nên đáng tin hơn (đối với số thính giả và khán giả thuộc loại con vịt = lends credence to a diplomatic narrative issuing from Beijing – người dịch). (Theo những gì mà người phát ngôn bộ ngoại giao T+ vẫn thường hay nói - người dịch) thì câu chuyện diễn ra như thế này: Người Mỹ đã xâm nhập vào lãnh hải của chúng tôi (TQ) và chúng tôi (TQ) đã xua đuổi chúng (Americans broke into our territorial waters and we chased them off ). Các phát ngôn viên của (bộ ngoại giao) Trung Quốc đã tạo tác một câu chuyện thuộc loại giả kim thuật của ngành ngoại giao (Chinese spokesmen essay a sort of diplomatic alchemy). Họ cố gắng miêu tả họ như là những người đang nhân danh tự do biển để nhanh chóng thoát ra khỏi khu vực chiến sự (They try to portray demonstrating on behalf of freedom of the sea into cutting and running from an embattled zone). Nếu một lượng lớn khán giả có ảnh hưởng tin theo những trình thuật loại này của Trung Quốc, thì nó (những trình thuật loại này) sẽ trở thành hiện thực trong tâm trí của họ cho đến khi và trừ khi được gỡ bỏ.   Làm thế nào để giải ảo, để bóc trần những trình thuật thuộc loại này của Trung Quốc? Thay vì xuất hiện thoáng qua, thỉnh thoảng, những người bạn của tự do hàng hải nên (mà chính xác là CẦN PHẢI – người dịch) xuất hiện ở vùng biển tranh chấp như Biển Đông (biển Nam Trung Hoa), và họ nên ở lại. THƯỜNG XUYÊN cần phải được là khẩu hiệu của họ (Constancy should be their watchword).   May mắn thay, Washington và các thủ đô có tư duy tương tự dường như đã làm sáng tỏ một chiến lược như vậy. Ông chủ của Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương (của Hoa Kỳ), Đô đốc Phil Davidson, gần đây đã nói với Ủy ban Quân lực Thượng viện (Hoa Kỳ) rằng các đồng minh sẽ tham gia các hoạt động triển khai tự do hàng hải trong tương lai. Càng nhiều (tầu thuyền) mang cờ các nước, càng nhiều tầu thuyền trong những không gian, những vùng biển đang tranh chấp thì càng tốt (The more flags fly in contested expanses the better).   Đó là lý do tại sao mà những tin tức gần đây từ thủ đô các đồng minh lại ấm lòng đến thế (out of allied capitals is so heartening). Chẳng hạn, Tokyo đã điều động một trong số các “khu trục hạm trực thăng”, thực chất là các hàng không mẫu hạm hạng nhẹ, niềm tự hào của Lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản, đến phối hợp hoạt động với các đơn vị Hải quân Hoa Kỳ ở Biển Đông. Bằng việc làm đó, giới lãnh đạo chính trị của Nhật Bản đã tuyên bố rằng họ sẽ không chịu áp lực của Trung Quốc ở bất cứ nơi nào xung quanh vùng lòng chảo châu Á.   Các nước châu Âu cũng đã nhập cuộc. Vào hồi mùa thu năm ngoái, London đã điều phái một tàu vận tải đổ bộ của Hải quân Hoàng gia Anh tới khu vực này để hiện diện gần các thực thể đá (tức là các đảo nhân tạo, và không hiểu tại làm sao mà Trung + lại có thể làm được điều này nhỉ - người dịch) của Trung Quốc. Và tháng trước, một tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia Anh đã tham gia cùng các tàu Hải quân Hoa Kỳ ở Đông Nam Á trong những hoạt động phối hợp kéo dài nhiều ngày. Vương quốc Anh thậm chí còn có ý định mở một căn cứ quân sự ở Biển Đông, đánh dấu sự  trở lại của họ đối với các tuyến đường biển nằm ở “phía đông kênh đào Suez” nhiều thập kỷ sau thời kỳ giải thuộc địa (punctuating its return to seaways “east of Suez” decades after decolonization). Một căn cứ sẽ neo giữ sự hiện diện của Anh và các đồng minh trong khu vực, trợ giúp các lực lượng hải quân đến và ở lại đó (helping naval forces go there and remain).   Các hàng không mẫu hạm của các quốc gia châu Âu cũng sẽ sớm tham gia các hoạt động hỗn hợp này. Paris đã thông báo rằng hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân Charles de Gaulle, vừa mới hoàn thành công việc đại tu giữa đời của nó (fresh from its midlife overhaul), sẽ có chuyến hải hành đến Biển Đông trong năm nay. Siêu hàng không mẫu hạm đầu tiên của Anh, Nữ hoàng Elizabeth, sẽ đến tiếp theo trong năm nay hoặc năm sau và một phi đoàn máy bay của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ gồm các phi cơ chiến đấu tàng hình F-35 sẽ gia nhập lực lượng không quân của nó. Luân Đôn đã cho biết ý tưởng về việc xây dựng một lực lượng hàng không mẫu hạm Anh-Pháp để giúp các quốc gia châu Âu duy trì sự hiện diện liên tục và đáng nể trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Paris vẫn chưa hoàn toàn hiện diện ở đó, nói theo ngôn ngữ chính trị, nhưng thậm chí ngay cả chỉ riêng một hành động bàn thảo về việc tập hợp các nguồn lực hải quân cũng đã tạo ra được một sự tiến bộ.   Và nếu các đồng minh duy trì sự hiện diện hải quân tại hiện trường trong một thời gian dài thì sao? Bắc Kinh sẽ thấy ngày càng khó khăn để thuyết phục người khác rằng hải quân của họ đã xua đuổi những con tàu không bao giờ rời đi. Dụ ngôn về sức mạnh Trung Quốc và sự yếu kém của đồng minh sẽ không qua được bài kiểm tra tức cười này.   Để kết luận, xin chuyển sang lý thuyết chiến lược. Đô đốc J. C. Wylie (1911 - 1993) mô tả việc kiểm soát một nơi nào đó hoặc một cái gì đó là mục đích của chiến lược quân sự, và ông mô tả “người đàn ông tại hiện trường với một khẩu súng “ – một người lính – như là người trọng tài tối cao của việc kiểm soát ấy. Người lính xuất hiện tại hiện trường và ở lại đó, vượt qua sự phản kháng của khu vực ấy. Người lính ấy là hiện thân của sự kiểm soát lãnh thổ (He embodies control of dry land). Người lính ấy là người kiểm soát, Wylie nói.   Áp dụng nhanh logic của Wylie vào với các vấn đề hải quân, lực lượng hải quân tại hiện trường nào mà tự hào về hỏa lực mạnh mẽ thì đều là đối trọng hải quân đối với người lính. Nếu họ gia tăng sự hiện diện thường trực, thì các lực lượng không chỉ mang cờ Mỹ mà còn mang cờ các nước châu Á và châu Âu đều có thể kiểm định những nỗ lực của Trung Quốc nhằm áp đặt quyền kiểm soát cũng như kiểm định sự tự tin của nó. Sự xâm phạm ngày càng gia tăng của nó (TQ) đối với quyền tự do biển có thể bị chặn đứng vì những cuộc biểu dương lực lượng ở tầm mức, quy mô thế giới của những người đi biển.   Thành công trong cuộc đối thoại bằng vũ khí này phải chăng đã được ấn định trước? Khó khăn đấy. Kết quả của sự cạnh tranh chiến lược không bao giờ (đơn giản) như vậy. Nhưng một sự biểu dương sức mạnh và quyết tâm đa quốc gia, bền bỉ có thể chứng minh là đủ để hạn chế các thách thức từ Trung Quốc.                                  THE END 
......

Đã đến lúc Mỹ lãnh đạo một liên minh bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông?

Trong suốt hai năm cầm quyền vừa qua, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã lớn tiếng khinh bỉ hầu hết các hình thức của chủ nghĩa đa phương. Tuy nhiên, khi nói đến hai vấn đề hàng hải cấp bách ở Đông Á, chính quyền của ông nhận ra giá trị của bạn bè. Trước hết là vấn đề ngăn chặn việc vận chuyển nhiên liệu bất hợp pháp cho các tàu chở dầu của Triều Tiên ở biển Hoa Đông, một chiến thuật mà Bình Nhưỡng sử dụng nhằm lách các lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Để đập tan nạn buôn lậu, Mỹ và Nhật đã tập hợp được một liên minh các quốc gia nhằm xác định và báo cáo về những con tàu tham gia vào việc chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia một cách bất hợp pháp. Sau đó là Biển Đông, nơi Bắc Kinh tiếp tục gia tăng lực lượng quân sự và đã tăng gấp đôi các yêu sách về hàng hải trái với luật pháp quốc tế. Các lực lượng hải quân bên trong và bên ngoài khu vực đã phản ứng với hành xử hung hăng của Trung Quốc bằng cách tiến hành nhiều hoạt động hơn, trong đó có tập trận, thu thập thông tin tình báo và đi qua các vùng biển đang tranh chấp nhằm duy trì tự do đi lại trên không và trên biển, một công tác mà các quan chức Hoa Kỳ ủng hộ. Hải quân Mỹ và Nhật có thể đóng vai trò đặc biệt ở các vùng biển gần Trung Quốc. Ảnh: Michael Yon Thật không may là người ta chỉ thấy vai trò lãnh đạo của Mỹ tại một trong hai khu vực này mà thôi. Washington đã và đang là động lực phía sau những nỗ lực đa phương nhằm đập tan hành động buôn lậu của Triều Tiên nhưng trong việc phối hợp với các quốc gia có cùng chí hướng nhằm bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông thì hoạt động của Mỹ kém hiệu quả hơn hẳn. Muốn đẩy lùi những đòi hỏi xét lại của Trung Quốc thì cần phải có các nỗ lực quốc tế mà Washington đang ở vị thế lý tưởng nhất. Muốn tìm ra cách làm tốt nhất, Washington có thể lấy ngay một phần kịch bản của chính mình ở biển Hoa Đông là đủ. Liên minh thành công Tháng 10/2017, Mỹ đã bắt đầu các chuyến bay giám sát trên biển Hoa Đông nhằm theo dõi và ngăn chặn hoạt động của những con tàu bị nghi ngờ vi phạm lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên. Đầu năm 2018, chính quyền Trump đã quyết định khuếch trương những nỗ lực đó bằng cách lôi kéo thêm nhiều quốc gia tham gia theo dõi những con tàu được cho là đang chở hàng cấm. Tháng 02/2018, Asahi Shimbun, một tờ báo của Nhật, viết rằng Mỹ và Nhật đã lập kế hoạch tổ chức một hội nghị quốc tế nhằm thành lập liên minh này. Úc, Pháp, Singapore, Hàn Quốc và Vương quốc Anh là những nước được mời tham gia. Từ tháng 05/2018, Úc, Canada, New Zealand và Vương quốc Anh đã cho các máy bay giám sát trực chiến tại căn cứ không quân của quân đội Mỹ ở Kadena, Okinawa, để tiến hành những cuộc tuần tra thường xuyên trên biển Hoa Đông và biển Nhật Bản. Một tàu chiến của Anh cũng được đưa tới Nhật Bản nhằm hỗ trợ nỗ lực này. Máy bay giám sát liên tục thu thập thông tin về những con tàu bị nghi ngờ vi phạm lệnh trừng phạt Triều Tiên. Những máy bay này đã chụp được rất nhiều ảnh tàu thuyền tham gia vận chuyển dầu bất hợp pháp từ tàu này sang tàu kia và báo cáo với Liên Hiệp Quốc. Điều này giúp buộc những bên tham gia buôn lậu phải giải trình bằng cách đưa những con tàu và công ty liên quan vào danh sách đen và gây áp lực lên các quốc gia thành viên, đặc biệt là Trung Quốc và Nga, để có biện pháp chế tài những người vi phạm. Tháng 9, liên minh này mở rộng thêm với việc thành lập Trung tâm Điều phối Biện pháp thực thi đặt trên tàu USS Blue Ridge. Trên con tàu này có hơn 50 nhân viên người Úc, Canada, Pháp, Nhật, New Zealand, Hàn Quốc và Vương quốc Anh. Người ta nói rằng, một trong những mục đích của trung tâm là tạo điều kiện cho việc liên lạc giữa các con tàu của liên minh với những con tàu bị nghi là buôn lậu. Tháng 11, Đô đốc Phil Davidson, tư lệnh Mỹ trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, nói rằng Washington đã dành riêng hai tàu cho việc tuần tra này và tăng số lượng các chuyến bay giám sát thêm 50%. Cho đến nay, những nỗ lực của liên minh cho kết quả không rõ ràng. Tháng 12, một quan chức quốc phòng Mỹ nói với kênh NBC rằng kể từ tháng 10/2017, những kẻ buôn lậu đã bỏ, không chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia 30 lần vì bị các tàu tuần tra theo dõi. […] Hoạt động buôn lậu đã chuyển ra khỏi biển Hoa Đông và biển Nhật Bản để vào vùng lãnh hải lân bang, ví dụ như Trung Quốc, nhằm tránh bị phát hiện. Kết quả là việc chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia đang gia tăng. Trong tương lai, chúng ta sẽ được chứng kiến liên minh này có hiệu quả như thế nào trong việc ngăn chặn các vụ vi phạm lệnh trừng phạt Triều Tiên, nhưng nỗ lực đa phương đầy tham vọng đã thu được thành công không thể chối cãi trong việc gia tăng áp lực lên những kẻ vi phạm lệnh trừng phạt và gia tăng áp lực lên các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đang nhắm mắt làm ngơ trước các hoạt động của những kẻ vi phạm. Phản công Bắc Kinh Nếu liên minh chống buôn lậu ở biển Hoa Đông phần lớn là do Washington dàn xếp, thì sự tham gia ngày càng tăng của các bên thứ ba vào các hoạt động ở Biển Đông nhằm phản công lại Bắc Kinh đã và đang gắn bó hơn. Trong mấy năm qua, Mỹ đã lặng lẽ kêu gọi các quốc gia có cùng chí hướng tăng cường sự hiện diện của mình ở Biển Đông nhằm giúp khẳng định quyền tự do hàng hải, bất chấp các yêu sách quá mức của Trung Quốc. Nhưng, Washington vẫn chưa tìm cách xây dựng một liên minh chính thức để thực hiện các mục tiêu này, mặc cho các quốc gia khác “đơn thương độc mã” khẳng định quyền của mình. Những lời kêu gọi của Mỹ có thể góp phần thúc đẩy các quốc gia khác tăng cường hoạt động ở Biển Đông trong năm nay, nhưng quá trình quân sự hóa do Trung Quốc tiến hành trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, đặc biệt là việc triển khai các tên lửa hành trình đất đối không và tên lửa chống hạm trên các đảo này vào tháng 5 dường như có vai trò to lớn hơn nhiều. Quân sự hóa và triển khai tên lửa làm gia tăng lo ngại rằng Bắc Kinh đang thắt chặt kiểm soát trên biển và trên không ở Biển Đông, có thể làm suy yếu các nguyên tắc pháp lý quan trọng vốn là nền tảng của trật tự hàng hải toàn cầu, ngăn chặn, không cho các đối tác ở Đông Nam Á tiếp cận các quyền và nguồn tài nguyên của họ, và cuối cùng, gây ra bất ổn định và gây xung đột tiềm tàng trong khu vực. Chính điều này đã làm cho các quốc gia khác khẳng định quyền của mình và đưa ra thông điệp rằng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến việc duy trì tự do hàng hải. Năm 2018, Úc đã gia tăng tần suất các cuộc tuần tra dài ngày ở Biển Đông. Ngày 28/11, Phó đô đốc Michael Noonan, đứng đầu Hải quân Hoàng gia Úc, nói với cử tọa ở Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (International Institute for Strategic Studies) rằng hải quân nước ông “thường xuyên đi qua Trường Sa và eo biển Đài Loan”. Ông còn nói rằng chính sách của Úc không phải là đi qua khu vực trong vùng 12 hải lý xung quanh những hòn đảo đang tranh chấp, như Mỹ vẫn thường xuyên làm vì tự do hoạt động hàng hải, nhưng nước này ủng hộ quyền làm như thế của các nước khác. Mỹ thực hiện quyền tự do hoạt động hàng hải trên toàn thế giới nhằm thách thức các yêu sách hàng hải quá đáng hoặc khẳng định rằng mình không tuân thủ những hạn chế mà các quốc gia khác áp đặt lên các quyền tự do đi lại trên biển đã được bảo hộ trên bình diện quốc tế. Tàu chiến của Mỹ thực hiện một loạt hoạt động như thế ở Biển Đông, trong đó có những chuyến đi vào vùng biển nằm trong phạm vi 12 hải lý của những hòn đảo do Trung Quốc chiếm giữ. Trong một số trường hợp, các hoạt động này là nhằm khẳng định rằng Mỹ không công nhận lãnh hải 12 hải lý quanh những hòn đảo nhân tạo vốn vẫn chìm xuống dưới mặt nước mỗi khi thủy triều lên; ở những nơi khác, Mỹ thách thức đòi hỏi phải thông báo trước cho Bắc Kinh thì tàu chiến nước ngoài mới có thể đi qua vùng lãnh hải này. Tháng 6, một nhóm đặc nhiệm hải quân Pháp đã cùng với máy bay trực thăng và tàu của Anh đi qua Biển Đông. Họ không đi vào vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo đang tranh chấp hoặc nhắm vào bất kỳ yêu sách cụ thể nào của Trung Quốc, nhưng, cũng tương tự như các cuộc tuần tra của Úc, sự hiện diện của họ là một thông điệp. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, Florence Parly, nói tại Đối thoại Shangri-La (Shangri-La Dialogue) trong năm nay [2018] rằng các nhà quan sát Đức cũng có mặt trên một trong những con tàu này. Hai tháng sau, Vương quốc Anh đã tiến thêm một bước khi con tàu HMS Albion đi ngang qua quần đảo Hoàng Sa nhằm thách thức yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc đối với các đường cơ sở xung quanh những hòn đảo này. Bằng cách vẽ các đường cơ sở bất chấp các nguyên tắc pháp lý quốc tế, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng vùng biển nằm trong các đường cơ sở đó là vùng nội thủy và tàu nước ngoài không được đi vào. Chuyến đi của Albion là thách thức đòi hỏi đó và là lần đầu tiên hải quân nước khác chứ không phải Mỹ đã công khai tham gia vào hoạt động bảo vệ tự do hàng hải. Ngày 31/8, khi Albion đi qua khu vực này cũng là lúc hải quân Mỹ và lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản tham gia cuộc tập trận song phương ở Biển Đông. Sau đó, tháng 9, Nhật đã đưa một tàu ngầm cùng với ba tàu khu trục của mình tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản công khai thừa nhận tiến hành tập trận tàu ngầm ở vùng biển này. Hoạt động hải quân gia tăng thể hiện mối lo ngại đang lan rộng trước những nỗ lực của Trung Quốc nhằm viết lại các quy tắc của luật tập quán quốc tế ở Biển Đông. Không có quốc gia nào có chương trình tương đương với Chương trình Tự do Hàng hải của Mỹ, nhưng, thông qua các cuộc tập trận này, tất cả hải quân nước ngoài hoạt động ở Biển Đông đều khẳng định quyền tự do hàng hải, ngay cả khi đó không phải là mục đích duy nhất của họ. Rốt cuộc, Trung Quốc phản đối bất kỳ hoạt động quân sự nước ngoài nào trong vùng biển mà họ đòi chủ quyền mà không thông báo trước, và các lực lượng của Trung Quốc thường cảnh báo các tàu và máy bay quân sự nước ngoài rằng phải ra khỏi “những khu vực cảnh báo về quân sự” được định nghĩa một cách tùy tiện hoặc chấm dứt “đe dọa an ninh” các cơ sở của Trung Quốc khi họ đi qua không phận quốc tế và vùng biển lân cận. Bây giờ là lúc nắm quyền lãnh đạo Việc nhiều nước sẵn sàng khẳng định các quyền ở Biển Đông là cơ hội nắm quyền lãnh đạo, nhưng nước Mỹ chưa làm. Đòi hỏi của Bắc Kinh đe dọa một loạt các quyền tự do trên biển, chứ không chỉ đe dọa quyền tự do đi lại của tàu chiến nước ngoài. Những đòi hỏi này bao gồm độc quyền của các quốc gia ven biển Đông Nam Á trong việc đánh bắt cá, khai thác tài nguyên dưới đáy biển, thực thi luật pháp và các quyền tài phán khác trong vùng biển của mình. Tự do hoạt động hàng hải, ngay cả khi được thực hiện bởi một liên minh các quốc gia khác nhau, là không đủ để bảo vệ luật pháp quốc tế và đẩy lùi quan điểm xét lại của Trung Quốc. Để bắt đầu làm việc này, Mỹ phải nắm vai trò lãnh đạo đa phương tương tự như họ đã làm ở biển Hoa Đông và đưa các nước cùng chí hướng như Úc, Pháp, Nhật và Vương quốc Anh tham gia các cuộc tập trận chung và các hoạt động xây dựng liên minh khác cùng với các đối tác ở Đông Nam Á, đặc biệt là Philippines và Việt Nam. Làm như thế là tín hiệu rõ ràng rằng các nước này, tương tự như Mỹ, quan tâm đến việc bảo vệ không chỉ tự do hàng hải của riêng mình mà còn quan tâm tới quyền của các nước cũng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Công cuộc hợp tác như thế có thể dẫn đến việc thành lập một lực lượng đặc nhiệm chung, đặt trụ sở tại một trong các quốc gia Đông Nam Á nhằm ngăn chặn thái độ hung hăng của Trung Quốc hoặc ngăn chặn những yêu sách mới ở Biển Đông. Về mặt ngoại giao, Mỹ nên lôi kéo những nước này và những nước khác như Canada và các đối tác châu Âu để đưa Biển Đông trở lại vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự quốc tế. Tốt nhất là bắt đầu bằng ngôn từ mạnh mẽ về Biển Đông trong tuyên bố hàng năm của các nhà lãnh đạo G-7, mạnh mẽ hơn hẳn, chứ không chỉ đơn thuần là lo lắng về tự do hàng hải và ủng hộ các tiến trình ngoại giao được nêu trong Thông cáo của các Bộ trưởng Ngoại giao G-7 hồi tháng 04/2018. Ngôn từ cần thể hiện rõ rằng các nước G-7 cam kết duy trì mọi hoạt động hợp pháp trên biển, trong đó có việc các quốc gia Đông Nam Á thực hiện quyền của họ đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước mình. Nỗ lực ngoại giao quốc tế có phối hợp sẽ gia tăng nhận thức về những hành động ăn hiếp của Trung Quốc ở Biển Đông và làm suy yếu hình ảnh Bắc Kinh, cho thấy Bắc Kinh không phải là nhà lãnh đạo toàn cầu có trách nhiệm và đối tác hấp dẫn đối với các nước khác; tức là làm cho việc vi phạm thường xuyên các luật lệ phải trả giá đắt hơn. Một liên minh hiệu quả về Biển Đông sẽ là liên minh giúp bảo vệ các quyền mà các quốc gia Đông Nam Á phải được hưởng trong vùng biển của mình, đồng thời làm cho Bắc Kinh phải có những thỏa hiệp lâu dài với các lân bang hoặc trả giá đắt về ngoại giao và kinh tế. Nhưng để liên minh đó hoạt động hiệu quả thì Washington phải có những hoạt động sáng tạo và tham vọng ở Biển Đông như họ đang làm ở Biển Hoa Đông. Gregory Poling và Bonnie S. Glaser Phạm Nguyên Trường dịch Nguyên bản Anh ngữ: How the U.S. Can Step Up in the South China Sea, đăng trên tạp chí Foreign Affairs, 16/1/2019 Nguồn: Blog Phạm Nguyên Trường  
......

Hãy cho Trump một cơ hội về Bắc Hàn

Với mỗi ngày trôi qua, thế giới lại càng gần hơn với hội nghị thượng đỉnh tại Hà Nội, Việt Nam, điều này sẽ xác định xem liệu tám tháng ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Bắc Triều Tiên có thành công hay không. Nếu cuộc gặp Donald Trump-Kim Jong-un đầu tiên ở Singapore vào tháng 6 năm ngoái là một nỗ lực phá băng và thiết lập mối quan hệ cá nhân, thì phần tiếp theo tại Việt Nam tuần này sẽ là cơ hội cho cả hai người sử dụng mối quan hệ mới của họ để thực hiện một điều kỳ diệu: một tình trạng hòa bình trên bán đảo Triều Tiên và phi hạt nhân hóa của Bắc Hàn. Đó là một phiên bản lạc quan. Còn phiên bản bi quan – và phổ biến hơn nhiều của câu chuyện là hội nghị thượng đỉnh Hà Nội sẽ hoàn toàn lãng phí thời gian, đầy những bức ảnh vô nghĩa, cử chỉ trống rỗng và những cuộc chuyện trò màu hồng không có chất thực tế kèm theo. Washington, DC, một thị trấn đầy ắp những con diều hâu đối với Bắc Hàn từ các tổ chức, cả tả và hữu, đều cho rằng cuộc gặp đã gần như một thất bại. Sự khôn ngoan thông thường sẽ diễn tiến như thế này: Kim Jong-un không phải là một cái gì khác hơn là một sự lặp lại có hiểu biết về công nghệ của người cha và ông nội của ông ấy. Kim Jong-un là một kẻ xảo quyệt và đầy mánh khóe và đã quyết định sử dụng sức hấp dẫn của hoạt động ngoại giao trong 12 tháng qua như một công cụ để xoa dịu các yêu cầu của Washington về việc phi hạt nhân hóa hoàn toàn, ngay lập tức và kiểm chứng được mà không thực sự có ý định từ bỏ các khả năng đó. Trump, với mong muốn thuyết phục mọi người bằng một thành công của chính sách đối ngoại để đánh lạc hướng khỏi các vấn đề pháp lý và chính trị tại quê nhà, sẽ đảo xáo, sẽ chơi xấu khi ông ta ngồi vào bàn với nhà lãnh đạo Bắc Hàn. Và hội nghị thượng đỉnh Việt Nam, giống như hội nghị ở Singapore, tất cả sẽ chỉ là những hiện tượng quang học và sẽ không có một kết quả nào. Ngay cả đến các trợ lý an ninh quốc gia của chính Trump cũng nghi ngờ khả năng đàm phán của tổng thống. Cố vấn an ninh quốc gia John Bolton chưa bao giờ ủng hộ các cuộc đàm phán với Triều Tiên và thường nhìn nhận bất kỳ một sự nhượng bộ nào từ phía Hoa Kỳ đều là một sự cầu hòa giống như của Neville Chamberlain (Neville Chamberlain, 1869 – 1940, Thủ tướng Anh từ 1937 đến 1940, được biết đến với chính sách ngoại giao cầu hòa với Đức quốc xã – người dịch). Ngoại trưởng Mike Pompeo, người đã gặp gỡ các quan chức cấp cao của Triều Tiên tại Bình Nhưỡng, Washington và New York trong gần một năm, lo ngại ra mặt rằng ông chủ của mình sẽ bị ông Kim qua mặt và cho trượt vỏ chuối. Cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, vốn được đào tạo để trở nên hoài nghi và thận trọng đối với bất kỳ một vấn đề nào liên quan đến Triều Tiên, không thấy có nhiều bằng chứng cho thấy rằng Bình Nhưỡng quan tâm đến việc xử lý vấn đề này. Giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc gia Dan Coats khi ra điều trần trước Ủy ban Tình báo Thượng viện hồi tháng trước đã nói rằng “hiện chúng tôi đánh giá rằng Bắc Hàn sẽ tìm cách duy trì các năng lực vũ khí giết người hàng loạt của mình và khó có thể từ bỏ hoàn toàn khả năng sản xuất vũ khí hạt nhân vì các nhà lãnh đạo Bắc Hàn trước sau đều nhìn nhận các vũ khí hạt nhân là điều quan trọng đối với sự sống còn của chế độ.” Các quân bài đều được đảo xáo để nhằm triệt hạ đối tác, một sản phẩm phụ của hai mươi lăm năm của nền ngoại giao một lần (one-and-off diplomacy) với Bình Nhưỡng dường như không tạo ra được gì nhiều ngoài những căng thẳng “xưa như diễm” và những cảm giác tồi tệ. Một sự khôn ngoan thông thường thì tỏ ra thận trọng. Sự bi quan trường cửu vốn vẫn ám ảnh Washington không hẳn đã là sai. Rốt cuộc, đây là Bắc Hàn. Sẽ không có gì trơn tru. Sẽ là một sự thương lượng căng thẳng tại bàn và một số trận đấu ầm ĩ giữa các nhà đàm phán Hoa Kỳ và Bắc Hàn. Có khả năng cao là một số phiên đàm phán sẽ bị đình chỉ trong sức nóng của thời điểm hoặc nếu các quan điểm trở nên không thể dung hòa được. Chế độ Kim sẽ yêu cầu sự tôn trọng và có đi có lại tại mỗi bước đi của quy trình này. Nếu Washington bắt đầu ra lệnh cho Bắc Hàn hoặc yêu cầu nhượng bộ trước để chứng minh sự chân thành của họ, thì Bắc Hàn sẽ trở nên thất vọng và bắt đầu chống lại chính mình. Như nhà cựu đàm phán Hoa Kỳ và quan chức tình báo cấp cao của Bộ Ngoại giao Robert Carlin đã nhận xét “đối với Bắc Hàn, những điều kiện tiên quyết là một sự bắt nạt, dường như đưa họ vào vòng trói buộc ngay trước khi cuộc đàm phán bắt đầu”. Điều kiện tiên quyết duy nhất mà Bình Nhưỡng sẽ chấp nhận là rằng sẽ không có một điều kiện tiên quyết nào cả, chấm hết. Nhưng Tổng thống Trump và đặc phái viên của ông, Stephen Biegun, xứng đáng có được một khoảng thời gian và không gian để đàm phán với đối thủ cứng rắn nhất này của Hoa Kỳ. Những người mong đợi những nhượng bộ hạt nhân lớn từ Bắc Hàn hoặc cho toàn bộ quá trình này sẽ đi đến một kết cục thành công chỉ sau một vài cuộc họp cấp cao đều là những người đang hành hoạt trong thế giới của riêng họ hoặc đang cố tình hy vọng cho ngoại giao thất bại. Rất có thể Hà Nội là một con người đần đụt (a dud), con tàu phi hạt nhân hóa đã rời bến, và bản tuyên bố hòa bình mà mọi người đang nói đến đã bị trì hoãn để cho ngày hôm sau. Chúa Trời vẫn biết các cuộc đàm phán trước đây với chế độ Kim đã chết một cách chậm chắc và đau đớn. Tuy nhiên, bất chấp lịch sử, cũng có khả năng hội nghị thượng đỉnh sẽ tạo ra một động lực cho các cuộc thảo luận căng thẳng hơn trong tương lai. Đối với tất cả các lỗi lầm của mình, Donald Trump rất mong muốn trở thành tổng thống Hoa Kỳ, người chính thức chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên và kiến tạo một nền hòa bình ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Trong khi những người tiền nhiệm của ông đặt không gian giữa họ và Bắc Hàn trong các cuộc đàm phán trong quá khứ, Trump đã chọn cách đi sâu vào đó. Đích thân Tổng thống đầu tư vào quá trình này, điều này cho thấy ông Trump đã đầu tư nhiều hơn vào một kết cục (được kỳ vọng là) thành công. Sẽ có nhiều những than phiền, kêu ca, trách móc này nọ cả từ hai phía (tả và hữu) về việc liệu Trump có quá sẵn sàng để thực hiện một thỏa thuận với Kim hay không. Những người ở Washington, những người mà không thể vượt qua những trường hợp thông thường và không quen với điều gì khác ngoài những thất bại mang tính chính sách trong một phần tư thế kỷ qua, những người đó sẽ không hài lòng với bất kể những gì mà Trump có thể gặt hái được. Cách đây 18 năm,  lần đầu tiên kể từ khi cựu Ngoại trưởng Madeleine Albright bay đến Bình Nhưỡng để gặp Kim Jong-il, có một cơ hội – tuy là rất mong manh – đối với Hoa Kỳ và Bắc Hàn để thiết lập một mối quan hệ được xếp vào phạm trù không thuộc loại thù địch và đối thủ. Chúng ta nên để cho chính quyền Trump một khoảng tự do để chứng minh rằng nhiều người trong số chúng ta đã sai. * Daniel DePetris là thành viên của Tổ chức Ưu tiên Quốc phòng, một tổ chức chính sách đối ngoại tập trung vào việc thúc đẩy một chiến lược tổng thể thực tế để đảm bảo an ninh và thịnh vượng của Mỹ. Nguyên bản Anh ngữ: Give Trump a Chance on North Korea, tạp chí The National Interest, 22/2/201 Nguồn: Việt Nam Thời Báo  
......

Một sự chào đón tởm lợm

......

NGƯU TẦM NGƯA, MÃ TẦM MÃ

JB Nguyễn Hữu Vinh | Cả nước chộn rộn, quan chức chạy ngược chạy xuôi, học sinh phải nghỉ học, chợ búa phải đóng cửa, xe cộ bị cấm lưu thông, cờ quạt búa xua, công an như muỗi, người dân bị canh cửa bằng côn đồ và công an...   Nửa nước phía Bắc bị tê liệt một phần, tiền dân đổ ra như nước lã, như giấy vụn mang đi đốt.   Tất cả chỉ để chi đống tiền ra đón một tên oắt con được mệnh danh là "Côn đồ quốc tế".   Chính hắn và cha ông hắn đã và đang đày đọa hàng chục triệu người Bắc Triều Tiên hàng mấy chục năm nay. Nhiều triệu người bị chết đói, nhiều trẻ em bị suy kiệt cho đến chết.   Chính hắn đã không ngần ngại giết cả anh trai hắn bằng biện pháp dã man.    Phải  Kim Jong Un đã ra lệnh giết anh là  Kim Jong Nam (trái)   Chính hắn đã ra lệnh giết chú, dượng và những người thân thích cũng như hàng vạn đồng chí của hắn đã nâng đỡ cha con, ông cháu hắn.   Khi mà một con người làm điều thất nhân đức, có thể là do một cá tính.   Nhưng khi cả ba thế hệ nhà hắn đều như thế, nghĩa là máu côn đồ, máu lạnh và sự bất nhân, tính thú vật đã thuộc vào giòng giống nhà hắn xưa nay.   Đó là quái vật chứ không phải con người.   Khi mà chính hắn không thể trừ sự tàn bạo, dã man cho chính anh em ruột của hắn, của thân thuộc, họ hàng nhà hắn, thì không có điều gì hắn không dám làm.   Huống chi mấy đám dân cuồng cộng chỉ là cái rác không đến gần để làm bẩn được chân hắn mà chỉ chịu rét cầm cờ đứng từ xa vẫy vẫy.   Và Cha ông hắn, cũng như hắn đã sống một cuộc sống vương giả ngoài sức tưởng tượng của những bậc vua chúa.   Ngay cả việc hắn đến họp nhờ nhà người ta mà hoạnh họe đủ trò, cũng đã nói lên tính cách của hắn ra sao.   Chính hắn đã cho người móc nối với một công dân Việt Nam đưa vào một tội ác tày trời.   Chính ông cha hắn và tiếp nối hà hơi tiếp sức cho bọn Polpot thọc dao sau lưng người dân Việt Nam bằng những cuộc tàn sát đẫm máu ở biên giới Tây Nam.   Chính cha ông hắn đã là đồng minh theo đuôi Trung Cộng trong cuộc chiến xâm lược biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979.   Và hắn đã và đang thể hiện vai trò "côn đồ quốc tế" bắt người dân nhịn đói để lao theo vú khí nguyên tử, đem dọa thế giới kiếm ăn.   Hắn là một Chí Phèo thời nay còn sót lại trên thế giới.   Và hắn được Bá Kiến của làng Vũ Đại mời sang nhà chơi, ăn uống và đón tiếp nhiệt tình..   Cái ngu, là dân làng Vũ Đại vẫn có những đứa hớn hở đón hắn. Dù hắn và Bá Kiến chỉ lo bắt đám dân đó vẫy cờ, dẹp đường, nhịn đói hoan hô.   Một cái xương từ trong bàn ăn của chúng rơi ra, cũng sẽ không đến đám dân làng Vũ Đại ấy.   Dân làng Vũ Đại ấy, chỉ được lo chuẩn bị những đồng sưu thuế để cho bọn Bá Kiến đủ tiền thù tiếp côn đồ cho hợp với câu ngạn ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".   26/2/2019    
......

Những khó khăn của Việt Nam hiện nay

Sự kiện nhân dân Venezuela nổi dậy cùng với Đảng Dân Ý của ông Juan Guiado lật đổ chế độ độc tài Maduro mấy ngày qua đang là sự kiện nóng hổi lôi kéo sự chú ý cả toàn thế giới. Dù là chính phủ lâm thời của ông Juan Guiado vẫn chưa được ổn định vì sẽ còn đối mặt rất nhiều khó khăn trước mắt, nguy cơ khó khăn nhất là sự "giãy chết'' của cựu Tổng thống độc tài Maduro, chắc chắn là Maduro sẽ tìm mọi cách gây biến động và Chính phủ ông Juan Guiado phải đối phó mọi mặt, nhưng bù lại, họ có sự trợ giúp từ Quốc Tế, cụ thể là Hoa Kỳ. Khó khăn kế tiếp là Juan Guiado tiếp nhận một đất nước đã bị tàn phá về kinh tế nặng nề, việc sắp xếp các phe phái chính trị và kiến thiết lại quốc gia sẽ không dễ dàng cho ông. Nhưng dù sao, kiến thiết quốc gia vẫn sẽ dễ dàng hơn là quá trình lật đổ cả một chế độ độc tài, những khó khăn đó họ còn vượt qua được thì việc kiến thiết quốc gia họ sẽ cùng nhau xây dựng lại nhanh chóng mà thôi. Tuy chưa chính thức nhưng chúng ta vẫn chúc mừng cho Venezuela sẽ có một tương lai tươi sáng. VIỆT NAM THÌ SAO? Rất nhiều người nhìn về Venezuela rồi tự nhiên so sánh với Việt Nam, sự so sánh hiển nhiên bởi vì trong mỗi con người Việt Nam, họ khao khát điều đó, khao khát tự do, dân chủ. Ở đây, chúng ta nhìn thấy sự khó khăn của Việt Nam so với Venezuela thế nào? Nhìn bề ngoài, có lẽ đa số sẽ nghĩ hiện tình ở Việt Nam dù sao cũng tốt hơn Venezuela, ít nhất kinh tế Việt Nam vẫn chưa kiệt quệ đến nỗi người dân phải bới thùng rác tìm thức ăn, ít nhất Chính trị Việt Nam vẫn chưa xảy ra bạo lực khắp nơi, ít nhất Việt Nam vẫn chưa xảy ra tình trạng hàng triệu người phải di dân sang các nước lân cận,... Đúng vậy, nhìn bề ngoài thì như thế, có vẻ Việt Nam chưa khánh kiệt như Venezuela. Thế nhưng, người viết nói rằng, Việt Nam so với Venezuela sẽ khó khăn nghiêm trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều thì quý vị nghĩ sao? Và tại sao như vậy? Muốn hiểu rõ những điều này, chúng ta hãy nhìn vào cơ chế chính trị của hai quốc gia. Thứ nhất, đối với Venezuela, mặc dù suốt gần hai trăm năm kể từ khi độc lập, đã trải qua các chế độ chính trị không thật sự là dân chủ nhưng họ vẫn duy trì được đa đảng, vẫn duy trì đảng đối lập, mặc dù đảng cầm quyền độc tài, nhưng ít nhất, người dân của họ cũng đã có ý thức về dân chủ, có ý thức đấu tranh chống độc tài. Còn ở Việt Nam, Miền Bắc đã trải qua hơn 73 năm và Miền Nam hơn 43 năm dưới ách cai trị của cộng sản, chỉ có độc đảng cầm quyền, lại bị tuyên truyền, nhồi nhét ý thức hệ của cộng sản, mặt khác, phong trào đấu tranh dân chủ bị đàn áp triệt để cho nên hầu như người dân Việt Nam đã muốn tê liệt và mất ý chí đấu tranh. Đây là yếu tố quan trọng nhất làm cho công cuộc đấu tranh ở Việt Nam rất khó khăn. Thứ hai, sự tê liệt của Venezuela chủ yếu là do tê liệt về kinh tế hơn là về chính trị. Bởi vì đảng cầm quyền Venezuela độc tài và tham tàn, cho nên họ duy trì chính sách thâu tóm quyền lợi kinh tế, bóp nghẹt sự phát triển kinh tế tư nhân, nạn tham nhũng tràn lan làm cho kinh tế lâm vào khủng hoảng, thời kỳ thịnh vượng của họ chẳng qua phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ rất lớn. Venezuela duy trì đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa và kết cục chúng ta đã thấy. Còn Việt Nam, về kinh tế, cũng duy trì đường lối độc tài, thâu tóm quyền lợi kinh tế quốc gia về cho đảng cầm quyền, lại thêm sự độc tài toàn trị về chính trị làm cho nhân dân Việt Nam phải chịu nhiều tầng áp bức, nghèo nàn về kinh tế, ngạt thở về chính trị làm cho sự nhận thức u tối đi. Thứ ba, ý thức và tư tưởng rất quan trọng cho sự phát triển và phát huy tiềm năng của con người, thế nhưng dưới chế độ cộng sản, ý thức và tư tưởng hầu như bị triệt tiêu, chúng giáo dục công dân đi theo một đường lối duy nhất do chúng đưa ra, nhồi nhét công dân trở nên u tối, có lẽ công dân venezuela vẫn còn may mắn hơn công dân Việt Nam vì họ không bị nhồi sọ để trở nên vô cảm, thờ ơ với chính trị. Thứ tư, Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma, và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Chúng ta có thể thấy, gần 100% công dân các quốc gia này có tôn giáo rất phát triển, vậy nên công dân họ được giáo dục tốt, có đức tin và đạo đức cũng sẽ không suy thoái như cộng sản chủ trương vô thần. Đạo đức là một đức tính quan trọng để chấn hưng Nhân Khí cho mỗi quốc gia. Thứ năm, một yếu tố cực kỳ nguy hiểm mà Venezuela không bị như Việt Nam đó là sự xâm lược, muốn đồng hóa giống nòi của Trung cộng. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm chiếm lấy và đồng hóa Việt Nam vì chúng cho rằng Việt Nam là một phần của chúng và Việt Nam phải thu về mẫu quốc. Đây là dã tâm muốn diệt tận gốc giống nòi Lạc Việt và đồng hóa trở thành Hán Trung. Người viết đã khóc khi đọc qua những tài liệu lịch sử ghi chép về sự dã tâm của Trung Quốc muốn diệt chủng nòi Việt của chúng ta. Nếu quý vị có tinh thần Dân Tộc, quý vị sẽ thấy, sự nghèo đói, sự ô nhiễm môi trường, sự đàn áp cướp bóc, ...tất cả điều gây đau khổ cho nhân dân, nhưng tất cả những điều đó nó không là gì so với sự diệt chủng giống nòi Lạc Việt của chúng ta. Và Trung Quốc vẫn đang làm điều đó dưới sự tiếp tay ngu dốt của ĐCS. Vậy nên, tình hình của chúng ta nguy cấp hơn so với các quốc gia khác. Quý vị có thể nhìn thấy, Việt Nam thật sự đang đối mặt khó khăn hơn bất cứ quốc gia cộng sản nào, thế nhưng có thể nói tinh thần đấu tranh của người Việt Nam lại kém cỏi nhất. Bởi vì tầng lớp đáy tầng chiếm hơn 70% dân số nhưng kiến thức chính trị của họ rất thấp, bởi vì nghèo nàn làm họ phải bươn chải kiếm sống, lại thêm sự nhồi nhét đường lối của CS làm cho họ thờ ơ tìm hiểu về chính trị. Tầng lớp trung lưu trí thức chiếm tỷ lệ ít hơn (khoảng 20%) có tư tưởng tìm hiểu chính trị nhưng họ cũng chưa dứt khoát bày tỏ quan điểm của họ. Còn lại là đảng viên đảng CS. Việt Nam ví như con sóng ngầm dữ dội đang bị kiềm nén chứ không phải yên bình như bề ngoài giả tạo của nó. Những khó khăn là vậy, hiểu được nó để xác định được chúng ta cần làm gì là chính yếu, và làm như thế nào. Vạn sự điều có lối đi, mọi con đường đều sẽ đến La Mã. Muốn bớt gian nan thì tìm đường thuận lợi mà đi, không tìm được thì phải đi con đường khó khăn hơn, còn nếu không muốn đi thì mọi con đường sẽ đóng lại. Không có gì cao xa cả, vạn vật trong vũ trụ đều có quy luật vận hành của nó, quan trọng là thấy được nó, hiểu được nó và muốn đi theo sự vận hành của nó hay không là do chúng ta! January 26, 2019.” Bác sĩ Diệu Hằng
......

Phải chăng rủa sả là để tự vệ?

Cánh Cò -  RFA | Tượng đài Đức thánh Trần những ngày này bỗng dưng được người dân quan tâm đặc biệt sau sự cố “cẩu lư” vào ngày 17 tháng 2 vừa qua. Chưa bao giờ không gian mạng lại bận rộn chỉ tập trung vào một đề tài như thế. Mở ra bất cứ trang nào cũng thấy người chủ trang chăm chú nhìn vào việc này, nhất là sau khi nghe tin bà Nguyễn Thị Thu, Phó chủ tịch UBND thành phố qua đời ba ngày sau khi chiếc lư trước tượng đài bị câu đi. Trăm nơi như một, người ta hân hoan cho rằng bà Thu bị thánh thần xử phạt vì đã phạm vào tội bất kính với tiền nhân. Người ta vạch ra bằng chứng là trong tư cách là Phó chủ tịch phụ trách lĩnh vực văn hóa – xã hội bà Thu đã ký một văn bản “phạm thượng” cho phép di dời chiếc lư hương từ chỗ cũ của nó về đền thờ Đức Thánh Trần ở số 36 Võ Thị Sáu. Quyết định được bà Thu ký ngày 15 tháng 1 năm 2019 và một tháng sau thì bà qua đời. Có hàng ngàn nhận xét về hiện tượng này nhưng chung quy nhắm tới luật nhân quả cho người nào xem việc tàn phá văn hóa tâm linh hay báng bổ thần thánh đều bị trừng phạt. Sự trừng phạt ấy nếu xảy ra nhanh chóng như trường hợp bà Thu có lẽ là điều hiếm khi xảy ra, nhưng khi nó xảy ra thì niềm tin vào sự trừng phạt của thánh thần được nhân lên gấp bội, bất kể việc này chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người ta không muốn nghe hai từ ngẫu nhiên bởi sự tin tưởng vào thế giới huyền bí khó giải thích hơn là sự giải thích theo cách khoa học. Nhất là khi niềm tin ấy đính kèm lòng hả hê vì sự tàn bạo của một chính quyền chỉ biết tham lam phá hoại. Rất nhiều người dân không biết tại sao chính quyền có quyết định “cưỡng chế” chiếc lư hương trước tượng đài Trần Hưng Đạo tại sông Sài gòn. Họ không có khái niệm về việc chiếc lư hương được cho là vật giúp người có lòng dạ với đất nước trước họa diệt vong của Trung Quốc làm nơi lưu giữ chút hương khói dâng lên Đức Thánh Trần. Sự căm giận của người dân trong vụ này được bộc lộ. Họ không thù oán hay có định kiến với bà Nguyễn Thị Thu nhưng khi nghe tin bà chết là họ ùn ùn reo hò bằng những từ ngữ xúc xiểm tệ hại nhất. Phải chăng đó là dịp để người dân đánh trả thói quen xem thường dân chúng của chính quyền các cấp? Họ đã sống dưới sự kềm kẹp, chà đạp lẫn khinh bỉ quá lâu đủ để lòng căm giận chế độ lên men sau nhiều năm được ủ. Tâm lý hả hê không giấu giếm đã làm một số người bất mãn, cho rằng như vậy là tàn ác đối với người đã mất. Đáp lại sự lên án ấy là những câu chữ không kém phần thuyết phục. Bà Thu bị ghét bỏ như vậy vì chính tay bà đã ký một quyết định báng bổ thần thánh. Bất cứ vì lý do gì kể cả lý do chế độ lo sợ người biểu tình thì cũng phải suy xét cặn kẽ trước một quyết định mất lòng dân như vậy. Mạo phạm một hình tượng uy vũ như Trần Hưng Đạo không khác gì lấy cây thọc vào tượng Chúa hay bôi bẩn lên khuôn mặt Đức Phật Thích Ca. Nguồn cơn tại bà phụ trách văn hóa nhưng lại không hiểu chút gì về văn hóa tâm linh của người dân nên bà bị rủa sả. Nhưng xét cho cùng, văn hóa Việt Nam từ ngàn xưa vốn hiền lành, tha thứ không chấp nê, sao lại đưa đẩy tới chốn thị phi nghiệt ngã như hôm nay, khi con người sẵn lòng nguyển rủa một người vừa nằm xuống chưa kịp tẩm liệm? Đây là câu hỏi mà đảng Cộng sản Việt Nam phải ngồi lại với nhau tìm câu trả lời thỏa đáng. Có phải vì họ đã quá hà khắc với dân để lòng căm thù ngày một lớn và vô phương hóa giải? Có phải vì họ xem dân là cỏ rác khiến lòng tự trọng của dân bị thương tổn tạo ra phản ứng trả thù đối với người đã chết? Có phải cứ là đảng viên là bị người dân căm ghét vì đảng đã lợi dụng quyền lực của mình để bao che cho những thành phần này khiến người dân trở thành thứ phẩm, chỉ biết tuân lệnh và không được phản ứng? Còn nhiều câu hỏi khác để giải mã cho phản ứng trả thù với xác chết nhưng câu trả lời dễ chấp nhận nhất là người dân phản ứng vì tự vệ. Họ đang dùng sự nguyền rủa đề cảnh tỉnh đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu còn tỉnh táo thì đảng phải ngay lập tức dừng lại mọi hành vi chà đạp người dân dưới bất cứ hình thức nào. Đừng nghĩ rằng họ không biết đảng đang đu giây với Trung Quốc nhằm tìm sự yên lành cho đảng bằng cách áp bức người yêu nước trước các hành vi sai trái, nhu nhược và hèn hạ mà đảng hành xử trong những năm qua. Nếu còn những suy nghĩ là đảng đủ mạnh để có thể làm bất cứ việc gì đảng muốn thì người dân cũng sẽ còn nhiều cơ hội để rủa sả ngay cả những kẻ chưa chết nhưng trái tim thì đã héo khô hai chữ Việt Nam. Sự nguyền rủa ở số ít thì có thể cho là tàn nhẫn, nhưng khi cả nước đã nguyền rủa  thì đảng nào sống sót cho nổi trước lòng căm thù tập thể của những con người cơ cực chịu đựng sự giày vò của một đảng cầm quyền trong suốt gần một thế kỷ?  
......

KHÔNG ĐƯỢC KHÓC

Nguyễn Thúy Hạnh Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, những cái tên đã đi vào lịch sử đình công của công nhân Việt Nam với hơn 10 ngàn người tham gia ở Trà Vinh năm 2010. Và tất yếu họ bị trừng phạt bởi nhà cầm quyền với tổng cộng 23 năm tù cho 3 người. Nhân sự kiện Nguyễn Hoàng Quốc Hùng người cuối cùng trong nhóm họ mãn hạn 9 năm tù cộng sản hôm nay, tôi nhớ lại một câu chuyện mà Minh Hạnh kể cho tôi khi mới ra tù. Minh Hạnh tham gia phong trào công nhân từ năm 18 tuổi, Chương và Hùng hơn Hạnh 4 tuổi. Họ coi nhau như anh em, ăn ở lăn lộn cùng công nhân để gây dựng phong trào, tâm hồn phơi phới niềm tin và nhiệt huyết. Giữa họ với nhau có một giao hẹn: “TRONG MỌI TÌNH HUỐNG KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC KHÓC”. Minh Hạnh và Quốc Hùng đã trở thành người yêu, chung một mối tình, lý tưởng, mối quan tâm. Rồi cuộc đình công nổ ra, cả ba anh em đều lần lượt bị bắt. Hai người anh muốn Minh Hạnh thoát, nhưng Minh Hạnh kiên quyết không đầu hàng, quyết chung lưng cùng các anh. Họ bị giam cách biệt nhau suốt 8 tháng cho đến khi ra toà. Hôm đó trên đường áp giải từ xe tù ra thì Hạnh gặp Hùng cũng bị áp giải qua đó. Thấy Hùng, Hạnh sững sờ mới đầu không nhận ra. Có ai ngờ Quốc to cao vạm vỡ trước kia giờ gầy như cái que. Xót xa thương Hùng quá, Hạnh đã bật khóc. Nhưng ngay lúc đó Hùng nghiêm mặt nhắc lại lời thề: “KHÔNG ĐƯỢC KHÓC”. Hạnh đã gần như ngất đi vì xúc động và thương Hùng, nhưng em đã không khóc nữa. Và sau đó là một phiên toà hào hùng của những người thanh niên quả cảm. Ba anh em đứa 9 năm, đứa 7 năm tù, không hề run sợ hối tiếc, không xin xỏ. Lúc tuyên án họ còn hát vang, tin tưởng vào ngày mai bóng tối sẽ bị xua tan. Vô cùng khâm phục và yêu quý ba anh em: Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh.
......

BẢN CHẤT

Đỗ Văn Ngà Công an vốn là một lực lượng chấp pháp, nhưng chính họ giờ đang trở thành một lực lượng đáng sợ nhất đối với nhân dân. Hiện nay, ngành này không còn muốn làm cho xã hội bình yên nữa, mà ngược lại, họ muốn xã hội bất an để họ kiếm chác. Cờ bạc nhiều thì họ có thêm thu nhập bảo kê, ma tuý nhiều thì họ có cơ hội khoe thành tích vv.. Mà bất nhân nhất là hiện tượng nuôi án khá phổ biến trong lực lượng này. Chấp pháp là nhiệm vụ của họ, nhưng chấp pháp thì lấy gì sống? Mà thi hành nhiệm vụ thì chỉ được nhận lương thôi, không thưởng gì cả, cho nên họ phải bảo kê tội phạm để mà sống. Điều đó cũng có nghĩa là họ đã đánh mất hoàn toàn hình ảnh bảo vệ an ninh cho dân. Họ là hiện thân của sự bất an. Như bài trước đã nói, công an Cộng Sản luôn nuôi án để nó mang lại cho họ nhiều cái lợi. Chưa có một xã hội nào công an lại thả cho xã hội bất an để hưởng lợi như Việt Nam. Rõ ràng nuôi án thì nó sẽ thúc đẩy tệ nạn ngày càng nghiêm trọng, tội ác ngày một man rợ hơn. Mà tệ nạn ngày một nghiêm trọng thì tiền chi cho công an làm nhiệm vụ bảo kê ngày một cao. Nghĩa là tệ nạn càng cao thì công an càng giàu. Chuyên bảo kê cho tệ nạn kiếm tiền chưa đủ, nay họ lại nhảy sang bảo kê cho BOT bẩn để kiếm tiền. Đốn mạt đến mức, họ trút bỏ quân phục, bịt khẩu trang kín mặt để bảo kê cho BOT bẩn như bọn đầu gấu chuyên nghiệp để kiếm chút tiền bẩn bỏ vào mồm. Vậy thì họ tìm đâu ra hình ảnh đẹp? Trong mắt nhân dân, hình ảnh chấp pháp của ngành công an không còn nữa. Giờ họ hoàn toàn bế tắc, không biết làm cách nào để lấy lại hình ảnh đơn giản ấy trong mắt nhân dân nữa. Chính vì thế nên họ đã bày ra đủ trò để tìm cách cứu vãn hình ảnh, nhưng thật thảm hại, họ bày ra bao nhiêu trò đều bị dân lật tẩy bấy nhiêu trò. Cho nên hình ảnh không những không được cứu vãn mà con bị rớt thảm hại. Không thực hiện nhiệm vụ mà họ lại lo tổ chức buổi đi nhặt rác rồi quay phim quảng bá hình ảnh. Màn kịch bị dân bóc mẽ, hình ảnh ngành rớt thê thảm. Như con bạc say máu, càng thua nó càng đánh đậm hơn nữa để gỡ, thì công an cũng thế, những màn kịch này bị thất bại thì họ dựng màn kịch khác để gỡ lại hình ảnh. Trò hề quét rác bị lật tẩy, họ lại tự dựng hình ảnh nhặt tiền trả lại người khác rồi quay phim chụp ảnh và nhờ hệ thống báo chí nô bộc tung hô. Nhưng thảm hại thay, họ lại bị dân lật tẩy, uy tín lại không những không cải thiện mà còn tụt dốc thảm hại hơn. Thực tế ngành công an quá thiếu vắng đạo đức và trách nhiệm, thì các lãnh đạo CS cũng khác sao? Cũng thiếu vắng nốt. Tham nhũng, bất tài, gian manh, độc ác, phá hoại vv.. Đấy là hình ảnh lãnh đạo CSVN. Giờ dân nhìn họ với một cặp mắt vừa khinh bỉ, vừa hận, vừa căm ghét. Chính vì thế họ cũng như công an, đang khác khao được xã hội thừa nhận họ như một người công chính. Họ rất cần, nên khi có một sự kiện nào là họ cũng muốn ăn theo để tỏ vẻ "có trách nhiệm với nhân dân". Khi Công an Điện Biên bắt 5 hung thủ vụ án cô gái giao gà đêm 30 tết, thì lập lức ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhảy vào ăn hôi hình ảnh này. Ông ta nhảy vào chỉ đạo thế này, chỉ đạo thế kia như là không có ông ta thì bộ máy nhà nước không làm gì được với vụ án này vậy. Mà nói thẳng ra, trong vụ trong án này, để xảy ra cảnh hiếp dâm giết người như vậy, tội của công an Điện Biên rất lớn, việc bắt 5 hung thủ là trách nhiệm họ phải làm chứ chẳng có công lao gì cả. Hình ảnh công an không truy tìm nạn nhân sớm để xảy ra hậu quả thương tâm này là một hình ảnh rất xấu của công an Đện Biên chứ chả đẹp đẽ gì, nhưng trong bối cũng chẳng có hình ảnh nào khá hơn, thì cả công an và thủ tướng đều giành giật cái hình ảnh ấy để phết lên khuôn mặt toàn lọ nghẹ của họ một vết sơn "đẹp". Rõ ràng trong ĐCS, hiện giờ đã khô cạn đạo đức con người và tinh thần trách nhiệm cũng vắng bóng. Thế nhưng họ lại không tự sửa tốt hơn để "hữu xạ tự nhiên hương" mà ngược lại, họ cố mót vét những hành động chấp pháp hiếm hoi để tô vẽ cho mình một hình ảnh lãnh đạo "vì dân" và "có trách nhiệm". Khổ nỗi trên khuôn mặt lãnh đạo nào cũng đen xì lọ nồi, họ cố chấm lên ấy một vài vết sơn sặc sỡ thì khuôn mặt cũng chẳng sáng hơn, mà ngược lại, nhìn nó lại còn lem luốc hơn cả màu đen của nhọ.  
......

Khẩn trương hay không khẩn trương?

Người dân biểu tình trước Tòa Bạch Ốc hôm 18 Tháng Hai, 2019, tại Washington, D.C., sau khi Tổng Thống Donald Trump tuyên bố “tình trạng khẩn trương.” (Hình: Zach Gibson/Getty Images) Năm vụ án đầu tiên kiện Tổng Thống Donald Trump về lệnh “toàn quốc khẩn trương” (National Emergency) đã được phân công cho ba vị quan tòa ở California và Texas. Ba ông tòa do ba vị tổng thống khác nhau bổ nhiệm, hai ông Dân Chủ, một ông Cộng Hòa! Cả nước Mỹ đang chờ coi tấn tuồng lý thú: Coi ông tòa nào xử như cho ông Trump thắng, ông tòa nào xử cho nguyên đơn thắng! Hai vụ kiện ở California sẽ do Thẩm Phán Haywood S. Gilliam Jr. ngồi xử. Ông được cựu Tổng Thống Barack Obama (Dân Chủ) bổ nhiệm năm 2014 và làm việc tại Khu Bắc California, nổi tiếng là cấp tiến. Hai vụ kiện khác nạp tại tòa khu vực thủ đô, Washington, D.C.. Chủ tọa phiên tòa sẽ là Thẩm Phán Trevor N. McFadden, người được Tổng Thống Trump (Cộng Hòa) bổ nhiệm năm 2017. Thẩm Phán David Briones sẽ xét xử vụ kiện thứ năm, mà ông này do cựu Tổng Thống Bill Clinton (Dân Chủ) phong chức. Liệu các quan tòa có xử theo xu hướng chính trị của họ hay không? Chúng tôi tin rằng không! Trước hết, vì chức vị thẩm phán rất có danh vọng, một người làm thẩm phán liên bang thường làm suốt đời, trừ khi phạm lỗi nặng và bị “impeached” (đàn hặc). Họ phải bảo vệ thanh danh và uy tín với những người cùng nghề; một thứ không thể lấy tiền tài hay quyền bính đem đổi. Trong những vụ kiện “nặng mùi chính trị” như các vụ kiện này, người thẩm phán càng phải thận trọng, giữ mình hơn. Vì công chúng và tất cả các đồng nghiệp của họ theo dõi, phán xét! Các quan tòa đều bị đặt trước tòa án dư luận! Vậy có thể đoán các vị quan tòa kể trên sẽ xét lệnh “toàn quốc khẩn trương” của Tổng Thống Trump như thế nào? Hiện nay chưa thể nào đoán được. Bởi vì chưa biết rõ lệnh này sẽ được đem thi hành như thế nào! Chưa ai biết các cơ quan chính phủ áp dụng lệnh của ông tổng thống thì sẽ gây thiệt hại những gì, cho ai, để những người đó có thẩm quyền thưa kiện. Tòa án không thể xử án dựa trên một số lời tuyên bố chung chung. Nguyên đơn có thể kiện ông tổng thống, nói rằng nước Mỹ không hề có tình trạng khẩn trương như ông mô tả. Nhưng kiện như thế sẽ giống như kiện củ khoai. Vì các vị thẩm phán trong ngành Tư Pháp, ngang hàng với Hành Pháp và Lập Pháp, sẽ khó cho mình đóng vai trọng tài, để phán rằng Hành Pháp nói sai, không khẩn trương mà lại nói khẩn trương! Trong các án lệ trước đây, thường vị quan tòa không xét xử và thay đổi những phán đoán của Hành Pháp về các vấn đề an ninh quốc gia. Nếu bên nguyên là ngành Lập Pháp, kiện Hành Pháp lạm quyền, lấn chân mình, thì họ có thể thắng dễ dàng hơn, nếu chứng minh được chuyện đó thật sự diễn ra với lệnh “toàn quốc khẩn trương” của ông tổng thống. Khi đó, phải chứng minh những khoản chi tiêu nào ông tổng thống đã dùng mà trước đó quốc hội không hề cho phép. Hiến Pháp Mỹ cho Quốc Hội quyền ấn định các khoản thu (thuế má) và chi (ngân sách) của toàn thể chính phủ. Sau khi Quốc Hội đã chấp thuận một ngân sách rồi, nếu tổng thống thay đổi thì có thể bị tố là lạm quyền. Sau khi các quan tòa sơ thẩm xử rồi, thế nào bên bị thua cũng kháng cáo lên tòa phúc thẩm, và sau cùng phải lên tới Tối Cao Pháp Viện. Đây sẽ là màn hứng thú nhất trong cả tấn tuồng này. Hiện nay, phần lớn các vị thẩm phán Tối Cao đều có khuynh hướng bảo vệ tam quyền phân lập, đặc biệt là quyền của Quốc Hội đối với bên Hành Pháp. Nếu trước tòa án vấn đề chính được định nghĩa như một vụ “chiếm quyền chuẩn chi” của Quốc Hội thì ông Trump chắc sẽ thua. Trừ khi, luật sư của chính phủ cãi rằng Tổng Thống Trump không lạm quyền, ông chỉ thi hành đạo luật về “tình trạng khẩn trương” mà Quốc Hội Mỹ đã thông qua năm 1976. Các luật sư của chính phủ có thể nói rằng, với đạo luật này, chính Quốc Hội đã trao cho các vị tổng thống quyền du di một số ngân khoản! Các luật sư cũng sẽ phân tích những ngân khoản được đem du di, thí dụ, $600 triệu tịch thu từ các tổ chức buôn ma túy; $2,5 tỷ để ngăn ngừa ma túy trong quân đội, vân vân, sẽ đem ra để dựng hàng rào hoặc tường biên giới. Các luật sư sẽ chứng minh rằng các người đứng ra kiện (nguyên đơn) không ai bị thiệt hại trực tiếp nào khi thay đổi các món chi tiêu đó. Nghĩa là họ không có thẩm quyền nộp đơn kiện! Trước Tối Cao Pháp Viện, Tổng Thống Donald Trump sẽ vất vả nhất nếu bên nguyên tìm cách chứng minh với các quan tòa rằng chính phủ thực ra không cần tuyên bố khẩn trương, ông Trump chỉ dùng vụ đó để tiêu tiền quốc gia theo ý của mình thôi! Nhật báo Wall Street Journal đã trích dẫn một lời tuyên bố “hớ hênh” của Tổng Thống Trump khi ông tuyên bố “tình trạng khẩn trương,” ngày Thứ Sáu trước. Ông nói những câu bất lợi cho chính mình, “Tôi có thể xây bức tường trong một thời gian dài. Tôi không cần phải làm như vầy (tuyên bố khẩn trương). Nhưng tôi muốn xây bức tường nhanh chóng hơn.” Wall Street Journal, tiếng nói quan trọng trong đảng Cộng Hòa, khuyên: “Donald Trump, ông hãy gặp Robert Jackson. Ông là vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện mà lý đoán của ông trong án lệ Youngstown v. Sawyer có thể quyết định số phận ‘tình trạng khẩn trương’ của ông Trump.” Như đã trình bày trong mục này tuần trước, trong vụ kiện Youngstown trên, Tổng Thống Harry Truman bị kiện khi tính quốc hữu hóa các nhà máy thép, trong thời chiến tranh Cao Ly. Tối Cao Pháp Viện đã bác bỏ. Lý đoán của Thẩm Phán Robert Jackson nổi tiếng vì đặt ra một số quy tắc trong quan hệ Hành Pháp với Lập Pháp ở nước Mỹ. Nói rõ ràng: Quyền hạn của vị tổng thống tùy thuộc vào quyền hạn và nguyện vọng của Quốc Hội. Thẩm Phán Jackson viết: “Quyền hạn của tổng thống mạnh nhất khi hành động với sự hỗ trợ của Quốc Hội. Khi tổng thống tự quyết định lấy mà Quốc Hội không nói gì thì quyền hạn của ông ta yếu hơn. Quyền hạn đó xuống thấp nhất khi vị tổng thống hành động trái với những nguyện vọng Quốc Hội, hoặc đã nói ra, hoặc tỏ ra muốn như vậy – incompatible with the expressed or implied will of Congress.” Trong câu chuyện hiện nay, nhật báo Wall Street Journal nhận xét, Tổng Thống Trump đã nói thẳng rằng ông tuyên bố “tình trạng khẩn trương” vì Quốc Hội từ chối cấp tiền cho ông. Trong thời gian đảng Cộng Hòa còn nắm Hạ Viện, ông Paul Ryan cũng không cấp tiền cho ông Trump xây tường. Vì vậy, sau án lệ Youngstown v. Sawyer, lý lẽ của ông Trump rất yếu. Nhật báo Wall Street Journal cũng nhắc tới vụ một quan tòa liên bang năm 2014 đã bác bỏ việc Tổng Thống Obama lấy tiền trả cho các hãng bảo hiểm khi áp dụng luật Obamacare, mà không được Quốc Hội cho phép, như đã trình bày trong mục này tuần trước. Lúc đó, bà Nancy Pelosi đã từng hoan hô ông Obama hết lời. Tờ báo được coi là tiếng nói quan trọng nhất của đảng Cộng Hòa kết luận: “Đảng Dân Chủ lạm quyền không phải là cái cớ để đảng Cộng Hòa cũng làm như họ. Các nhà Lập Quốc đã vẽ ra một bản hiến pháp với các điều bảo đảm (các quyết định của quốc gia) không bị các tình tự chính trị nhất thời chi phối.” Câu hỏi cuối cùng, là các vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện hiện nay có bao nhiêu người đồng ý với Thẩm Phán Robert Jackson năm 1952? Thực ra, nếu Tòa Tối Cao bác bỏ “tình trạng khẩn trương” của Tổng Thống Donald Trump thì ông vẫn có thể xoay trở, kiếm ra được ít nhất $4 tỷ để xây tường! Đối với vị tổng thống thứ 45, 9 nút, xây bức tường không quan trọng bằng bảo vệ lòng tín nhiệm mà các cử tri cơ bản đặt vào ông. Dù mai mốt có bức tường hay không thì ông Trump vẫn giữ được cái “vốn chính trị” của mình. Với cái vốn 40% cử tri đó, ông có thể khiến cho đảng Cộng Hòa không có cách nào khác là phải ủng hộ ông. Dù kết quả trận đấu pháp lý ra sao, trận đấu năm 2020 vẫn không thay đổi. Ngô Nhân Dụng Nguồn: Người Việt  
......

‘Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’: Lại dối trá!

Lần đầu tiên kể từ khi Nhà nước Đức cáo buộc bị mật vụ Việt Nam sang tận Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và gây ra cơn địa chấn khủng hoảng ngoại giao quan hệ Đức - Việt, đến nay một ít tờ báo nhà nước Việt Nam mới dám hé lộ sự thật về ‘khôi phục quan hệ Việt - Đức’.   Tờ báo mà gần đây được xem là ‘thân đảng’ như Thanh Niên, với tựa đề “Đức muốn 'làm mới' quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” - là một trong số tờ báo hiếm hoi trên mà có lẽ đã quá chán ngán cái cảnh ‘đảng và nhà nước ta’ phủ áo lên mặt cố che giấu một sự thật đã từ lâu rành rành trong dư luận xã hội.   Nhưng nhiều tờ báo đảng vẫn dối trá không biết liêm sỉ: “Đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng”, hay ‘Thắt chặt quan hệ đối tác chiến lược với Đức’…   Vậy ‘đối tác chiến lược’ ấy thực chất ra sao?   2 tháng sau khi ra thông báo phản đối Việt Nam về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Nhà nước Đức đã tuyên bố tạm ngừng vô thời hạn vào tháng 9 năm 2017. Tháng tiếp theo, Đức hoãn thêm một hiệp định về miễn thị thực cho cán bộ Việt Nam đi công tác ở Đức. Cùng lúc , hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế - xã hội của Đức cho Việt Nam cũng bị đình hoãn.   Hơn một năm rưỡi qua, trong lúc phía Việt Nam vẫn chưa chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và ‘xin lỗi, cam kết không tái phạm’ về vụ này, quan hệ Đức - Việt đã hầu như đóng băng, khiến giá trị giao thương song phương giữa hai nước có phần sút giảm, đặc biệt là hàng Việt Nam khó khăn hơn khi vào thị trường Đức - thị trường mà nhờ đó hàng năm Việt Nam xuất siêu được đến 5 tỷ Euro.   Vào tháng 11 năm 2017, lần đầu tiên phía Đức bắn tiếng ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược’, cùng lúc với quá trình đàm phán vụ Trịnh Xuân Thanh tưởng đâu đã có lối ra. Nhưng sau đó phía Việt Nam lại ngậm miệng và tất cả chìm vào bóng tối.    Còn vào lần này, tháng 2 năm 2019 - lần đầu tiên mà cấp bộ trưởng ngoại giao như Phạm Bình Minh công cán đến Đức kể từ vụ khủng hoảng Trịnh Xuân Thanh, những điều kiện cho triển vọng phục hồi đối tác chiến lược đã không còn dễ thở như năm 2017.   “Trong thời gian qua đã có những khác biệt có thể nhận thấy rõ rệt giữa Đức và Việt Nam – đặc biệt là vì vụ bắt cóc công dân Việt Nam Trịnh Xuân Thanh ở Berlin. Hôm nay chúng tôi đã trao đổi với nhau về việc chúng tôi có thể điều chỉnh lại mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Đức như thế nào và làm sao có thực chất trở lại. Theo quan điểm của chúng tôi, một quan hệ đối tác chiến lược cũng bao gồm sự tôn trọng các giá trị chung, đặc biệt là tôn trọng nhân quyền phổ quát” - một thông cáo báo chí cho biết như thế sau cuộc họp của Ngoại trưởng Đức Heiko Maas với Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh tại Berlin.   Một từ ngữ đặc biệt mà Ngoại trưởng Đức Heiko Maas dùng là ‘điều chỉnh’ trong quan hệ đối tác chiến lược, nếu quan hệ này được phục hồi. Điều đó có nghĩa là sẽ có những thay đổi, thậm chí là thay đổi đáng kể về nội dung quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.   Hoàn toàn có thể hiểu rằng kể từ nay trở đi và chỉ sau khi Trịnh Xuân Thanh được trao trả lại cho Đức, quan hệ đối tác chiến lược mới được đàm phán lại, nhưng sẽ được bổ sung vào đó ít nhất nội dung nhân quyền.   Còn nếu chính quyền Việt Nam vẫn không chịu trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức và không có bất kỳ cải thiện nào về nhân quyền, cái gọi là ‘đưa quan hệ Đối tác chiến lược tiếp tục phát triển sâu rộng’ trên mặt báo đảng Việt Nam sẽ biến thành một vết đen đúa không cách nào tẩy xóa được khi quan hệ đối tác chiến lược này sẽ bị người Đức thẳng tay hủy bỏ.  
......

Đức Đệ ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ đang bị đe dọa ‘áp giải’ về Thái Bình?

 Một nguồn tin cho biết, trong những ngày tới đây, nhân dịp có một phái đoàn chư tăng của chùa Vĩnh Nghiêm đến thăm Hòa thượng Thích Quảng Độ, sẽ có một vài nhân vật dân sự tháp tùng, và họ sẽ tìm mọi cách để ép đưa ngài Thích Quảng Độ về lại Thái Bình như một hình thức ‘an trí’ thời Pháp thuộc.   Kể từ khi Đức Đệ ngũ Tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất rời quê nhà Thái Bình để về lại Sài Gòn vào cuối năm 2018, đến nay đã có ít nhất ba lần, vị Hòa thượng 91 tuổi này đã bị đe dọa ‘áp giải’ về lại Thái Bình. Chuẩn bị lần thứ tư đe dọa ‘áp giải’? Phật tử Diệu Thường kể rằng sau khi cô cháu gái của Đức Tăng thống đưa Ngài từ Thái Bình về lại Sài Gòn theo ý chỉ của Ngài, và chọn chùa Từ Hiếu ở quận 8 là nơi gửi trọn phần đời còn lại, thì cách đây hơn một tháng, ông Định – người cháu gọi Ngài theo thứ bậc dòng tộc là 'chú', đã đến tận chùa Từ Hiếu dự tính dùng vũ lực để ép Đức Tăng Thống về lại Thái Bình. Sau khi nghe Phật tử Diệu Thường thuật lại câu chuyện, Hòa thượng Thích Nguyên Lý, trụ trì chùa Từ Hiếu đã hỏi ý Đức Tăng Thống: “Ông Định, cháu của Ngài muốn đưa Ôn Ngài về lại Thái Bình, Ôn Ngài nghĩ sao?”. Ngài nói: “Tôi đã phải rời bỏ Thái Bình về đây vì ở đó tôi rất bất an, không sống nổi, giờ còn về lại đó làm gì? Đó là nhà của anh chị tôi năm xưa. Tôi là người tu thì phải ở chùa chứ sao lại ở nhà”. Đức Tăng thống ( X), Hòa thượng Thích Nguyên Lý (XX) cùng một số chư tăng chùa Từ Hiếu, mồng 1 Tết Kỷ Hợi. Vài hôm sau đó, trong lễ tang vị Hòa thượng trụ trì Thiền viện Thanh Minh, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, ông Định cùng 'nhóm người nào đó' tìm mọi cách để buộc Đức Tăng Thống rời chùa Từ Hiếu, bằng việc cho người đến cung thỉnh Đức Tăng Thống về Thiền viện Thanh Minh để làm chủ các nghi thức tang lễ, gọi là Trưởng ban lễ tang. Sau đó nhân cớ này sẽ tiếp tục đưa ngài về lại Thái Bình. Hòa thượng Thích Nguyên Lý nói rằng đó là buổi trưa ngày 18-01-2019, khi thỉnh Ôn Ngài đi viếng Hòa thượng Thanh Minh, Ngài bảo: “Tôi đã vào thăm Hòa thượng Thanh Minh trong bệnh viện Pháp Việt rồi, giờ tôi yếu không muốn đến chỗ đông người, tình nghĩa giữa chúng tôi như vậy là đã trọn vẹn lắm rồi”. Hòa thượng Thích Nguyên Lý kể về lần đe dọa thứ ba: “Chiều 18-01-2019, vợ chồng ông Định đến chùa xin gặp Ôn Ngài để mời Ngài về nhà đám giỗ bà nội. Tôi có kể lại việc hôm 17-01-2019 (12 tháng chạp) có thưa với Ôn Ngài về ngày giỗ của thân mẫu Ôn. Ngài nói: “Mẹ tôi qua đời đã lâu rồi, vả lại sau 49 ngày là mẹ tôi đã về cảnh giới của bà; đến ngày giỗ mẹ, tôi chỉ tưởng niệm trong tâm. Thầy chỉ cần hoa quả xôi chè tưởng niệm ngày mất của mẹ tôi là đủ. Còn ở gia đình các cháu muốn làm gì thì cứ tùy ý mà làm, sao cho thanh tịnh và đơn giản, cốt là tưởng nhớ ân đức của tổ tiên ông bà…”. Tôi không cho ông Định gặp Ôn Ngài, vì các lý do sau: thứ nhứt, ngày 11-01-2019, khi ông tới chùa , trước mặt Hòa thượng Quảng Độ và tôi, ông đã nhào tới đòi đánh cô Diệu Thân là người chăm sóc Ôn Ngài, khi cô ấy không muốn rời khỏi phòng khách. Cô Thiên Hương phải ra tay ngăn cản. Thứ hai, ngày 16-01-2019, khi tôi đang làm từ thiện ở Phú Yên, ông Định đã dẫn đoàn 7 người đến chùa Từ Hiếu mượn cớ thỉnh Ôn Ngài về Thanh Minh Thiền Viện thắp nhang cho Hòa thượng Thanh Minh, nhưng thực ra là sau đó ông áp giải Ôn Ngài về lại miền Bắc. Âm mưu này đã được một Phật tử cho hay trước khi phái đoàn của ông Định đến chùa Từ Hiếu. Vì vậy các Thầy trong chùa đóng cửa phòng Ôn Ngài theo lệnh của tôi điện về, không cho phái đoàn tiếp xúc Ôn Ngài. Ông Định đã đập phá cửa phòng ngay cầu thang phòng Ngài ở làm cho Ôn Ngài hốt hoảng bất an suốt ngày hôm đó. Thứ ba, ông Định đã gọi điện cho em gái ở Thái Bình tuyên bố sẽ “chém chết cô Diệu Thân rồi chấp nhận vô tù”. Vì ba lý do trên, từ nay tôi không cho ông gặp Ôn Ngài. Sau đó, ông Định bước ra sân la lối và dọa sẽ kiện thầy Nguyên Lý ra tòa”. Một nguồn tin được xác nhận, vào tối ngày rằm tháng Giêng Kỷ Hợi, từ Thái Bình, ông Định đã quay trở lại Sài Gòn với toan tính sẽ cùng đoàn chư tăng chùa Vĩnh Nghiêm đến thỉnh an Đức Tăng thống trong vài ngày tới. Liệu đây sẽ là lần đe dọa thứ tư cho ‘áp giải’ Đức Tăng thống về lại Thái Bình? Hòa thượng Thích Quảng Độ: biểu tượng của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Với nhiều người dân miền Nam, Hòa thượng Thích Quảng Độ là biểu tượng của một nhà hoạt động vì quyền tự do tôn giáo. Sau tháng 4 năm 1975, Hòa thượng được chính quyền Hà Nội xem là một nhân vật bất đồng chính kiến cần phải cô lập. Ngài đã trải qua nhiều năm tháng tù đày, sách nhiễu. Ngài nhiều lần được chính giới quốc tế đề cử giải Nobel Hòa Bình vì đã dành cả cuộc đời tranh đấu bất bạo động cho công lý, hoà bình, nhân quyền, dân chủ. Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao Giải tưởng niệm Thorolf Rafto vinh danh các nhà hoạt động nhân quyền năm 2006. Cùng năm, Ngài được nhận giải Can Đảm vì Dân Chủ do Phong Trào Dân Chủ Thế Giới trao tặng. Trước đó, năm 2003, Ngài từng lãnh giải thưởng nhân quyền quốc tế Homo Homini cùng với  Hòa thượng Thích Huyền Quang và linh mục Nguyễn Văn Lý. Năm 1995, Ngài bị bắt giam và bị phạt 5 năm tù và 5 năm quản chế với cáo buộc “phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”. Dưới áp lực của Hoa Kỳ, Ngài được trả tự do năm 1998 và đến tá túc tại Thanh Minh Thiền viện, quận Phú Nhuận, Sài Gòn, trong tình trạng bị quản thúc dài hạn. Giữa tháng chín năm ngoái, Ngài bị buộc phải hồi hương quê nhà Thái Bình, nhưng chỉ thời gian ngắn sau đó, Ngài đã quay lại Sài Gòn. Hòa thượng Thích Quảng Độ từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả với một kho tác phẩm rất đáng kính nể: Kinh Mục Liên Sám Pháp; Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân; Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962 (truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân); Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962 (truyện); Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964; Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận; Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận; Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận; Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập); Phật Quang Đại Từ điển (9 tập); Chiến tranh và bất bạo động; Thơ trong tù (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 Mậu Ngọ); Thơ lưu đày (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân)…  
......

Ông Phạm Bình Minh không được Đức đón tiếp chính thức?

Minh Quân (VNTB) Dù chính thể độc đảng ở Việt Nam vẫn chưa chịu trả nguyên trạng Trịnh Xuân Thanh cho phía Đức, nhưng Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh vẫn có một chuyến công du quốc gia này vào hai ngày 20 và 21 tháng 2 năm 2019, mà rất có thể đó không phải là một chuyến thăm chính thức. Ngay cả báo chí nhà nước Việt Nam khi đưa tin về chuyến thăm trên cũng rất ngắn gọn và không hề dùng từ ‘thăm và làm việc chính thức’ như cái cách mà họ rất sính dùng cho những chuyến công du đối ngoại của giới chóp bu Việt Nam. Tin tức về một chuyến đi Đức của Phạm Bình Minh thực ra đã được tiết lộ cách đây vài tháng bỡi trang Thoibao.de (một trang tin của cộng đồng người Việt ở Đức) mà hẳn phải có thông tin từ phía Bộ Ngoại giao Đức. Theo Thoibao.de, việc tìm cách khôi phục toàn diện quan hệ ngoại giao Việt-Đức, kể cả quan hệ đối tác chiến lược mà bị phía Đức đình chỉ từ ngày 22/09/2017, sẽ là nhiệm vụ trọng tâm của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh trong chuyến đi thăm Đức (không chính thức) này. Nhưng tất cả những sự kiện cho thấy cho tới chừng nào điều kiện của phía Đức „phục hồi nguyên trạng tức là trả Trịnh Xuân Thanh về lại Đức“ chưa được đáp ứng, thì quan hệ giữa hai nước Đức – Việt chưa thể bình thường hóa hoàn toàn, đặc biệt là quan hệ đối tác chiến lược chưa thể được khôi phục. Thoibao.de cũng cho biết điều bất ngờ là đây không phải là chuyến đi thăm chính thức, tất cả những tờ báo khác ở Việt Nam cũng không ghi đó là chuyến đi thăm chính thức CHLB Đức của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh. Ngay cả Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Heiko Maas, người mà bản tin trên nói rằng đã mời Ngoại trưởng Phạm Bình Minh sang thăm Đức, cũng không có một cuộc gặp gỡ hay tiếp đón chính thức Phó thủ Tướng Phạm Bình Minh. Trong lịch hẹn chính thức của Bộ Ngoại giao Đức hoàn toàn không có đề cập gì đến chuyến viếng thăm của Ngoại trưởng Việt Nam vào 2 ngày 20 và 21/02/2019 sắp tới: Ảnh: Lịch hẹn chính thức của Bộ Ngoại giao Đức hoàn toàn không đề cập gì đến chuyến viếng thăm của Ngoại trưởng Việt Nam vào 2 ngày 20 và 21/02/2019. Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng không có được một cuộc gặp gỡ hay hội đàm chính thức với bà Thủ tướng Đức Merkel, người đứng đầu Chính phủ CHLB Đức. Người Đức chưa hề quên lãng vụ bắt cóc Vào tháng 1 năm 2019 - tròn một năm rưỡi sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã một lần nữa đề cập đến vụ này trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Slovakia Peter Pellegrini, khi bà Merkel đến thăm và tham dự cuộc họp của nguyên thủ quốc gia của 4 nước Đông Âu là Hungary, Slovakia, Cộng hòa Séc và Ba Lan tại Bratislava - thủ đô Slovakia. “Thưa bà Thủ tướng! Trong năm gần đây, người ta biết rằng một doanh nhân người Việt Nam bị bắt cóc tại Berlin. Sau đó cũng có sự tham gia của cơ quan chính phủ Slovakia vào vụ bắt cóc này. Bà nhận thấy như thế nào, liệu lòng tin và sự hợp tác giữa hai nước có bị ảnh hưởng hay không và bà đánh giá cuộc điều tra của Slovakia đã tiến triển làm sáng tỏ đầy đủ chưa?” - phóng viên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ), đặt câu hỏi. “Vâng, chúng tôi đã bàn thảo ngắn về vấn đề này, vì tất nhiên chúng tôi quan tâm đến việc làm sáng tỏ vụ việc. Nhưng tôi không nghi ngờ gì về việc Slovakia đang làm tất cả những điều cần thiết để làm rõ vụ bắt cóc” - Thủ tướng Đức Merkel trả lời trong cuộc họp báo sau hội đàm giữa 2 nước Đức và Slovakia vào tháng 1 năm 2019. Thông điệp tối thiểu mà bà Merkel muốn gửi đến chính quyền Việt Nam là người Đức vẫn kiên định nguyên tắc nhà nước pháp quyền và những đòi hỏi Việt Nam phải tôn trọng pháp luật Đức và trả Trịnh Xuân Thanh cho Đức dù Thanh rất có thể là một quan chức tham nhũng, phải xin lỗi và cam kết không tái phạm, bất chấp phía Việt Nam đã tìm cách ‘câu giờ’ hoặc đánh bài lờ trong suốt một năm rưỡi qua. Một thông điệp khác của bà Merkel mà có thể ngầm được hiểu là chiến dịch phối hợp giữa các cơ quan cảnh sát và công tố của Đức và Slovakia để điều tra vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc có thể đang đến hồi kết thúc, với những bằng chứng xác thực và đủ tính thuyết phục, để nếu Bộ Chính trị Việt Nam vẫn không chịu đáp ứng những đòi hỏi của Đức và Slovakia thì rất có thể sẽ là một cuộc họp báo liên quốc gia Đức - Slovakia để công bố những bằng chứng ấy cho toàn thế giới biết. Cho tới nay, vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vẫn hầu như chưa được phía Việt Nam giải quyết với Đức, khiến cho mối quan hệ Đức - Việt vẫn đóng băng, quan hệ đối tác chiến lược giữa Đức và Việt Nam vẫn bị tạm ngừng, các chương trình viện trợ của Đức cho Việt Nam bị tạm hoãn và kéo theo rất nhiều khó khăn cho giới doanh nhân Việt Nam sang Đức làm ăn và với giới Việt kiều sinh sống tại Đức. Từ sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017, chuyến đi Đức vào tháng 2 năm 2019 của Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh là lần đầu tiên Việt Nam đi với cấp bộ trưởng. Tuy nhiên những dấu hiệu ‘chuyến đi thăm không chính thức’ trước chuyến đi này lại cho thấy một hiện tồn và tương lai vẫn còn quá u tối: Đức có thể đã chấp nhận đề nghị của Việt Nam cử bộ trưởng ngoại giao sang Berlin để tiếp tục đàm phán về vụ Trịnh Xuân Thanh, nhưng đây có lẽ chỉ là một cuộc làm việc tay đôi mà không phải chính thức, bởi người Đức chỉ muốn biết một ủy viên bộ chính trị Việt Nam có đưa ra bất kỳ chỉ dấu nào để chuyển hứa hẹn thành hành động cụ thể, chứ không phải quá nhiều cam kết và hứa hẹn trước đây của Việt Nam nhưng cho tới nay vẫn chưa có bất cứ lời hứa nào được thực hiện. Cũng có một ẩn ý khác của Nguyễn Phú Trọng khi cử Phạm Bình Minh đi Đức lần này: sau khi EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam) bị Hội đồng châu Âu hoãn phê chuẩn vô thời hạn mà nguồn cơn thực chất là Việt Nam vi phạm trầm trọng nhân quyền, Bộ Ngoại giao Việt Nam lại một lần nữa tìm cách vận động những quốc gia có ảnh hưởng lớn đến Liên minh châu Âu như Đức. Vì thế vấn đề EVFTA nhiều khả năng được Phạm bình Minh nêu ra với Đức trong chuyến đi lần này. Tuy thế: ‘nhiều lần bất tín, vạn lần không tin’. Đến giờ thì chẳng có gì bảo đảm là người Đức sẽ bị phía Việt Nam ma mị để gật đầu dễ dãi cho một EVFTA mà sẽ mang lại nguồn lợi rất lớn cho một chính thể độc trị và chà đạp nhân quyền tàn bạo./.
......

Đảng CSVN: Cái mụn nhọt cuối cùng!

Việt Tân Trước và sau Công Nguyên, gần như toàn cõi Châu Âu nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã, một đế quốc kéo dài cả chục thế kỷ và bao trùm khoảng một phần năm (1/5) diện tích thế giới. Sức mạnh quân sự, và ngay cả nền văn minh La Mã thời bấy giờ bao trùm cả một cõi. Gót giày của những đoàn quân La Mã, với thiên tài điều binh của các danh tướng sẵn sàng dẫm nát bất cứ một sự kháng cự nào. Một đế quốc hùng mạnh và vĩ đại như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, nhưng rồi cũng sụp đổ. Khoảng 6 thế kỷ sau, tại Á Châu, xuất hiện một đế quốc khác là Đế Quốc Mông Cổ, kéo dài hơn 1 thế kỷ (thứ 13 và 14) với diện tích rộng lớn gấp 4 lần Đế Quốc La Mã. Người Mông Cổ là dân du mục, cả đời ngồi trên lưng ngựa, và quân đội hùng mạnh, đánh đâu thắng đó khiến người đời gán cho họ câu nói nổi tiếng là “Quân Mông Cổ bách chiến bách thắng, vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó.” Một đế quốc vĩ đại và hùng mạnh như vậy, tưởng chừng như không gì có thể lay chuyển được, rồi cũng sụp đổ. Đầu thế kỷ 20 lại xuất hiện một “đế quốc” mới. Đó là “Đế Quốc Cộng Sản”! Bản chất của “đế quốc” này rất đặc biệt, khác xa với những đế quốc trước đó. Tuy không mang quân đi chinh phạt và chiếm đất nhưng thực tế lại chiếm được nhiều đất và làm chết nhiều người gấp cả trăm lần các đế quốc trước đó. Vũ khí của họ là sự tàn bạo kết hợp với dối trá, biến cả thế giới cộng sản thành một địa ngục trần gian. Nhưng, một lần nữa, đế quốc đỏ này tưởng chừng như có sức mạnh vĩnh cửu, nhưng lại mau chóng sụp đổ không đầy một thế kỷ sau đó. Nếu ngày xưa nước Việt Nam may mắn vì ở xa không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc La Mã. Và nhất là ngày xưa, nhờ tiền nhân với các anh thư anh hùng tài giỏi yêu nước thương dân mà Việt Nam đã không nằm dưới sự thống trị của Đế Quốc Mông Cổ. Thì Việt Nam ngày nay, với những hậu duệ vong bản đớn hèn, vừa tham lam vừa tàn bạo, bán nước buôn dân, đã đưa cả đất nước vào vòng thống trị của Đế Quốc Cộng Sản, đến nay đã gần 1 thế kỷ và làm hao tổn sinh mạng của nhiều triệu con dân vì mớ chủ nghiã hão huyền của nó. Nhắc lại 3 cái đế quốc ở trên là để nói đến cái điểm chung của chúng. Đó là lòng tham của con người, được nuôi dưỡng trong những bộ óc hoang tưởng tự đại, gặp lúc gặp thời sinh ra những đế quốc giết người, chỉ để phục vụ cho lòng tham, lợi ích của một số cá nhân và đi ngược lại quyền lợi của nhân loại với bao nhiêu tỉ con người. Theo số liệu của (Tổ Chức Tưởng Nhớ Nạn Nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản (Victims of Communism Memorial Foundation), thì đã có hơn 100 triệu (riêng Trung Cộng 65 triệu, Liên Xô 30 triệu) người chết vì bị Cộng Sản giết hại qua đấu tố, thanh trừng, giết trực tiếp, thủ tiêu, đói chết… không kể hàng bao nhiêu triệu người khác chết trong những cuộc chiến do chủ nghiã cộng sản gây ra. Thật khủng khiếp và kinh hoàng! Julius Caesar, nhà chính trị và quân sự đại tài và nổi tiếng nhất của Đế Quốc La Mã, sau một chiến thắng quân sự đã cao hứng để lại cho đời một phát ngôn nổi tiếng: “Veni, vidi, vici” có nghiã là “Tôi đến, tôi thấy, tôi chinh phục”. Cho dù câu nói của Caesar có chứng tỏ tài năng của Caesar cách mấy thì đó cũng chỉ là của Caesar, chẳng ích lợi gì cho ai. Khi toàn thể đất nước Việt Nam rơi vào vòng thống trị của cộng sản thì cũng đã có nhiều con tim yêu nước, ngay từ trong quốc nội cũng như từ khắp các nẻo đường thế giới hải ngoại cất bước lên đường. Họ “đã đến, đã thấy”. Họ không đến để chinh phục với tham vọng dựng nên một đế quốc. Họ lên đường đơn giản chỉ vì tấm lòng yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương. Họ đến với ước vọng đập tan đi cái đế quốc đang nghiền nát cuộc sống và cướp đi sinh mạng của hàng triệu triệu đồng bào thương yêu của họ. Rất nhiều người đã nằm xuống, nhiều người khác vẫn đang quằn quại trong lao tù khổ ải. Đó là những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, những Nguyễn Văn Lý, Thích Quảng Độ, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Trần Huỳnh Duy Thức, Trần Thị Nga, Lê Đình Lượng, … và rất nhiều những anh hùng anh thư khác thời nay. Họ là những viên đá lót đường cho những người kế tiếp bước đi vì tương lai dân tộc đã rất gần. Noi gương những người đi trước, Châu Văn Khảm cũng đã lên đường để góp phần bé nhỏ của mình cho công cuộc chung. Anh cũng “đã đến”! Nhưng Châu Văn Khảm không cần phải đến tận nơi để “thấy” vì bản thân là một người tị nạn vượt thoát chế độ Anh thừa hiểu rõ thế nào là “độc lập”, thế nào là “tự do dân chủ”, và thế nào là “nhân quyền” của cộng sản. Anh đến là để hoà mình cùng những người con yêu khác của Tổ Quốc và để nói cho đồng bào của Anh, cho cả thế giới, và cho những người cộng sản biết rằng qua việc bắt giam cá nhân Anh, chính những người cộng sản là những người đang sợ và ngày tàn của chế độ đang được đếm từng ngày. Người ta vẫn nói là “cộng sản chỉ phá thì giỏi”! Xem ra rất đúng! Cộng sản không chỉ còn phá đất nước, phá đối phương, mà phá cả chính họ với hàng loạt những lỗi lầm chết người, khi liên tục tự bắn vào chân mình. Người Việt Nam đang sống những ngày tháng cuối cùng của cái đế quốc thối nát này và sắp chứng kiến sự sụp đổ toàn diện của nó tại Việt Nam. Lịch sử cho thấy bất cứ cường quyền nào cũng sụp đổ, khi dân tộc đó đứng dậy. Vì thế, ta có thể ví đảng CSVN cũng chỉ là cái mụn nhọt cuối cùng trên thân thể Việt Nam mà những người Việt Nam yêu nước đang nỗ lực cắt bỏ.
......

Dân biểu Úc Luke Donnellan: Ông Châu Văn Khảm và Ông Nguyễn Văn Viễn phải được trả tự do

Việt Tân Thêm một tiếng nói từ chính trường Úc đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải trả tự do cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Dân Biểu Luke Donnellan là một chính trị gia thuộc Đảng Lao Động Tiểu Bang Victoria, Úc Châu, và là một gương mặt quen thuộc đối với cộng đồng người Việt tại Úc Châu nói chung. Ông luôn quan tâm về tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN và luôn lên tiếng can thiệp khi cần. Trước đây cá nhân Ông đã từng đến Việt Nam để tìm hiểu và tự trải nghiệm về tình trạng đàn áp dân chủ, bóp nghẹt tự do phát biểu của nhà cầm quyền CSVN. Nay, một lần nữa, Ông lại lên tiếng về việc ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn bị bắt giam phi pháp qua việc gửi thư cho Chủ Tịch Nước CHXHCN Việt Nam là ông Nguyễn Phú Trọng đòi Việt Nam phải trả tự do tức khắc cho hai nhà hoạt động nhân quyền này. Dưới đây, chúng tôi xin gửi đến quý vị bản dịch và phóng ảnh lá thư của Dân Biểu Luke Donnellan — Kính gởi: Chủ Tịch Nước Việt Nam Ông Nguyễn Phú Trọng 16 Đường Lê Hồng Phong Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam Ngày 14/2/2019 Thưa Ông Nguyễn Phú Trọng V/V: MỘT ĐẢNG VIÊN ĐẢNG VIỆT TÂN TẠI ÚC CHÂU BỊ GIAM GIỮ Ở VIỆT NAM Tôi viết thư này liên quan đến ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc Đại Lợi, và là một thành viên nổi tiếng của cộng đồng người Việt tại Sydney. Tôi được biết ông Châu Văn Khảm đã bị bắt giữ vào ngày 13/1/2019 khi tiếp xúc với ông Nguyễn Văn Viễn, một công dân Việt Nam và thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ. Đến nay, đã hơn 2 tuần lễ, ông Khảm đã hoàn toàn bị mất liên lạc và không được tiếp xúc với Lãnh Sự Quán Úc cũng như ông Nguyễn Văn Viễn. Ông Châu Văn Khảm từ lâu đã là một nhà hoạt động dân chủ, làm việc cùng với xã hội dân sự tại Việt Nam cũng như vận động nhân quyền với chính giới tại Canberra. Gần đây, vào đầu tháng Giêng, qua ngả Cao Miên, Ông trở về Việt Nam trong một chuyến đi tìm hiểu về nhân quyền. Đảng Việt Tân và gia đình ông Châu Văn Khảm có liên lạc chặt chẽ với Bộ Ngoại Giao và các Dân Biểu Quốc Hội Úc, và tôi kêu gọi việc trả tự do tức khắc cho ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn. Trân trọng, Luke A Donnellan MP Dân Biểu vùng Narre Warren North Bộ Trưởng Bộ Bảo Vệ Trẻ Em Bộ Trưởng Bộ Khiếm Tật, Cao Niên & Người Chăm Sóc. — Phóng ảnh bức thư của DB Luke Donnellan:
......

Dân Biểu Liên Bang Úc Châu Anne Aly lên tiếng đòi tự do cho ông Châu Văn Khảm

Việt Tân   “Ông Châu Văn Khảm phải được trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện” Việc nhà cầm quyền CSVN vô cớ bắt giam ông Châu Văn Khảm, một công dân Úc gốc Việt, một nhà hoạt động dân chủ ôn hoà, tiếp tục dấy động sự bất bình của dư luận tại Úc Châu và cộng đồng người Việt khắp nơi. Tiếp tiếng nói của một số chính trị gia Úc, Tiến Sĩ Anne Aly, một dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu, vừa gửi thư cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Úc là Thượng Nghị Sĩ Marise Payne để yêu cầu nước Úc can thiệp để bảo đảm sức khoẻ và sự an toàn của ông Khảm, và đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải lập tức trả tự do vô điều kiện cho ông Khảm. Tiến Sĩ Anne Aly là nữ dân biểu Quốc Hội Liên Bang Úc Châu đầu tiên theo Đạo Hồi. Bà cũng là một chuyên gia từng làm việc trong lãnh vực chống khủng bố. Dưới đây là thư của Tiến Sĩ Anne ALy. BBT Web Việt Tân * Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang địa hạt Cowan Kính gửi Thượng Nghị Sĩ Marise Payne Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao PO Box 6100 Senate, Parliament CANBERRA ACT 2600 VỀ VIỆC: CÔNG DÂN ÚC BỊ GIAM GIỮ TẠI VIỆT NAM Tôi viết thư để bày tỏ mối quan tâm của tôi về tình hình của ông Châu, một công dân Úc hiện đang bị giam giữ tại Việt Nam. Tôi đã được một thành viên của Việt Tân thông báo rằng ông Châu − năm nay 69 tuổi − là một người đấu tranh cho dân chủ, đã bị bắt tại Sài Gòn vào ngày 13/1/2019 và các điều kiện giam giữ có thể đang ảnh hưởng đến sức khỏe của ông. Ông Châu đã bị bắt trong khi gặp một nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cáo buộc ông ta đã phạm tội và vì thế ông đã không được phép tiếp xúc với luật sư. Tôi cảm thông với những lo lắng của gia đình ông Châu về các vấn đề sức khỏe của ông trong thời gian bị giam giữ này. Chính vì thế, tôi mong bà − trong phạm vi có thể − quan tâm đến những việc như sau: − những hành động mà Bộ Ngoại giao và Thương mại (DFAT) đang thực hiện để bảo đảm việc trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho ông Châu. − những hành động mà DFAT đang thực hiện để bảo đảm sức khỏe và quyền lợi cho ông Châu trong thời gian bị giam giữ. − rộng hơn, những hành động mà chính phủ Úc đang thực hiện để bảo đảm sự an toàn và sức khỏe của tất cả công dân Úc tại Việt Nam. Tôi ước mong bà dành thời gian để xem xét vấn đề này và mong chờ phản hồi của Bộ Trưởng. Trân trọng Tiến Sĩ Anne Aly Dân Biểu Liên Bang 19/2/2019 * Lá thư của Dân Biểu Anne bằng Anh ngữ: Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan Shop 3 168 Wanneroo Road Madeley WA 6065 PO Box 219 Kingsway WA 6065 T: (08) 9409 4517 Senator the Hon Marise Payne Minister for Foreign Affairs PO Box 6100 Senate, Parliament House CANBERRA ACT 2600 Dear Minister RE: AUSTRALIAN CITIZEN DETAINED IN VIETNAM I am writing to express my concerns about the situation of Mr Chau Van Kham, an Australian citizen who is currently detained in Vietnam. I have been advised by members of Viet Tan that Mr Chau, a 69-year-old democracy advocate, was arrested in Saigon on 13 January 2019 and that the conditions of his detention may not adequately address his health concerns. I understand that Mr Chau was arrested while meeting with a Vietnamese civil society activist, and has subsequently been denied access to legal representation due to the nature of the crimes that the Vietnamese Government alleges he has committed. I further understand that Mr Chau’s family has concerns about whether his health issues can be adequately managed during this period of detention. With this in mind, I request that you advise, to the extent possible, as to: the actions that the Department of Foreign Affairs and Trade (DFAT) is taking to secure the immediate and unconditional release of Mr Chau; the actions that DFAT is taking to ensure Mr Chau’s health and wellbeing during his detention; and more broadly, the actions that the Australian Government is taking to ensure the safety and health of all Australian citizens in Vietnam. I appreciate your taking the time to consider this matter and look forward to your response. Yours sincerely Dr Anne Aly MP Federal Member for Cowan 19 FEB ZUS
......

Chính quyền Tp HCM phải trả lư hương về vị trí cũ

Nguyễn Tường Thụy - RFA Không phải ngẫu nhiên mà vào đúng ngày kỷ niệm 40 năm Trung Cộng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam, Quận 1 Tp HCM cho xe rác vây quanh tượng đài Trần Hưng Đạo ở phường Bến Nghé, sực mùi xú uế, dùng vật chắn, dây dợ vây quanh tượng đài, đặt biển báo công trường đang thi công để ngăn chặn người dân đến thắp hương. Sự phẫn nộ của dư luận đang dâng lên từng giờ thì táo tợn hơn, cùng ngày, quận này lại cho cẩu lư hương đi chỗ khác, đẩy sự giận dữ trong công chúng lên ngùn ngụt. Mọi lời giải thích từ nhà chức trách Quận 1 không có lý do nào thuyết phục, rằng đặt lư hương ở nơi công cộng không phù hợp với tâm linh của người Việt, rằng cẩu đi để đặt lư hương vào đúng vị trí thờ phụng. Ngay lập tức, cư dân mạng không khó để tìm ra rất nhiều tượng đài kèm lư hương đặt ở nhiều nơi. Đó là Tượng đài Trần Hưng Đạo ở Nha Trang, Quy Nhơn, Vũng Tàu, đảo Nam Yết, đảo Song Tử Tây, Hải Dương. Tượng Hồ Chí Minh kèm lư hương còn nhiều hơn, hầu như tỉnh thành nào cũng có. Có người chỉ nhoằng một cái đã kê ra ảnh một loạt tượng đài Hồ Chí Minh kèm lư hương ở Công an tỉnh Ninh Bình, ở quảng trường TP. Cam Ranh, TP Vũng Tàu, ở khuôn viên Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội, ở Kho 205 Bộ Quốc phòng... Xin hỏi lãnh đạo Tp HCM và Quận 1, phải chăng, những lư hương kèm theo các tượng đài này đều đặt không phù hợp và cần di dời? Phải chăng, lư hương trước những tượng đài như thế này đặt không đúng vị trí, cần phải di dời? Từ khi xây dựng năm 1967 đến nay, tượng đài Trần Hưng Đạo nói trên đã trở thành thiêng liêng, gắn với tâm linh người dân Sài Gòn, là biểu tượng cho tinh thần chống ngoại xâm của cha ông ta. Thế mà chỉ có vài người mà dám bàn nhau cẩu lư hương đi như thể mang đi một thứ đồ gốm. Đây là một sự hỗn láo, xấc xược với tiền nhân, không thể dung thứ. * Có thật là tượng đài Trần Hưng Đạo đặt không đúng chỗ nên phải di dời cho đúng vị trí? Trước ngày 17/2, Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng thông báo sẽ đến tượng đài Trần Hưng Đạo thắp hương tưởng niệm liệt sĩ đã hy sinh trong chiến đấu chống quân TQ xâm lược nhân kỷ niệm 40 năm chiến tranh Trung - Việt. Ngày 17/2, nhiều người trong Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng bị canh giữ không cho đến nơi tưởng niệm, một số người đến được tượng đài lập tức bị áp giải trở về. Nơi đây cũng là địa điểm mà các tổ chức xã hội dân sự thường đến thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Cộng hàng năm hoặc làm nơi hẹn mỗi khi kêu gọi biểu tình. Vì vậy, có thể khu vực tượng đài Trần Hưng Đạo có ấn tượng không thiện cảm đối với nhà cầm quyền. Việc dỡ bỏ lư hương phải chăng xuất phát từ việc ngăn chặn bọn “phản động” đến thắp hương cho liệt sĩ chống Tàu và cha ông đã từng đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, làm mếch lòng anh bạn vàng Trung Quốc? Phải chăng, do Trần Hưng Đạo là vị tướng tài ba lỗi lạc, đã từng đánh cho quân Nguyên không còn mảnh giáp, Thoát Hoan phải chui ống đồng tháo chạy, để lại nỗi nhục nhã muôn đời cho kẻ thù xâm lược? Luận điệu cẩu lư hương đi để đưa về đúng vị trí thờ phụng là không thể chấp nhận. Có phải hàng trăm lư hương đặt kèm tượng đài ở khắp nơi đều “không phù hợp” cần phải dỡ bỏ đưa về “đúng vị trí”? Có người còn lo rồi đây, các quận huyện khác học theo quận 1, các tỉnh thành khác học theo Tp HCM dẫn đến một cuộc càn quét lư hương ở các tượng đài nơi công cộng. Liên quan đến việc cẩu lư hương ở tượng đài Trần Hưng Đạo, một trang báo cho biết, “ngày 15-1-2019, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thị Thu đã có văn bản giao UBND quận 1 thực hiện việc tu sửa, tôn tạo công trình tượng đài Trần Hưng Đạo và tượng đài Thánh Gióng".  Hôm nay, sau 3 ngày văn bản này được thực thi, báo chí đồng loạt đưa tin bà Nguyễn Thị Thu từ trần. Dư luận đang xôn xao cho rằng 2 sự việc có liên quan đến nhau, là hậu quả của việc báng bổ thánh thần. Tôi không khẳng định trường hợp này nhưng tin rằng quả báo là có thật. Lựa chọn khôn ngoan nhất cho chính quyền quận 1 và Tp HCM là xin lỗi nhân dân, trả lư hương về vị trí cũ và thắp hương ăn năn trước Đức Thánh Trần./.
......

Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979: Tội ác của đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc

Nguyễn Văn Đài – RFA Khi xem xét và nghiên cứu các tài liệu lịch sử thì cho chúng ta thấy rất rõ ràng là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc kể từ năm 1950 cho tới nay về bản chất cũng như thực chất là quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) và đảng Cộng sản Trung Quốc (CSTQ). Và cuộc xâm lược biên giới phía Bắc của Việt Nam vào năm 1979 thực chất là cuộc chiến tranh giữa đảng CSVN và đảng CSTQ, mà Nhân dân và bộ đội của hai nước vừa là công cụ và là nạn nhân của sự điên rồ của hai đảng CSVN và CSTQ. Lúc đó bộ máy tuyên truyền của CSVN gọi CSTQ là bọn bành trướng, bá quyền. Còn CSTQ gọi CSVN là bọn tiểu bá vì lúc đó CSVN tấn công cộng sản Campuchia (Khmer Đỏ). Tại sao tôi lại nói đó là cuộc chiến tranh giữa CSVN và CSTQ? Cả Việt Nam và Trung Quốc đều bị cai trị bởi sự độc đoán và chuyên quyền của đảng CSVN và đảng CSTQ. Nhân dân hai nước bị hai đảng CS tước đoạt tất cả các quyền tự do và dân chủ. Nhân dân hai nước không có quyền để tham gia lựa chọn hay quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như thể chế chính trị, kinh tế, quan hệ đối nội, đối ngoại, chiến tranh hay hòa bình,… Đảng CSVN và đảng CSTQ quyết định và định đoạt mọi công việc, mọi chính sách trong nước cũng như quan hệ quốc tế theo những cuồng vọng điên rồ của họ mà họ chẳng cần quan tâm đến sự an nguy hay mong muốn của Nhân dân. Nhân dân chỉ có nghĩa vụ phục tùng và làm theo. Ai phản đối hay chống đối thì bị vu cho là “phản động” và bị bắt cầm tù. Thời điểm đó giữa CS Liên Xô và CS Trung Quốc đã trở mặt từ bạn thành thù được gần 20 năm. Hai đảng CSLX và CSTQ đang cạnh tranh ảnh hưởng gay gắt với nhau trên bình diện quốc tế. Khi đảng CSVN chọn CS Liên Xô làm bạn, và coi đảng CSTQ là kẻ thù. Đảng CSVN quyết định dùng quân đội tấn công CS Campuchia đã tạo nên một phần lý do dẫn tới việc đảng CSTQ dùng quân đội xâm lược Việt Nam. Và theo tuyên truyền của đảng CSTQ và cũng là thực chất của cuộc chiến đó là “đảng CSTQ dạy cho bọn tiểu bá CSVN một bài học.” Và hiển nhiên Nhân dân và đất nước Việt Nam trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của bài học mà đảng CSTQ muốn dạy đảng CSVN. Hậu quả của cuộc chiến tranh ngắn ngủi đó là khoảng 30 ngàn dân thường và binh lính Việt Nam thiệt mạng, tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn, cơ sở hạ tầng của 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn. Chưa kể trong hơn 10 năm CSVN chiếm đóng tại Campuchia, đã có khoảng 200 ngàn binh lính Việt Nam hy sinh tại đó, hàng trăm ngàn binh lính bị thương tật vĩnh viễn. Nền kinh tế và nguồn lực của Việt Nam bị vắt kiệt trong suốt thời kỳ đó. Nhân dân đói khổ lầm than. Trong các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, tất cả đều do mâu thuẫn giữa các đảng CSVN với đảng CSTQ. Rất nhiều các cựu quan chức ngoại giao của CSVN và các nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa ra nhận định rằng đất nước và Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể tránh được cả hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc nếu sau 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản VN lúc đó không ngông cuồng và ngạo mạn, đồng thời lựa chọn cho đất nước và dân tộc Việt Nam một thể chế chính trị dân chủ và có mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp với phương Tây. Nhưng bản chất của CSVN là vậy, dùng bạo lực để cướp chính quyền bằng mọi giá, khi đã cướp được chính quyền thì tước đoạt mọi quyền lực của Nhân dân và áp đặt sự cai trị chuyên chế, tiêu diệt và triệt tiêu mọi thành phần đối kháng trong xã hội. Để kết thúc bài viết này, một lần nữa tôi khẳng định rằng cuộc xâm lược của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam năm 1979 thực chất là cuộc chiến của đảng CSVN và đảng CSTQ. Trong đó quân đội và Nhân dân hai nước vừa là công cụ vừa là nạn nhân của cuộc chiến tranh đó. Những mất mát, hy sinh của quân đội và Nhân dân hai nước là do tội ác của đảng Cộng sản VN và đảng CSTQ gây ra./.  
......

Việt Nam “ghim” Đài Á Châu Tự Do

Libby Liu - The Wall Street Journal Việt Nam đang thắt chặt sự kiểm soát những người bất đồng chính kiến và nhắm vào các ký giả. Khi tới Hà Nội vào tuần tới để họp thượng đỉnh với Lãnh Tụ Bắc Hàn, Tổng Thống Trump cần nêu lên với gia chủ về số phận của hai ký giả người Việt đang cộng tác với Đài Á Châu Tự Do (RFA), là một cơ quan truyền thông được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, do tôi điều hành. Blogger nổi tiếng Trương Duy Nhất đã mất tích từ hơn 3 tuần nay kể từ ngày ông ta rời nhà ở Đà Nẵng, Việt Nam, đào thoát sang tị nạn tại nước láng giềng Thái Lan. Chúng tôi quan ngại rằng ông Nhất đã bị bắt cóc mang về Việt Nam để giam giữ và tra hỏi. Ông Nhất, 55 tuổi, đã từng bị nhà nước chú ý. Ông bị bắt vào năm 2013 và đã ở tù 2 năm vì những bài viết chỉ trích các lãnh đạo Đảng Cộng Sản cầm quyền. Khi được thả vào năm 2015 Ông bắt đầu cộng tác với Đài Á Châu Tự Do, phát thanh và phổ biến qua 9 ngôn ngữ đến 6 quốc gia Á Châu nơi thiếu tự do phát biểu. Theo những nhà hoạt động dân chủ Việt Nam thì ông Nhất đã lo ngại là bị các nhân viên an ninh Việt Nam theo dõi vì nghi ngờ ông Nhất nắm giữ thông tin bất lợi đối với Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc. Nguồn tin cho biết ông Nhất đã xin tị nạn vào ngày 25/1 với Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Bangkok. Tuy nhiên, chính phủ Thái Lan nói họ không có hồ sơ liên quan đến việc ông Nhất vào Thái Lan, và ông Nhất biệt tăm kể từ ngày 26/1. “Không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam giữ im lặng liên quan đến trường hợp này. Việt Nam đang giam giữ nhiều tù nhân chính trị”, ông Nguyễn Kim Bình thuộc Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tại California nói. “Một trong những tù nhân là ông Nguyễn Văn Hoá thuộc Đài Á Châu Tự Do.” Ông Hoá, năm nay 23 tuổi, đã phá vỡ bức màn bưng bít thông tin vào năm 2016 khi tường trình về những cuộc biểu tình liên quan đến việc xả thải chất độc ô nhiễm. Ông Hoá bị bắt vào Tháng 1, 2017 với cáo buộc “tuyên truyền chống phá nhà nước” và bị tuyên án 7 năm tù giam mà hiện ông đang thụ án. Trong một lá thư ông Hoá đã tiết lộ với gia đình là Ông bị đánh đập liên tục trong tù và bị ép thú nhận những điều không có thật mà nhà cầm quyền Việt Nam dùng để kết tội một nhà hoạt động môi trường khác. Ông Hoá đã rút lại lời khai tại một phiên toà vào Tháng 8 vừa qua, việc làm có xác suất khiến ông phải chịu những đợt tra tấn mới. Một thông điệp mạnh mẽ từ ông Trump tại Hà Nội về số phận ngặt nghèo của các ký giả Đài Á Châu Tự Do kể trên sẽ là tiếng vang ở cả trong và ngoài Việt Nam. Đó là một thông điệp cần được nghe; chính phủ các quốc gia trong vùng đang sử dụng những phương thức trấn áp để hăm dọa chúng tôi. Đài Á Châu Tự Do đã phải đóng cửa Văn Phòng tại Cao Miên vào năm 2017 sau một đợt trấn áp giới truyền thông độc lập. Hai phóng viên của chúng tôi đã bị vu cáo tội gián điệp và đã bị tù giam 9 tháng với bản án vẫn còn treo trên đầu. Ở Trung Quốc, hàng mấy chục thân nhân gần của các phóng viên của Đài Á Châu Tự Do Dịch Vụ Duy Ngô Nhĩ hiện đang bị giam giữ trong các trại tại Xinjiang (Tân Cương), nơi chúng tôi đã làm phóng sự tường trình về tình trạng đàn áp người thiểu số Hồi Giáo. Trong bối cảnh u ám này, đây là cơ hội để ông Trump cho những quốc gia độc tài ở Châu Á biết là Hoa Kỳ sẽ bảo vệ quyền tự do truyền thông và bênh vực quyền tự do phát biểu. Bà Libby Liu là Chủ Tịch của Đài Á Châu Tự Do Nguyên bản Anh ngữ đăng trên The Wall Street Journal ngày 19/2/2019: https://www.wsj.com/articles/vietnam-takes-aim-at-radio-free-asia-11550619921  
......

Sổ tay thường dân Tưởng Năng Tiến – Đi & về

Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam. (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) Chiều về trên xứ lạ Cười nụ cười Anglais Buồn qua hơi thuốc Thái Thèm một phin cà phê Chiều về trên xứ lạ Xe ngược xuôi trăm đường Trăm ngàn khuôn mặt lạ Mong một người đồng hương Tôi viết những câu thơ trên khi đến thủ đô Bangkok lần đầu, vào một chiều hè, năm 1980. Mấy mươi năm sau tôi trở lại nơi này với nụ cười Anglais cố hữu nhưng thuốc lá Thái đã biến mất khỏi thị trường, và “người đồng hương” thì xuất hiện (hơi nhiều) khắp mọi nơi. Theo Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Lan (Học Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á – The Institute of Southeast Asian Studies) có hơn năm trăm ngàn lao động Việt Nam ở nước ngoài, trong số này khoảng 50 ngàn người đang làm việc tại Thái Lan. Phần lớn đều “làm chui,” và được gọi một cách lịch sự là những công nhân không có giấy tờ – undocumented workers. Họ lầm lũi đẩy những chiếc xe bán nước dừa, hay bán trái cây trên đường phố. Họ tất bật quét dọn, lau chùi, bưng bê trong những quán ăn bình dân chật chội và nóng bức. Họ nhễ nhại mồ hôi giữa những công trường bề bộn. Tất cả đều rất cần cù, nhẫn nại, chắt chiu và (vô cùng) chịu thương, chịu khó. Tuy thế, gần như không ai kiếm được quá năm trăm Mỹ Kim mỗi tháng nhưng ai cũng dành dụm phân nửa (hoặc hơn) số tiền nhỏ nhoi này để gửi về quê cho gia đình, hay chòm xóm, ở một làng quê nào đó thuộc Nghệ An hay Hà Tĩnh. Bên thủ đô Vientiane cũng thế, theo lời của thông tín viên (RFA) Anh Vũ: “Đất nước Lào nhỏ bé chỉ với 7 triệu dân, song lại là nơi có rất đông người Việt Nam tìm đến để cư trú và làm việc trong điều kiện là lao động bất hợp pháp… Hiện nay số người lao động VN sang Lào làm việc có khoảng chừng 40 ngàn. Họ thường làm các nghề trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất chế biến đồ gỗ, bán hàng rong, làm thuê, sửa xe …” Nhóm Phóng Viên Tường Trình Từ Việt Nam cho biết thêm: “Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê… Hầu hết những người trốn sang đất Lào để làm thuê đang độ tuổi lao động hoặc đang tuổi học sinh phổ thông trung học, nhiều em đã bỏ ngang việc học để tìm đường dây trốn sang Lào làm thuê.” Tuần rồi, tôi tình cờ gặp gỡ một người đồng hương tại đền thờ Phap Tha Luan. Em mời mua kem nhưng khi thấy mặt tôi ngớ ra vì không hiểu tiếng Lào nên liền gặn hỏi: – Chú người Việt à? – Yes! Tuy tôi bất giác trả lời một cách ngớ ngẩn bằng tiếng Anh nhưng vẫn được đáp nhận bằng một nụ cười tươi vui, hớn hở. Thái độ thân thiện của em cũng khiến tôi cảm thấy ấm lòng, và nhẹ nhõm. Sau đôi ba câu thăm hỏi thân tình, sợ em bận bán hàng, tôi ngỏ ý mời em ăn tối để có dịp trò chuyện nhiều hơn. Phap Tha Luan, Vientiane 2019 Chúng tôi hẹn nhau ở quán ăn Việt Nam, Bê Thui Sài Gòn. Em đến rất đúng giờ cùng vợ với một bé trai. Quê hai em ở Thủy Nguyên, Hải Phòng. Chỉ sau một chuyến “tham quan” nước Lào là vợ chồng quyết định từ bỏ xứ Việt luôn. – Ở bên này thoải mái, và dễ chịu hơn nhiều chú ạ. Vì con chưa đến tuổi đến trường, cháu gái na thằng bé theo khi đi quanh quẩn cắt móng chân và móng tay dạo mỗi ngày trong Khu Chợ Sáng (Morning Market) trên đường Lane Xang. Cũng kiếm đủ tiền ăn và tiền trọ. Còn lợi tức nhờ bán kem thì dành dụm với dự tính sẽ thuê được một nơi tươm tất để mở tiệm làm móng tại nhà. Ước vọng gần nhất là cả nhà sẽ đi du lịch Myanmar một chuyến. Xa xôi hơn là giấc mơ lớn, khi có điều kiện, sẽ trở về quê hương để làm việc từ thiện ở những bản làng miền núi. Khi tôi hỏi sao không về luôn thì cả hai đều lắc đầu quầy quậy, với một nụ cười buồn. Tôi chưa bao giờ có cơ hội đặt chân đến Hải Phòng, chỉ được biết vài nhân vật nổi tiếng ở nơi đây vì những nỗi gian truân của họ với chế độ hiện hành: Vũ Cao Quận, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Hoài Thanh, Lê Chí Quang, Phạm Thanh Nghiên, Lê Trí Tuệ, Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Qúi … Tuy thế, tôi tin là mình hiểu tâm cảm và quyết định của hai em vì chính tôi cũng rời bỏ đất nước khi tóc hãy còn xanh và chưa bao giờ trở lại. Chiều hôm sau tôi được mời cơm tại nhà, với thực đơn đặt sẵn: đậu phụ rán mỡ hành, rau muống luộc dầm cà chua, chấm với nước mắm chanh và ớt. Đó là những món thức ăn mà theo tôi là … ngon tuyệt cú mèo, nếu có chút rượu đi kèm. Hai thanh niên trong nhóm công nhân đến từ Thừa Thiên Huế làm phụ hồ tại công trường Đại học ChămPasack, bên Lào. Ảnh & chú thích lấy từ RFA Dù đã sống qua nhiều thứ trại ̣(trại lính, trại tù, trại tị nạn …) tôi vẫn cảm thấy hơi ái ngại khi bước vào nơi cư trú của đôi vợ chồng trẻ măng này. Cứ y như cảnh sống trong thơ của Lưu Quang Vũ: Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi Đêm nằm mơ, em quờ tay là chạm phải thùng gạo Ô tường nhỏ treo tranh và phơi áo Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình Hai em giúp cho tôi hiểu và thêm tin tưởng rằng hạnh phúc hay đau khổ của chúng ta tuỳ thuộc rất nhiều vào nhận thức, và nhận thức luôn luôn là nhận thức về cái tương đối. Sinh sống như thế mà cả hai cứ suýt xoa mãi là mình may mắn, may là tìm được kế sinh nhai nơi xứ lạ và công việc lại không quá nặng nhọc. Mà sự thực thì đúng vậy nếu so với nhiều người đồng cảnh khác. Tính hồn nhiên và đôn hậu của hai em khiến tôi thốt nhớ đến tâm sự của một nhà văn, cũng từ Thành Phố Cảng: “Thế hệ nào cũng có người đáng yêu, tài năng, tâm huyết. Sự cảm thông giữa con người, giữa các thế hệ là rất lớn, là tuyệt đối. Sự cảm thông ấy vượt qua mọi khoảng cách địa lý, khoảng cách thời gian. Càng ngày tôi càng thấm thía bài học ấy. Nó làm tôi an tâm hơn khi tuổi già đang đến, khi tôi nghĩ đến lúc mình vĩnh biệt cõi đời này. Người xấu rất nhiều nhưng người tốt cũng rất nhiều. Không ai có thể tiêu diệt hết những người tốt trên đời. (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương, Fall Church, VA: 2014). Tôi tận tình chia sẻ với niềm tin lạc quan của tác giả đoạn văn thượng dẫn, và không khỏi phiền lòng khi vừa nghe kỳ vọng (hão huyền) của một vị lãnh đạo tối cao của đất nước (T.T. Nguyễn Xuân Phúc) như sau: “Việt Nam nuôi dưỡng các bạn thanh niên như người mẹ nuôi dưỡng con khôn lớn. Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam.” Ảnh internet Có người mẹ nào đủ nhẫn tâm đến độ đẩy cả bầy con cái vào con đường tha phương cầu thực, và còn khốn nạn đến nỗi mong mỏi chúng mang được cả “thế giới về” nhà. Tôi không tin rằng ông Phúc hoàn toàn không biết gì về hiện trạng thê thảm hiện nay của tuổi trẻ VN. Ông ấy chỉ tự dối mình, và dối người cho qua khỏi nhiệm kỳ thôi. Tưởng Năng Tiến Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
......

Buồn ngủ gặp chiếu manh

Phạm Nhật Bình – Web Việt Tân Giờ này năm ngoái, màn trao đổi qua lại bằng những “lời xỉ vả” hiếm có giữa hai lãnh đạo Mỹ và Bắc Hàn chung quanh các vụ thử hoả tiễn mang đầu đạn hạt nhân liên tiếp của Bình Nhưỡng, hoà bình thế giới có vẻ đang đứng trên bờ vực thẳm. Nhưng cuối cùng ngày 12/6/2018, Tổng thống Trump và Chủ tịch Kim Jong-un cũng được dàn xếp gặp nhau tay bắt mặt mừng ở Singapore để gọi là “xúc tiến hoà bình”. Cuộc họp được cả thế giới mong đợi, tưởng chừng hoà bình sắp ló dạng trên bán đảo Triều Tiên sau nhiều thập niên căng thẳng, dù cuộc chiến tranh Triều Tiên đã chấm dứt bằng một thoả hiệp ngưng bắn tạm thời từ năm 1953. Thế nhưng cuộc gặp gỡ của Trump và Kim ở Singapore đã không mang lại những kết quả như người ta trông chờ. Ngoài những lời trao đổi, hứa hẹn hào nhoáng, dư luận đánh giá đó chỉ là những màn kịch xã giao quốc tế mà phía sau còn ẩn chứa nhiều bất đồng sâu sắc. Khả năng biến những lời hứa hẹn giữa hai bên thành hiện thực tốt đẹp thật ra chỉ đáng khuyên con số không. Đầu năm 2019, tức gần 8 tháng trôi qua, sau những chuyến đi con thoi dàn xếp giữa Hoa Thịnh Đốn và Bình Nhưỡng của các viên chức cao cấp đôi bên, Tổng thống Trump loan báo cuộc gặp thượng đỉnh lần hai với lãnh tụ Kim Jong-un sẽ diễn ra tại Hà Nội, Việt Nam trong 2 ngày 27 và 28/2, thay vì Đà Nẵng như lời đồn đại trước đó. Tự dưng Hà Nội lại trở nên nổi tiếng. Việt Nam trở thành địa điểm tổ chức cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa hai nhân vật có vẻ như đang nắm chìa khoá của nền hoà bình thế giới. Hãy còn quá sớm để nói đến một kết quả nào đó mang tính thực chất, nhưng ít ra trên bề nổi sự kiện hai phía chấp nhận ngồi lại lần thứ hai là một tin tức đáng quan tâm. Trước hết, việc chọn Việt Nam để gặp nhau là điều dư luận chung có thể hiểu. Vì lẽ ngoài Singapore, ông Kim Chính Ân chỉ có thể đến Hà Nội hoặc Bắc Kinh là nơi tương đối an toàn cho tính mạng mình. Còn những địa điểm khác như Bangkok, Manila, Kuala Lumpur hay Tapei của các quốc gia Á Châu, không có thủ đô nào an toàn cho lãnh tụ Bắc Hàn. Mà nếu chọn Nga hay các quốc gia Âu Châu thì lại không tiện cho ông Trump và có thể ông Kim cũng không muốn cho lắm. Vì thế, Hà Nội là địa điểm dù không muốn hai người cũng phải đến, nếu không muốn ghé Tân Gia Ba một lần nữa. Nhưng từ lúc đầu, họ đã có dự tính gặp nhau ở Đà Nẵng vì đây là nơi thuận tiện nhất bàn chuyện riêng tư giữa Mỹ và Bắc Hàn. Đà Nẵng đã từng là địa điểm tổ chức Hội nghị APEC (Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương) tương đối suôn sẻ vào cuối năm 2017 mà ông Trump đã đến tham dự cùng với 20 lãnh đạo các quốc gia thành viên. Ngoài ra trong thâm tâm, Trump cũng nghĩ rằng tới Đà Nẵng lần này mình khỏi phải bận tâm chào hỏi xã giao các lãnh đạo Hà Nội. Nhưng cuối cùng, chính ông Kim lại muốn cuộc họp diễn ra tại Hà Nội, để có thể sau đó làm một chuyến công du Việt Nam. Không để cơ hội thượng đỉnh lần hai bất thành, ông Trump phải chìu theo ý Kim để thúc đẩy tiến trình hoà bình như mong muốn của cả hai bên. Đó là lý do cắt nghĩa vì sao nói Hà Nội đang buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Bởi vì ngay sau khi có tin Hà Nội được chọn làm địa điểm cho cuộc họp, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã vội vàng đăng đàn chỉ thị thành phố Hà Nội phải giúp tổ chức hội nghị thành công lớn. Tức là Hà Nội phải chịu chi ra nhiều triệu đô-la trong công tác tổ chức, vẽ vời hoa lá cành để có được một dịp chia chác lẫn nhau mà đáng lý ra Đà Nẵng được hưởng. Hà Nội phải vừa có tiếng vừa có miếng, mà phải là miếng ngon. Trong khi đó, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cũng vội nhào qua Bắc Triều Tiên gọi là thăm hữu nghị theo lời mời, cũng như với lý do để phối hợp chuẩn bị cho chuyến công du của lãnh tụ Kim. Trước đó Phạm Bình Minh còn khoe khoang lố bịch là để giúp Triều Tiên chuyển hóa nền kinh tế theo gương Việt Nam. Đúng là ngành ngoại giao cũng “tranh thủ” trước Ban Tuyên giáo, lợi dụng cơ hội để tuyên truyền đánh bóng mình. Chìm đắm trong nợ nần, kinh tế quốc doanh lụn bại trầm trọng, hoạt động công quyền thiếu hiệu quả, tình trạng nhân quyền bị chà đạp, nạn tham nhũng nằm ngay trong cơ quan chống tham nhũng thì Việt Nam còn mong gì để giúp Bắc Hàn chuyển hoá kinh tế? Hầu như dư luận đều có chung một cảm nhận là cuộc hội đàm tay đôi này rồi cũng chẳng đi tới đâu. Bởi người ta thấy ước mơ của Hoa Kỳ và Bắc Hàn vẫn còn là điều mơ ước của riêng hai nhà lãnh đạo, chứ không phải là một kế hoạch được tiến hành sau những bàn thảo hoặc có ủng hộ từ các quốc gia liên hệ trong vùng. Phi hạt nhân hoá bán đảo Triều Tiên khó trở thành hiện thực khi Tập Cận Bình vẫn còn đang ấp ủ “Giấc Mộng Trung Hoa”, vẫn muốn qua mặt Mỹ để lãnh đạo thế giới ngay trong thế kỷ 21 này. Vậy làm sao Tập có thể để Bắc Hàn tiến tới với Trump. Mặt khác, đối với Bắc Hàn, tham vọng hạt nhân của họ đã kéo dài từ đời ông đến đời cha mà mãi đến nay đời cháu Kim Chính Ân mới đạt được ước mơ. Với biết bao công sức, tiền của bỏ ra, Bắc Hàn không dễ gì từ bỏ tham vọng của mình khi đã bắt đầu đặt chân được vào ngôi nhà của những quốc gia sở hữu vũ khí nguyên tử. Nếu không đạt được những điều kiện thuận lợi và có sự bảo đảm minh bạch sự sống còn cốt lõi của đất nước từ Mỹ và Tây Phương nói chung, việc giải trừ vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn sẽ còn treo lâu dài giữa những bàn hội nghị vô bổ. Nói cách khác, thời gian này chưa phải là lúc giải quyết vấn đề an ninh của bán đảo Triều Tiên hay nói rộng ra là hoà bình thế giới. Con chim hoà bình vẫn đang đau nặng khi Hoa Kỳ và Nga trước sau rút khỏi Hiệp ước về vũ khí nguyên tử tầm trung (INF Treaty – Intermediate-Range Nuclear Forces), trong khi ở Trung Đông Iran tiếp tục thủ đắc và thí nghiệm hoả tiễn loại mới nhất. Đây là lúc mà cuộc xung đột Mỹ – Trung phải được ngã giá cho xong trên mọi lãnh vực của tham vọng bành trướng trong thế kỷ này của Bắc Kinh. Đó có thể coi như những mặt trận đối đầu gay cấn từ chính trị, lãnh thổ, kinh tế đến thương mại, văn hoá. Tuy nhiên mong muốn đạt được một Hiệp định thương mại song phương với Bắc kinh vẫn là mục tiêu trước mắt của Hoa Kỳ. Trong trường hợp này, trên bàn cờ thế giới các nhà ngoại giao mới có thể tính tiếp cho một nền hoà bình lâu dài tại bán đảo Triều Tiên. Bởi lẽ đó, bất cứ một thượng đỉnh nào khác trong tương lai, bắt buộc phải có mặt Nhật Bản, Nam Hàn, Nga, Trung Cộng đã từng tham dự các hội nghị giải quyết tình hình bán đảo Triều Tiên mà không chỉ Mỹ nói chuyện tay đôi với Bắc Hàn.    
......

NHỮNG KẺ VÔ LOÀI

Luân Lê Dân tộc bị động long mạch huyết mạch hay sao mà đúng ngày tưởng niệm cuộc chiến vệ quốc bảo vệ đất nước khỏi kẻ xâm lược bá quyền Trung Quốc năm 1979 thì có một số kẻ lại đi di chuyển Đỉnh lư hương dưới chân tượng đài Đức thánh Trần Hưng Đạo tại TP.HCM vào trưa nay? Chúng làm vậy để ngăn chặn những người dân đến thắp hương tưởng niệm các chiến sỹ hy sinh mà không được nhắc đến suốt 40 năm qua trong sử sách. Vậy chúng lấy quyền gì để ngăn trở người dân bày tỏ lòng yêu nước cũng như là quyền thiêng liêng của mỗi con người? Trên chương trình truyền hình VTV phát trên toàn quốc thì không dám gọi tên kẻ địch trong cuộc chiến hào hùng này là ai. Có lịch sử nào là lịch sử chiến tranh mà không có kẻ địch để chiến đấu hay không? Đối phương bên kia biên giới và biên giới phía Bắc là ngôn từ kiểu gì? Không chỉ là hèn mạt, mà là đắc tội với tiền nhân đã đổ xương máu xuống trong lịch sử. Cuộc chiến phải có tên gọi, phải có kẻ thù, như thế mới đúng tính chất cuộc chiến chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Không nói lên đúng tiếng lòng của lịch sử và của nhân dân. Đó chính là kiểu yêu nước theo định hướng và được sự cho phép là như thế đấy. Phụ lòng nhân dân và mang tội với những người chiến đấu bảo vệ tổ quốc và làm sai lạc đi bản chất cuộc chiến vệ quốc của dân tộc gần nửa thế kỷ trước. Chúng định lên kế hoạch cho lòng yêu nước và chúng có toàn quyền sắp xếp tinh thần yêu nước và lịch sử theo ý chúng? Chúng sẵn sàng làm nhục tiền nhân và phỉ báng vào những hình ảnh anh hùng dân tộc, những chiến công vệ quốc vĩ đại trong lịch sử. Những kẻ vô giáo dục và mất gốc, không có giá trị và nhận thức của một con người bình thường nữa. Vua Hùng dựng nước còn chúng bảo vệ tổ quốc bằng cung cách tệ mạt như vậy hay sao? Đến lúc cần, nhân dân mới là người lên đường chiến đấu, chứ không phải cái đám đi phá hoại những giá trị thiêng liêng và cao quý của dân tộc kia. Vẫn còn né tránh, hèn nhược với lịch sử cũng chính là cách để người khác đánh giá về phẩm cách một quốc gia. Khi mà họ sẵn sàng im lặng đến cả gần nửa thế kỷ và khi được phép mở miệng để nhắc tới thì vẫn một mực tránh né gọi tên bản chất của sự kiện. Truyền hình quốc gia mà thể hiện một sự bạc nhược không thể nào tưởng tượng nổi. Họ dường như không phải người của dân tộc này, đất nước này và được sống nhờ vào xương máu của những người đã hy sinh? Đức thánh Trần Hưng Đạo sẽ đau đớn và tủi nhục với đám con cháu mất dạy đang lấy đi Đỉnh lư hương ngay dưới chân mình mà là nơi người dân vẫn thường xuyên thắp hương tưởng niệm các sự kiện lịch sử suốt bao năm qua.  
......

NGHE HƠI NỒI CHÕ.

Pham Nguyen Truong Xem mấy người chửi bới Trần Lệ Xuân sau khi VTV giới thiệu áo dài mà bà ta mặc (hay là cách tân, từ lâu mình đã không xem VTV) làm mình nhớ lại câu chyện với AN ngay sau khi cụ Võ Nguyên Giáp chết. AN: Anh đánh giá các nhà lãnh đạo VN như thế nào? Trả lời: Tôi có ở gần họ đâu mà biết. Nghe người khác nói/viết về họ rồi phán thì chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Tôi không thể đánh giá họ một cách trực tiếp, tôi chỉ có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Thế nào là đánh giá trực tiếp, thế nào là gián tiếp? Trả lời: Trực tiếp là, ví dụ, một người học cùng lớp với tôi, tôi có thể nói anh có giỏi không, có thông minh hay không. Còn người học lớp khác thì tôi không thể đánh giá được, nhận xét của tôi về người đó chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Các nhà lãnh đạo thì cũng thế. Muốn đánh giá người lãnh đạo thì tôi phải là phó của ông ta. Tôi có thông tin như hoặc gần như ông ta. Sau đó, dựa vào số phương án hành động của tôi và ông ta, bao nhiêu phương án giống nhau, bao nhiêu phương án khác nhau, trong những phương án khác nhau này, bao nhiêu phương án của tôi đúng, bao nhiêu phương án của ông ta đúng. Nếu ông ta đúng nhiều hơn tôi thì tôi cho là ông ta giỏi. Còn nói theo sách báo thì cũng chỉ là nghe hơi nồi chõ thôi. Nhưng tôi có thể đánh giá một cách gián tiếp. AN: Đánh giá gián tiếp là thề nào? Trả lời: Ví dụ, so sánh các nhà lãnh đạo của ta với lãnh đạo Thái Lan hay Malaysia. Người của họ sang ta học nhiều hơn hay người của họ sang ta học nhiều hơn; người của họ sang ta cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn hay người của ta sang nước họ cạo mủ cao su và làm điếm nhiều hơn. Mình cho rằng đa số những người hiện nay nói về đức hạnh của Trần Lệ Xuân cũng là nghe hơi nồi chõ mà thôi. Hơn nữa, khi VTV giới thiệu mà ấy mặc áo dài thì ta chỉ nên khen chê cái áo và người mặc có hợp hay không. Áo dài đẹp hay không đẹp, người mặc đẹp hay không đẹp liên quan gì tới đức hạnh hay chính trị?  
......

KỲ TÍCH

Đỗ Văn Ngà Một lần, tên cướp đột nhập vào gia đình nọ. Để giam vợ chồng chủ này ấy, tên cướp nghĩ ra cách thế này, hắn ta vẽ một vòng tròn và bảo "cả 2 ngươi đứng yên trong vòng tròn này, đứa nào bước ra tao bắn bể sọ". Cả 2 mặt xanh lét và gật đầu tỏ ra vâng lời.   Nhờ giam được 2 vợ chồng trong vòng tròn mà tên trộm rảnh tay khoắng sạch tài sản rồi bỏ đi, để lại 2 vợ chồng nọ đứng im trong cái "nhà tù kiên cố" ấy. Hồi sau khi thấy an toàn, cô vợ òa khóc vì tiếc của, còn anh chồng thì cười khúc khích. Cô vợ ngạc nhiên hỏi "sao anh cười?". Anh ta đáp "Thằng cướp ngu, mải lấy vàng, lúc đó anh thò chân ra ngoài mà nó không biết, hì hì"   Vâng, đấy là mẩu chuyện vui, tôi cũng nghe từ nhỏ, chỉ là truyền miệng, nhưng nó có ý nghĩa của nó. Mẩu chuyện dân gian tuy ngắn nhưng bài học của nó ẩn chứa trong đó cũng tựa như AQ Chính Truyện của Lỗ Tấn. Cả 2 đều nói lên ý nghĩa là sự tự hài lòng với những chuyện cỏn con, thậm chí là những chuyện tự suy diễn một cách ngược ngạo. Đó, tính cách đó người ta gọi là Phép Thắng Lợi Tinh Thần AQ. Họ lấy theo tên nhân vật chính trong truyện của nhà văn Lỗ Tấn.   Cái đáng sợ nhất của một dân tộc là sự tự hài lòng với một vấn đề cỏn con để an ủi mình. Chính phép thắng lợi kiểu này nó đã làm cho một dân tộc tự gò mình chịu sống ngột ngạt trong cái khuôn khổ chật hẹp của kẻ cai trị. Chính Lỗ Tấn đã nhìn thấy dân tộc Trung Hoa của ông cũng mang cái tinh thần nguy hiểm ấy, nên ông đã viết tác phẩm AQ Chính Truyện để cảnh tỉnh người dân nước ông rằng, đó là một tính cách của một dân tộc nô lệ.  Có thằng cướp nào mà không thích cướp những nạn nhận AQ? Có kẻ cai trị nào mà không muốn kẻ bị trị như AQ?   Nay đã thế kỷ 21, mà dân tộc Việt Nam cũng mang cái tinh thần AQ quái quỷ ấy. Chuyện nhỏ nhặt thì tung hô vạn tuế, chuyện to lớn thì mù đui câm điếc. Như ta biết, việc gọi cái tên VNCH thay cho "Ngụy Quân Ngụy Quyền" rất đơn giản, thế mà phải mất đến 43 năm CS mới gọi khe khẽ. Thế nhưng không ít những người tên tuổi lên báo mừng rỡ ra mặt và xem đó là kỳ tích. Còn vấn đề phi dân chủ, vấn đề đưa đất nước vào vòng nô lệ của Trung Cộng thì không dám đá động. Chỉ thế thôi là hài lòng rồi, là vui rồi, là kỳ tích rồi.   Hay như mấy ngày vừa qua, Cộng Sản bật đen xanh cho báo chí nói về cuộc xâm lược của quân Trung Cộng cách đây 40 năm có gì là to tác nhỉ? Đó là điều cỏn con thì có gì là kì tích. Chính quyền Cộng Sản họ đã trao một huân chương chống quân Tàu cứu nước bao giờ chưa? Họ đã cho nhân dân công khai tưởng nhiệm các anh hùng vị quốc vong thân vào năm đó chưa? Vấn đề biển đảo, vấn đề trao đổi thương mai bất công giữa Việt Nam - Trung Hoa thì không dám đá động.   Muốn thay đổi, trong lòng dân tộc phải có sự mãnh liệt, phải có sự sáng suốt. Một xã hội cứ thấy lợi ích nhỏ thì hài lòng và quên những thiệt lớn thì dân tộc đó vẫn chưa sáng suốt, chưa đủ minh mẫn để tự quyết cho số phận của mình. Thế mới đau!      
......

40 NĂM CUỘC CHIẾN VIỆT – TRUNG

......

40 năm sau cuộc chiến 1979, VN đang trở thành gì của Trung quốc?

Việt Nam là thuộc địa Trung Quốc? Không phải. Là chư hầu? Không đúng. Là quốc gia vệ tinh? Cũng sai. Vậy Việt Nam đang là gì với Trung Quốc? Khó có thể định nghĩa chính xác tính chất mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc kể từ sau khi hai nước bang giao bình thường sau cuộc chiến biên giới 1979. Có điều ai cũng thấy Việt Nam đang bị nhuộm đỏ trước hiểm họa “ngoại xâm mềm” bằng con đường kinh tế, từ Trung Quốc.   Từng ngày từng giờ, cơn sóng thủy triều đỏ Trung Quốc lan rộng và phủ kín Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (chính xác là 54/63 tỉnh-thành). Theo Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-1999), Trung Quốc có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư là 120 triệu USD, thì 10 năm sau, đã có 657 dự án với tổng số vốn hơn 2,6 tỷ USD. Riêng về FDI (đầu tư nước ngoài trực tiếp), từ cuối năm 1991 đến nay, FDI Trung Quốc đổ vào Việt Nam liên tục tăng và tăng mạnh 10 năm trở lại đây, từ 572,5 triệu USD năm 2007 lên 2,17 tỷ USD năm 2017, trở thành nước thứ tư trong số các quốc gia có vốn FDI đăng ký tại Việt Nam (tạp chí Tài Chính 1-1-2019).   Trung Quốc hiện diện khắp nơi, đến mức gần như ngành nghề nào cũng có mặt, từ kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp ở Hải Phòng; kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang; sản xuất giày ở Đồng Nai; luyện-cán thép ở Thái Bình; sản xuất tinh bột wolfram ở Quảng Ninh; linh kiện điện tử ở Đà Nẵng; ván ép ở Long An; đến gia công in phun, đồ họa, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở Sài Gòn; và đặc biệt công nghiệp điện than… Trung Quốc còn thâm nhập dữ dội vào thị trường bất động sản. Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang… chỗ nào cũng có mặt giới đầu tư bất động sản Trung Quốc, đặc biệt các dự án chung cư thuộc khu “đất vàng”.   Đầu tư và du lịch giúp kinh tế tăng trưởng mà sao phải lo? Bởi vì, không như giới đầu tư các nước khác, sự có mặt Trung Quốc kéo theo nhiều điều không bình thường… Điều rất không bình thường, so với quan hệ kinh tế với các nước khác, là cách thức quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hãy đọc một đoạn trong bài viết “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” của tiến sĩ Nguyễn Phương Hoa (người hồi tháng 6-2018 đã được bổ nhiệm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc kiêm Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc):   “Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam...”. Cách viết này, của một “chuyên gia” thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cho thấy một điều: quan hệ kinh tế Việt Nam với Trung Quốc còn được “hòa tan” vào quan hệ chính trị, liên quan đến vấn đề thể chế và chính sách đối ngoại “đặc biệt”. Nó giúp phần nào giải thích được những bất thường nói ở trên.   Cần nhắc lại, cách đây chỉ vài tháng, vào tháng 9-2018, khi tiếp Triệu Lạc Tế - Ủy viên Bộ Chính trị-Trưởng ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng quan hệ Việt-Trung “đang ở thời điểm tốt đẹp nhất trong lịch sử”! Trước đó, tháng 1-2017, trong chuyến công du Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, Nguyễn Phú Trọng cùng Tập Cận Bình cũng đã ra thông cáo chung, xác định hai quốc gia “đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung”; khẳng định quan điểm hai bên là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trên tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.   Bắc Kinh có là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” của Việt Nam? Chắc chắn là không. Hà Nội đang trở thành gì đối với Trung Quốc? Dựa vào các phát biểu và tuyên bố chung chỉ có thể định tính được phần nào mối quan hệ hai nước, nhưng dựa vào những con số cụ thể thì có thể thấy rõ, Việt Nam đang lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc. 40 năm sau khi thâm nhập biên giới Việt Nam bằng quân sự, Trung Quốc đang đổ bộ kín mít đất nước Việt Nam bằng những đoàn quân kinh tế hùng hậu. 40 năm sau khi Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam vẫn rất khó khăn tấn công sâu vào lãnh thổ nước này bằng con đường kinh thương. Việt Nam liên tục nhập siêu từ Trung Quốc. Con số mới nhất (11 tháng đầu năm 2018) là 21,6 tỷ USD (xuất sang Trung Quốc 38,1 tỷ USD trong khi nhập lại 59,7 tỷ USD).   Năm 1979, Hà Nội đã có thể dạy lại Bắc Kinh bài học mà Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam, nhưng sau 40 năm, Hà Nội dường như chẳng học được thêm gì cả, ngoài việc trở thành “đồng chí tốt” của kẻ thù. Sau 40 năm, Việt Nam chẳng là gì so với sức mạnh kinh tế lẫn quân sự mà Trung Quốc đang sở hữu. Biển Đông đang bị gặm nhấm lần mòn. Chủ quyền biên cương đang bị đe dọa. Cả “chủ quyền” kinh tế cũng bị thao túng. Thật chẳng tự hào gì khi Việt Nam đang là con nợ của Bắc Kinh. Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (3-9-2018), tác giả Vũ Quang Việt cho biết, ước tính nợ Việt Nam đối với Trung Quốc, tính đến năm 2018, (có thể) là hơn 6 tỷ USD. Bắc Kinh đang nắm Hà Nội trong lòng bàn tay? Riêng với cái nhìn của người dân Việt Nam, có vẻ như Hà Nội chẳng nắm được gì của Bắc Kinh cả! Với thực trạng này, ước vọng thoát Trung của người dân Việt xem ra là rất xa vời. Điều này có đáng để nghĩ và lo lắng cho số phận quốc gia?  
......

NHÌN LẠI TRẬN CHIẾN BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979

Nếu như ông Lê Duẩn không đưa quân vào xứ Chùa Tháp, lật đổ chính quyền Pol Pot và đưa Heng Samrin và Hun Sen lên thay thế vào đầu năm 1979, thì liệu ông Đặng Tiểu Bình có đưa 600 ngàn quân tổng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 hay không? Nếu như sau khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN tiếp tục chính sách đu dây giữa Liên Xô và Trung Cộng, và không có tham vọng khống chế hai đàn em Lào và Campuchia để thành lập Liên Bang Đông Dương, thì liệu Trung Cộng có lấy lý cớ “khiêu khích vũ trang và thù nghịch” tại các khu vực biên giới, để xâm lược Việt Nam vào năm 1979 hay không? Lịch sử không có chữ nếu. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề nói trên người ta phải hiểu rằng cuộc chiến tranh biên giới xảy ra cách nay 40 năm, chỉ là hệ quả của những xung đột quyền lực giữa lãnh đạo CSVN và Trung Cộng vào lúc đó. Dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa chỉ là nạn nhân của những tham vọng tranh giành quyền lực của hai tập đoàn lãnh đạo này mà thôi. Thật vậy, nhìn lại bối cảnh lịch sử của CSVN và Trung Cộng trong giai đoạn từ 1975 đến 1980 người ta thấy rõ ý đồ tranh bá của lãnh đạo hai phía. Về phía Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình vừa mới củng cố được quyền lực của mình, sau nhiều năm bị đấu tố và mất hết chức vụ trong thời kỳ cách mạng văn hóa (1966-1976). Sau Hội nghị lần thứ 3 Trung ương đảng khóa XI vào cuối năm 1978, họ Đặng đã trở thành nhân vật có quyền lực lớn nhất ở trong đảng. Dù chỉ giữ bí thư quân ủy Trung ương, nhưng các chủ trương và tiếng nói của họ Đặng ảnh hưởng rất lớn lên các chính sách của Trung Cộng vào lúc đó. Chủ trương của Đặng là bắt tay với Mỹ để hiện đại hóa Trung Quốc và nuôi Khờ Me Đỏ để kiềm chân CSVN. Sau khi Liên Xô và CSVN ký hiệp ước hữu nghị, hợp tác và gia nhập vào Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) của các nước xã hội chủ nghĩa thì Trung Cộng cắt toàn bộ viện trợ cho CSVN từ năm 1978. Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với CSVN về việc xây dựng và khai thác căn cứ tại Cam Ranh trong 25 năm. Liên Xô lúc đó gọi CSVN là “tiền đồn đáng tin cậy của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á”, càng khiến cho họ Đặng tin rằng, CSVN đang cùng với Liên Xô đe dọa an ninh Trung Quốc. Khi CSVN bắt đầu đưa quân sang chiếm Campuchia, đuổi lực lượng Khờ Me Đỏ ra khỏi Nam Vang vào đầu năm 1979, đã như giọt nước tràn ly, khiến cho họ Đặng không còn có thể chịu đựng được nữa nên đã phát động cuộc chiến gọi là “trừng phạt” tiểu bá CSVN. Về phía CSVN, “say men” chiến thắng miền Nam vào tháng 4 năm 1975, lãnh đạo CSVN đã ngạo mạn tự coi mình “đứng trên đỉnh cao trí tuệ của loài người”. Đường lối đối ngoại của CSVN vào lúc đó là “tăng cường mối quan hệ mật thiết với các nước XHCN anh em, thực hiện nghĩa vụ vô sản quốc tế, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.” Đường lối này cho thấy là CSVN không còn đu dây nữa mà ngã hẳn vào Liên Xô. Dựa vào sự hậu thuẫn này, CSVN bắt đầu tiến hành tham vọng xây dựng Liên Bang Đông Dương bằng cách khống chế Lào và Campuchia. Điều trớ trêu là Khờ Me Đỏ đã được Bắc Kinh nuôi từ sau năm 1975, nên không những không quy phục mà còn khiêu khích CSVN bằng cách mở những cuộc tấn công ở biên giới phía Nam trong các năm 1977, 1978. Từ cuối năm 1978, CSVN đã tiến hành hai nỗ lực: 1/ Thành lập Hội đồng cách mạng Campuchia do Heng Samrin và Hun Sen lãnh đạo để chuẩn bị tiếp thu Nam Vang khi Khờ Me Đỏ bỏ chạy; 2/ Huy động một lực lượng hùng hậu tấn công lực lượng Khờ Me Đỏ ngay trên xứ Chùa Tháp. Ngày 9/1/1979, lực lượng CSVN đã chiếm được thủ đô Nam Vang và đưa Heng Samrin xuất hiện với tư thế là chủ tịch hội đồng cách mạng. Ngày 18/1 Heng Samrin đã thay mặt hội đồng này ký một hiệp ước với CSVN, hợp thức hóa sự hiện diện của 180 ngàn quân đội CSVN do Tướng Lê Đức Anh chỉ huy trên đất Campuchia. Ngay sau đó, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, một hội nghị của Ngoại trưởng ba nước Việt – Miên – Lào đã diễn ra tại Thủ đô Vạn Tượng để hình thành Liên Minh Hữu Nghị Ba Nước Việt – Miên – Lào. Những diễn tiến lịch sử nói trên cho thấy, cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979 là cuộc đọ sức giữa “tiểu bá” CSVN đang muốn hình thành Liên Minh Đông Dương, để bành trướng ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á và một bên là “đại bá” Trung Cộng đang bắt tay với Mỹ để bành trướng ảnh hưởng ra khu vực Á Châu sau những năm bị rối loạn nội bộ. CSVN đã gọi cuộc chiến tranh này là cuộc chiến xâm lược và Trung Cộng là kẻ thù số một của Việt Nam vào lúc đó. Bắc Kinh thì biện minh rằng việc xâm nhập của họ vào khu vực phía Bắc Việt Nam là cuộc hành quân tự vệ (sic) được tiến hành bởi binh lính phòng vệ biên giới để dạy cho Việt Nam một bài học. Sự mâu thuẫn trong cách gọi tên cuộc chiến đã bộc lộ rõ thêm ý đồ tranh bá của hai nhân vật Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình. Đó là nhằm thỏa mãn tham vọng quyền lực cá nhân hơn là vì quyền lợi tối thượng của đất nước và dân tộc Việt Nam hay Trung Hoa. Sau gần 10 năm xung đột từ cuộc chiến phi lý này (1979 – 1989), và trận tấn công biên giới đẫm máu được mệnh danh là “27 ngày địa ngục” khiến hàng trăm ngàn binh sĩ của cả hai phía bị hy sinh, cả CSVN và Trung Cộng đều phải tìm cách đối thoại, dẫn đến Hội Nghị Thành Đô vào tháng 9 năm 1990. Nhưng điều thắc mắc của dư luận là sau nhiều năm cấm đề cập đến cuộc chiến biên giới và những sự tàn ác của quân xâm lược Trung Cộng từ sau Hội nghị Thành Đô nói trên, bỗng dưng năm nay, Ban Tuyên Giáo CSVN lại cho phép báo đài tập trung viết về cuộc chiến biên giới và tô đậm hình ảnh xâm lược của Trung Cộng qua cuộc chiến này. Đây là ý đồ gian manh của phe nhóm Nguyễn Phú Trọng nhằm trút hết trách nhiệm cuộc chiến biên giới cho Đặng Tiểu Bình và nhóm lãnh đạo cũ, để cho thấy sự “không can dự” của phe nhóm Tập Cận Bình mà Nguyễn Phú Trọng đang dựa vào. Nói cách khác, việc cho báo chí kể tội xâm lược nhân 40 năm cuộc chiến biên giới là một âm mưu tuyên truyền vừa ra vẻ ta đây yêu nước và chống hành vi xâm lược của nhóm Đặng Tiểu Bình, vừa biện minh cho thái độ thân thiện của Trọng với Tập Cận Bình mà không bị mang tiếng là thân với kẻ thù. Nhưng trò tiểu xảo này đã không qua mặt đàn anh Trung Cộng. Mới đây, Ban Tuyên Giáo CSVN đã phải cấp tốc ra chỉ thị mới yêu cầu các báo là khi đề cập đến cuộc chiến biên giới, không nêu đích danh Đặng Tiểu Bình và nhất là không dùng chữ xâm lược đối với Trung Cộng. Tóm lại, khi nói về cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 mà không nói đến tham vọng tranh bá của Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình, trên bàn cờ Đông Dương nói riêng và Đông Nam Á nói chung, sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc là chưa đúng với bản chất của cuộc chiến này. Những kiến thức lịch sử cũng giúp chúng ta soi sáng các hệ lụy và mưu mô bán nước của tập đoàn CSVN từ sau Hội nghị Thành Đô, để hiểu là tại sao chế độ chọn thế “bám Trung” thay vì “thoát Trung.” Những ký kết trong Hội nghị Thành Đô là gì khiến chế độ Hà Nội phải vướng mãi trong vòng Kim Cô của tập đoàn Bắc Kinh, dù đó là Đặng Tiểu Bình hay Tập Cận Bình?  
......

BUÔN THẦN BÁN THÁNH ĐÚNG QUY TRÌNH.

Luan Le Quang Phải công nhận những người cs thông minh và biết tính toán thật. Tuy là vô thần nhưng rất biết xây chỗ để lợi dụng Thần Thánh kinh doanh, móc túi thiên hạ, móc túi lẫn nhau rất đúng quy trình. Với mô hình xây dựng quần thể khép kín gồm có ngôi chùa lớn nhất thế giới đi với những nhà hàng, khách sạn, khu biệt thự, sân golf và casino ở Hà Nam và một số tỉnh khác ở phía Bắc, thì đất nước này cơ bản đã xây dựng thành công thiên đường XHCN ở khu vực đó con mẹ nó rồi. Với siêu dự án tâm xờ linh tiêu tốn hàng ngàn héc ta đất của quốc gia trải dài tại các vị trí tuyệt đẹp ở các tỉnh phía Bắc mà công ty Xây Dựng Xuân Trường được Chính Phủ ưu ái cấp trong suốt 13 năm qua, và với lượng người móc tiền mua vé để được vào lễ Phật tại các ngôi chùa này lên đến hơn 200.000 người trong mấy ngày Tết năm nay, có thể khẳng định rằng đảng đã xây dựng thành công con người XHCN ở miền Bắc. Những con người sẵn sàng chen lấn, chà đạp lên nhau, thậm chí chấp nhận mẻ đầu vêu trán để giành cho được Ấn đền Trần hoặc sẵn sàng tốn tiền để được các sư quốc doanh cúng sao giải hạn. Với tâm thức tin vào sự lo lót, cúng bái các đấng Thánh Thần thì cuộc sống sẽ sung túc, sẽ thăng quan tiến chức nhanh như gió để tha hồ đục khoét vơ vét của công, thì rõ ràng những kẻ vô thần đã dẫn dắt những người dân u mê ở đây tìm ra đấng cứu thế của cuộc đời họ. Tuy nhiên, có lẽ thành công nhất của những lãnh đạo thiên tài cs là ở chỗ họ đã biến những đồng tiền không rõ nguồn gốc của họ thành những giá trị vật chất mang tính tâm linh mà bất kể những ai đến đây cũng phải cúi đầu dâng lễ và không quên móc hầu bao của mình để thành kính tự nguyện cống nộp. Nói điều này ra là bởi vì một ông chủ dự án Nguyễn Văn Trường, sinh năm 1963 tại Hoa Lư, Ninh Bình, tiền ở đâu mà lắm thế. Chỗ nào cũng được CP ưu ái cấp hàng ngàn héc ta đất. Vị trí nào cũng bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng khu quần thể tâm xờ linh? Vậy là hiểu rồi ha? Vừa có nguồn thu, vừa có chỗ để các quan đến đây xả stress. Vậy thì thành công ngoài sức mong đợi chứ còn gì nữa phải không ạ? Kể nghe chơi nha? Đứa khi cạp đất ăn xong thì vừa no vừa mệt. Thằng thì suốt ngày ngồi đếm tiền mãi lộ qua các trạm BOT riết mỏi tay...vậy là có chỗ để xả stress ngay. Đó là vô casino đánh bạc. Đánh bạc xui, thua tiền nhiều quá thì vô thuê khách sạn gần đó xả xui. Xả xui xong bước vô Chùa kế bên đốt nhang cắm đầu chổng đít khấn Phật xin cho con ăn bạc. Khấn vái xong lại bước vô casino chiến tiếp. Úi trời! Ngôi Chùa vĩ đại nhất thế giới này thì chỉ có bọn quan chức cs và bọn đại gia sân sau lắm tiền nhiều của vào chơi chứ dân đen thì tiền  đâu mà có cửa vào? Mà nếu có vào thì cũng chỉ nhân dịp Lễ, Tết thôi. Còn khách nước ngoài đi du lịch tâm linh thì nhìn thấy cái khu Chùa kiểu này thì chắc là họ không vào rồi, trừ đám khách chịu ăn chơi. Như vậy thì chỉ có bọn tư bản đỏ nhà sản có chỗ tha hồ rửa tiền rồi móc túi lẫn nhau thôi. Chơi chán, nếu thằng đại gia Khựa hay nước ngoài nào ưng cái bụng, thì bán. Ba cái dự án này thì chỉ cần giá trị đất thôi đã lời to rồi kể chi đến giá trị trên đất nhễ? Khiếp thặc! Tại hạ Cóc Tía xin bái phục! Cóc Tía https://news.zing.vn/chu-dau-tu-ngoi-chua-lon-nhat-the-gioi…  
......

Kỷ niệm 17-2: “Nhà cầm quyền nghiêng về chiêu trò hơn là thực tâm với đất nước”.

Năm 2019 có một sự kiện rất đặc biệt, là Hà Nội đã cho phép báo chí, dư luận được lên tiếng tố cáo cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc năm 1979. Những chồng tư liệu, tin tức về cuộc chiến này tưởng chừng bị xếp xó trong mối hữu nghị quái gỡ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, nay lại được tung ra để cho dân chúng nhẹ lòng vào thời điểm kỷ niệm 40 của cuộc chiến. Nhưng điều đó, không có nghĩa là mọi thứ dễ dãi. Trước một tuần ngày 17-2-2019, tất cả các phương án chặn người, gác nhà… của giới an ninh toàn quốc đã được bàn thảo và lên lịch. Có nghĩa là sẽ không có ai được tự do xuống đường tuần hành kỷ niệm ngày này, hoặc sẽ có danh sách dài những người bị giữ chặt để không tham gia được được một cuộc họp mặt, biểu tình nào đó được tổ chức trong vòng kiểm soát. Nhân 40 năm sự kiện đau thương và bi hùng này, nhà tranh đấu và cựu chiến binh Trần Bang đã bày tỏ vài suy nghĩ của ông.   Năm nay, có không ít người bất ngờ trước việc ban Tuyên giáo Trung Ương bật đèn xanh, cho phép nói và chỉ trích Trung Cộng về cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, anh nghĩ sao về điều này? Nhà cầm quyền làm gì thì cũng thường có lý do ẩn sau bề mặt. Lần này, tôi nghĩ có vài nguyên nhân. Kỷ niệm 40 năm cuộc chiến Việt Trung là một dịp quan trọng khó có thể làm ngơ, mà vốn trước đây giới Xã hội dân sự đã lên tiếng rất nhiều, đòi hỏi lịch sử phải công bằng trong ghi nhận trong cuộc chiến phía Bắc lẫn biên giới Tây Nam. Chống Polpot ở Tây Nam, nhìn rõ sự kiện, cũng là chống Trung Quốc thôi. Sau khi yểm trợ cho Khmer Đỏ thất bại thì Trung Quốc mới mở thêm mặt trận chiến tranh phía Bắc Việt Nam. Nhân 40 năm kỷ niệm thì lại càng không thể bịt miệng nhân dân được nữa. Nhìn về hướng tích cực thì có không ít người tham gia cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược vẫn còn nằm trong bộ máy chính quyền, thậm chí là có chức quyền. Họ cũng không thể nào chịu được việc mình bị bỏ quên, mà chỉ nghe suốt ngày tuyên truyền về các cuộc chiến chống Mỹ, chống Pháp. Họ cũng muốn được nói đến sự kiện xâm lược này. Một điều nữa, tôi nghĩ rất gần với thời sự, là trong cuộc gặp giữa tổng thống Mỹ và chủ tịch Kim Jong Un tại Việt Nam, việc phát lên một thông điệp không gần gũi với Trung Quốc là một cách Hà Nội giới thiệu mình với Mỹ, trong bối cảnh biển Đông ngày càng căng thẳng. Cơ hội này cũng là một cách để giới bình luận có thể suy đoán về một bước đi ngoại giao mới của Việt Nam, trong việc giữ gìn ổn định trên biển Đông.   Nhưng đây có là một cách lợi dụng sức mạnh dư luận quần chúng của Hà Nội, vốn là có tiếng giỏi cách thao túng dư luận xã hội và lợi dụng truyền thông cho những mục đích khác của mình? Tôi cũng nghĩ vậy. Bởi vì, đảng Cộng sản Việt Nam có tiếng là ma lanh. Họ tận dụng mọi sức mạnh để bảo vệ sức mạnh độc tài của họ. Đây cũng là cách mà họ lợi dụng quần chúng, lợi dụng báo chí. Ai cũng biết báo chí trong nước hiện nay chỉ là cái loa của nhà cầm quyền. Việc chủ trương cho phép báo chí nói mạnh và nói nhiều về sự kiện chiến tranh biên giới 1979 cũng chỉ là một cách xoa dịu sự tức giận của quần chúng vốn đã kìm nén lâu nay về việc nhà cầm quyền luôn đàn áp các tiếng nói đòi phải minh bạch lịch sử, minh bạch kẻ thù đã xâm lược với các thế hệ người Việt. Vừa lấy lòng được quần chúng, vừa nói được ý mình muốn trong bối cảnh căng thẳng trong quan hệ Việt Trung, thì họ sẽ làm ngay. Mà lâu nay, mọi thứ vẫn vậy chứ không có gì mới mẻ.   Có người nói rằng, cho phép nói thật về lịch sử, về giặc Trung Quốc xâm lược không quan trọng bằng phải có chương trình trả tự do cho những người yêu nước, xuống đường chống trung Quốc và bị bỏ tù, thậm chí là phải có cách nói tử tế và chính danh về cuộc chiến 1979 trong sách giáo khoa lịch sử? Tôi vẫn thấy câu chuyện này còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Lúc này, tôi nghĩ nhà cầm quyền đang nghiêng về chiêu trò nhiều hơn là chuyện thực tâm với đất nước, con người. Tôi tin là trong bộ máy cầm quyền, vẫn có những người nghĩ đến chuyện phải trả tự do cho những ai chống Trung Quốc xâm lược mà lại bị cầm tù quá oan tức như hiện nay. Nhưng đây là một câu chuyện dài và phức tạp vì lâu nay các vụ án xử người yêu nước, nhà cầm quyền Cộng sản không bao giờ có đủ dũng khí để gọi tên án chống Trung Quốc, mà chỉ xử về tội tụ tập rối, kiểu gắp lửa bỏ tay người, mánh khóe chụp mũ, đổi tội danh. Trong số 20 người đi tù ở Đồng Nai vừa rồi, vì đã xuống đường biểu tình chống luật đặc khu giao đất 99 năm cho Trung Cộng, có bao giờ quan tòa hay Viện kiểm sát dám gọi tên là tội biểu tình chống Trung Quốc đâu? Còn trong sách giáo khoa, họ cũng đã nhỏ giọt thông tin, nhưng chắc là sẽ còn lâu lắm mới có đủ những lượng thông tin tương ứng và xác đáng về cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979.   Là một sinh viên được động viên, trở thành quân nhân trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. Anh và những người đã đổ máu cho đất nước nghĩ gì về thái độ và hành động của nhà cầm quyền Cộng sản hôm nay? Tôi hay ai đã trãi qua một phần của cuộc chiến 1979 đều thấy đó là một điều bất công. Dù có cho báo chí nói nhiều, nói mạnh một lần như lúc này cũng là bất công với hiện thực. Nhà cầm quyền chỉ vì quyền lãnh đạo mà đi theo một loại chủ thuyết, ôm chân giặc Tàu. Tôi đã viết rằng số người hy sinh ở chiến trường Campuchia – họ vẫn nói úp mở là chiến trường K – và những số người hy sinh ở chiến trường phía Bắc, kể cả dân binh và những người trực chiến, cộng lại còn lớn hơn cả hơn số người chết vì chống Pháp hay chống Mỹ. Đó là tôi không tính chuyện nội chiến Bắc Nam. Thì với con số người chết như vậy mà chỉ hô hào chống Mỹ, chống Pháp rồi để cho có ít dòng – lại mới chỉ đưa vào vài năm gần đây – trong sách giáo khoa lịch sử là điều không thể chấp nhận được. Tôi luôn luôn phản đối và đòi sự công bằng về lịch sử, về những mất mát của dân tộc Việt Nam.  
......

NGÔN NGỮ NGOẠI GIAO CỦA HOA KỲ

Tổng Thống Colombia Ivan Duque. Bong Lau Hôm thứ Ba 13/01 Tổng Thống Donald Trump cùng với Đệ Nhất Phu Nhân Melania đứng đợi trên thảm đỏ trước cổng vào Bạch Cung để chào đón Tổng Thống Colombia Ivan Duque chỉ mới 42 tuổi. Trump là nguyên thủ của một đại cường quốc đứng đợi bắt tay một vị tổng thống của một quốc gia nhược tiểu của thế giới thứ ba. Thông thường những nguyên thủ của nước nhỏ không quan trọng đối với Hoa Kỳ thì chỉ được Phó Tổng Thống đón rồi gặp Tổng Thống sau. Với các quốc gia cường quốc đồng minh gắn bó như Anh Pháp Nhật v.v. thì cuộc gặp gỡ rất long trọng. Ngoài đường chung quanh Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cờ của quốc gia ấy treo chung với cờ Mỹ bay phất phới đẹp mắt. Ban đêm có quốc yến để thiết đãi quốc khách. Tại sao ông Trump tự nhiên lại nhã nhặn và nồng nhiệt với một quốc gia mà hầu như không nghe báo chí đề cập đến trong các bản tin hàng ngày ở Mỹ như vậy. Colombia là một địa điểm chiến lược có thể giúp chính quyền Trump dứt nọc chế độ Cộng Sản Nicolás Maduro ở Venezuela. Giống Brazil bao vây ở biên giới đông nam của Venezuela. Colombia án ngữ ở tây nam. Hoa Kỳ có 6 căn cứ quân sự ở Colombia. Vùng biển phía bắc của Venezuela có căn cứ Không Quân Hoa Kỳ ở đảo Antigua. Các căn cứ quân sự Mỹ còn trải dài qua nhiều hải đảo chiến lược phía bắc như Puerto Rico, St Croix và St Thomas. Máy bay của Mỹ cất cánh từ đó bay đến Venezuela chỉ vài chục phút. Một may mắn khác cho chính quyền Trump và phong trào dân chủ ở Venezuela là vị Tổng Thống trẻ 42 tuổi của Colombia, Ivan Duque vừa mới đắc cử vào tháng 8 năm ngoái 2018 thuộc đảng Dân Chủ Trung Lập (Democratic Center) có khuynh hướng “bảo thủ” chống Cộng triệt để và sẽ hợp tác chặt chẽ với Trump về vấn đề của Venezuela. Lưu ý đảng Dân Chủ Trung Lập của Colombia rất khác với đảng Dân Chủ của Hoa Kỳ vốn có khuynh hướng thiên tả và XHCN. Một may mắn khác nữa là Brazil án ngữ ở biên giới đông nam Venezuela cũng vừa mới có một Tổng Thống cực hữu, cựu Đại úy Nhảy Dù Jair Bolsonaro mới tuyên thệ nhậm chức ngày 01 tháng 01 năm nay 2019. Jair Bolsonaro sẵn sàng giúp tiêu diệt chế độ độc tài Cộng Sản Nicolás Maduro ở Venezuela. Nhưng không may cho chính quyền Trump là đảng Dân Chủ Mỹ đang nắm quyền kiểm soát Hạ Viện Hoa Kỳ và khuynh hướng của đảng Dân Chủ là không muốn can thiệp vào nội bộ của Venezuela. Hôm thứ Tư 13/02 Trưởng ban phụ trách về chính sách Venezuela của chính quyền Trump, Elliott Abrams bị gọi ra điều trần trước Quốc Hội. Ông bị nữ Dân Biểu thiên tả Ilhan Omar hoạch họe và nói xấu cá nhân vì Elliott Abrams đã từng qua mặt Quốc Hội Hoa Kỳ tài trợ tiếp tế võ khí cho kháng chiến quân Contra chống lại chế độ Cộng Sản Sandinista ở Nicaragua, Trung Mỹ vào cuối thập niên 70. Thời gian ấy Liên Xô, Cuba tìm cách nhuộm đỏ Trung và Nam Mỹ. Lịch sử đang lặp lại. Đảng Dân Chủ Mỹ kiểm soát Hạ Viện và tìm cách ngăn cấm chính quyền thiên hữu Donald Trump can thiệp quân sự vào Venezuela. Giống đảng Dân Chủ đã cấm và truy tố bắt bỏ tù nhiều người vì họ đã lén giúp kháng chiến quân Contra ở Trung Mỹ dưới thời TT Reagan. Và cũng lại đảng Dân Chủ đã kiểm soát Hạ Viện bỏ phiếu cắt quân viện cho VNCH dưới thời TT Richard Nixon và Gerald Ford. Nhìn cảnh Tổng Thống Colombia được long trọng đón tiếp trên thảm đỏ ở Bạch Cung đã hình dung ra được một khúc quanh mới tốt đẹp sắp sửa đến cho dân tộc Venezuela. https://www.upi.com/Trump-US-Colombia-working-together-o…/…/  
......

Có một cuộc xâm lược khác

Mặc Lâm Kỷ niệm 40 năm ngày chiến tranh biên giới xảy ra năm nay báo chí được tháo cái rọ bút để lên tiếng về cuộc chiến mà từ nhiều năm trước câu chuyện tang thương này gần như biến mất trên báo chí truyền thông nhà nước. Hơn nữa nó còn bị cắt xén, tối giản đếm mức cả cuộc chiến tranh với tổn thất nặng nề chỉ gói gọn lại vài dòng trong sách giáo khoa mà kẻ thù từng giết dân quân miền Bắc được khoác cho một cái tên mới là “nước ngoài”. Cuộc chiến tranh xâm lược ấy từng được tuyên truyền trong suốt thời kỳ Lê Duẩn cầm quyền cho đến khi Hội nghị Thành Đô thành hình năm 1991 thì bỗng dưng im bặt. Các cơ quan nhà nước trở nên im lặng một cách khó hiểu về cách ứng xử với Trung Quốc, mọi thù hằn không những biến mất mà trái lại ai nhắc nhở tới chúng cũng đều bị chụp cái mũ phá hoại tình hữu nghị hai nước. Và cái tình hữu nghị ấy càng kéo dài thì sự uất ức của người dân càng tăng cao vì họ hiểu thái độ này chỉ là mặt trái của lòng thần phục. Với sự nhạy bén của những kẻ cơ hội, tình hình có vẻ đã đổi chiều khi cuộc chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ trở nên căng thẳng. Mỹ chẳng những tỏ ra cứng rắn một cách bất ngờ, chính sách về Biển Đông của Washington rõ ràng hơn, nó liên tiếp đưa ra những thông điệp đến với Bắc Kinh rằng sự lấn áp của họ đối với vùng biển quan trọng này không thể nhận được sự im lặng của Mỹ, mà trái lại nó đang thử thách sức mạnh của một siêu cường dẫn đầu bởi một chính phủ đã thấy rõ dã tâm của một tập đoàn đang làm cho thế giới biến dạng. Và việc thả lỏng cho báo chí viết về cuộc chiến tranh biên giới 1979 là thông điệp gửi đến cho Mỹ: Chúng tôi không còn lưỡng lự nữa. Chỗ dựa của Việt Nam không hẳn là Mỹ, nhưng thái độ cứng rắn liên tục trong những sự việc xảy ra hồi gần đây cho thấy ít ra Việt Nam cũng đã có một quyết định tuy còn rụt rè nhưng Trung Quốc đã nhận ra họ không thể áp dụng chính sách cũ nữa và họ phải thay đổi, sự thay đổi này có làm Việt Nam dịu giọng hay không lại tùy vào thái độ của Mỹ. Điều quan trọng đối với Trung Quốc bây giờ là kế hoạch xâm lược bằng kinh tế, chính trị cửa sau hay phá hoại Việt Nam từ bấy lâu nay không bị phá sản sau nhiều năm ròng rã thực hiện và đã thành công. Những kế sách buộc Việt Nam vĩnh viễn sống trong vòng vây kinh tế của Trung Quốc tỏ ra hiệu quả do sự yếu kém về năng lực của cấp lãnh đạo Việt Nam một phần, một phần khác do lòng tham không đáy của các quan chức nhà nước có thẩm quyền trong việc phê duyệt các hợp đồng mà kết quả là luôn luôn bị Trung Quốc dẫn dắt theo hướng có lợi cho họ. Kế hoạch khai thác tài nguyên khoán sản của Việt Nam với giá rẻ mạt đã được Bắc Kinh thực hiện thông qua các đời Tổng bí thư cho đến nay vẫn còn ám ảnh nền kinh tế của Việt Nam. Bauxite Tây nguyên đã thua lỗ đối với Việt Nam nhưng với Trung Quốc nó chỉ là một con tép nhỏ bé dùng vào việc xâm lăng sức lao động của công nhân Trung Quốc. Các mỏ than tại Quảng Ninh tiếp tục mất trắng bởi giá cả bán than chưa tinh chế cho Trung Quốc và nhập lại than đã luyện với giá đắt gấp nhiều lần hơn. Đây là kết quả của chính sách khai thác bừa bãi, thiếu khoa học do Trung Quốc chỉ đạo để kết quả ngày hôm nay không còn lựa chọn nào khác. Từ năm 2012, Chính phủ Trung Quốc đã công bố danh sách hàng ngàn nhà máy, dây chuyền lạc hậu phải loại bỏ và để giải quyết số của nợ đó Việt Nam được nhắm tới như một bãi chứa rác nhưng lại kiếm ra tiền nhờ tư duy ham rẻ của người bạn phương Nam. Kết quả là sau khi mua những nhà máy, dây chuyền ấy về, Việt Nam lăn lộn trong đống sắt vụn và người bán có thêm cơ hội làm cố vấn để bán cho nạn nhân thêm những phụ kiện khác để thay thế. Không một thống kê nào nêu lên sự thiệt hại của doanh nghiệp trong cơn lên đồng mua máy móc phế thải Trung Quốc, vì vậy không ít doanh nghiệp thiếu thông tin tiếp tục làm cừu cho Bắc Kinh xẻ thịt. Về kinh tế, Trung Quốc là bậc thầy của thế giới về đấu thầu. Chính sách của Bắc Kinh luôn nâng đỡ cho doanh nghiệp có làm ăn tại Việt Nam bằng cách bơm tiền từ các ngân hàng nhà nước nếu doanh nghiệp có yêu cầu. Việt Nam thiếu vốn nhưng các công ty quốc doanh lại có nhu cầu thực hiện các dự án nhiều khi không cần thiết cho đất nước nhưng lại cần thiết cho bề ngoài hào nhoáng của chế độ. Một dự án được phê duyệt là bộ máy tham nhũng chuyển động. Các công ty đấu thầu của Trung Quốc được rỉ tai và kết quả thường thấy là 95% dự án được Trung Quốc lãnh thầu sau khi vốn vay được chính Trung Quốc bảo lãnh. Theo báo chí thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư từng nêu lên nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhà thầu Trung Quốc trúng thầu là những dự án sử dụng vốn vay của Trung Quốc, mà để vay vốn Trung Quốc thì Việt Nam phải chấp nhận nhà thầu Trung Quốc thực hiện gói thầu như một điều kiện vay. Cũng theo phát hiện của báo chí thì “với 552 triệu đôla tiền vay ODA Trung Quốc để thực hiện dự án Cát Linh - Hà Đông và với lãi vay thương mại ưu đãi trung bình 3%/năm, nhiều chuyên gia cho rằng, mỗi năm phía Việt Nam phải trả khoảng 240 tỷ đồng tiền lãi (tương đương 600 triệu đồng/ngày). Còn với khoản lãi vay tăng thêm do dự án bị đội giá, Việt Nam phải trả nợ trong vòng 9 năm cho ngân hàng China EximBank của Trung Quốc. Cộng cả hai khoản vay, mặc dù dự án chưa hoàn thành, nhưng mỗi ngày phía Việt Nam đang phải trả cho Trung Quốc cả lãi lẫn gốc khoảng 2,4 tỷ đồng.” Kết quà luôn luôn là phần thiệt hại vào tay Việt Nam. Dự án bị đội vốn, nhà thầu làm việc tắc trách, phẩm chất dự án luôn là số âm và trách nhiệm đối với những chữ ký hay bút phê từ cấp trên không bao giờ được vạch ra trước công luận. Phần thiệt hại ấy tính vào nợ công và người dân oằn lưng đóng thuế để chi trả khoản nợ nước ngoài mà họ không hề hay biết. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Từ Thuý Anh và Tiến sĩ Nguyễn Bình Dương thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách VEPR thì “sự áp đảo của các nhà thầu Trung Quốc trong các dự án lớn ở Việt Nam đã làm cho thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng cao. Có đến 90% dự án công nghiệp nặng như các công trình điện, khai khoáng, dầu khi, luyện kim, hoá chất… của Việt Nam đều do Trung Quốc đảm nhiệm, với giá trị trúng thầu hàng trăm triệu cho đến hàng tỷ USD mỗi dự án”. Chẳng những vậy rất nhiều dự án dang dở sau khi nhà thầu Trung Quốc làm việc do thiếu vốn, thiếu nguyên vật liệu hay những lý đo khác mà các công trình như dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên, dự án nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình, dự án cải tạo, mở rộng nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc hay dự án thủy điện Thượng Kon Tum đều có những lý do khiến nhà nước không tài nào đối phó. Cơn phá sản của các công trình ngày càng nhiều chứng tỏ Trung Quốc rất thành công trong nổ lực xâm lăng Việt Nam thông qua con đường kinh tế. Doanh nghiệp lớn của Trung Quốc được chính phủ của họ tạo điều kiện xâm thực cơ cấu kinh tế vĩ mô của Việt Nam thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại tấn công Việt Nam ở những chiến trường khác, mà chiến thắng của họ căn cứ trên sự thiếu kiềm soát của cơ quan chức năng Việt Nam, cộng với tham nhũng, móc ngoặc của cán bộ các cấp lại được sự tham gia nồng nhiệt của đa số người dân vì ham rẻ, ham kiếm lời nhanh chóng bất kể sản phẩm của mình tạo ra có làm nguy hại đến người khác. Bên cạnh các mặt hàng gia dụng có tẩm các chất phụ gia độc hại, nhiều loại rau củ quả Trung Quốc hiện nay cũng xuất hiện tràn lan trên thị trường được bày bán tràn lan đều được đóng nhãn mác Việt Nam hoặc hàng Thái Lan, Mỹ, hay New Zealand để đánh lừa người tiêu dùng. Nhiều lô hàng trái cây Trung Quốc, nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai vượt mức từ 3 tới 5 lần dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật cho phép. Cuộc xâm lược kinh tế Việt Nam tuy được che đậy bằng lợi nhuận ít ỏi mà người dân Việt Nam kiếm được nhưng tác hại của nó vô cùng to lớn cho tương lai đất nước. Truyền thông Việt Nam tuy hứng khởi với sự cho phép tạm thời việc kỷ niệm 40 năm ngày nổ ra cuộc chiến tranh biên giới nhưng một cuộc chiến khác đang xảy ra nếu không được cảnh giác một cách có hệ thống thì đất nước sẽ không khác gì bãi chiến trường như các tỉnh phía Bắc 40 năm trước. Chỉ khác một điều sự phá hoại của cuộc xâm lược lần này nằm trên từng con người Việt Nam khắp ba miền. Nó tác hại lên sức khỏe, niềm tin, sức sáng tạo cũng như năng lực làm việc của người dân. Nó biểu hiện sự ù lì, vô cảm, và nhất là tính chiến đấu bị mài mòn do sự tiếp tay của bọn nằm vùng lãnh lương từ những đồng nhân dân tệ được hóa phép thành những tờ giấy xanh nổi tiếng./.    
......

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Tây Úc lên tiếng cho Ông Châu Văn Khảm

Cộng Đồng Người Việt Tự Do Tây Úc trong một lá thư gởi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Úc Marise Payne ngày 11/2/2019 đã bày tỏ sự quan tâm về việc nhà cầm quyền CSVN bắt giữ ông Châu Văn Khảm và ông Nguyễn Văn Viễn tại Việt Nam vào ngày 13/1/2019 và yêu cầu chính phủ Úc theo sát tình trạng của hai ông và bảo đảm hai ông được trả tự do vô điều kiện. Dưới đây là nguyên văn lá thư của Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu – Tây Úc. BBT Web Việt Tân — Ngày 11 Tháng 2, 2019 Kính gửi: Thượng Nghị Sĩ Marise Payne Bộ Trưởng Ngoại Giao Quốc Hội Canberra, ACT 2600 V/v: Một công dân Úc bị bắt giam tại Việt Nam vào ngày 13/1/2019 Kính thưa Bộ Trưởng, Tôi muốn bày tỏ mối quan tâm về sự an toàn của một công dân Úc là ông Châu Văn Khảm, cũng là một thành viên của Cộng Đồng Người Việt tại NSW. Cộng Sản Việt Nam đã giam giữ phi pháp ông Khảm vào ngày 13/1/2019 khi Ông từ Cao Miên đến viếng Việt Nam. Ông Khảm là một đảng viên Đảng Việt Tân, một tổ chức chính trị hợp pháp mà thành viên là những người không cộng sản ở khắp nơi trên thế giới. Dự đoán rằng Cộng Sản Việt Nam sẽ nói dối và lừa bịp thế giới khi họ báo cáo về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam tại Geneva vào ngày 22/1/2019, ông Khảm đã đi tới Việt Nam để thu thập dữ kiện chính xác về tình trạng vi phạm nhân quyền hầu phơi bày cùng Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc về một bộ máy gian trá khổng lồ mà những người cộng sản thực sự là những “chuyên gia”. Một công dân Việt Nam khác, cũng là một nhà hoạt động dân chủ, là ông Nguyễn Văn Viễn, cũng bị bắt cùng với ông Khảm tại Sài Gòn. Như vẫn quen làm, Cộng Sản Việt Nam sẽ vu cho họ những tội danh như “âm mưu lật đổ chính quyền”, một cáo buộc họ thường dùng để bịt miệng những ai dám chống lại kỷ luật thép, sự độc quyền chính trị và nền chuyên chính của họ. Chế độ này đã tạo ra một guồng máy tham nhũng ở mọi cấp bực chưa từng thấy trong lịch sử 4.000 năm của chúng tôi. Để nắm giữ tài nguyên quốc gia hiện đang nằm trong túi riêng của họ, chế độ tuyệt đối không khoan nhượng đối với bất kỳ sự chỉ trích nào, lớn hay nhỏ. Những quyền con người được ghi trong Hiến Pháp mà ông Hồ Chí Minh tuyên đọc vào ngày 2/9/1945 là một sự lừa bịp toàn diện, và không một điều nào được áp dụng trong thực tế. Dân Chủ và Tự Do chỉ hiện hữu trong các nhà tù khủng khiếp chứ không có ở bên ngoài. Đã bốn tuần lễ trôi qua kể từ khi họ bị bắt giam và hoàn toàn bặt tin, trong tinh thần nhân bản, chúng tôi trân trọng yêu cầu chính phủ Úc cập nhật về tình trạng của ông Châu Văn Khảm (và ông Nguyễn Văn Viễn) và bảo đảm là họ được trả tự do vô điều kiện. Chúng ta có quan hệ chiến lược và ngoại giao quan trọng với Việt Nam ở tầm mức quốc gia, nhưng chúng ta không chấp nhận vi phạm nhân quyền. Mọi chế độ đều có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nhưng quốc gia thì trường tồn. Trân trọng, (Đã ký) Bác sĩ Anh Nguyễn Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Tự Do Úc Châu – Tây Úc Nguồn: https://viettan.org/cong-dong-nguoi-viet-tu-do-tay-uc-len-tieng-cho-ong-chau-van-kham/
......

‘Bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’?

Lần đầu tiên kể từ năm ‘giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước’, đảng CSVN bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, đồng nghĩa với cơ chế mặc nhiên chấp nhận nhiều ca khúc mà trước đó bị xem là ‘nhạc vàng’, ‘nhạc ngụy’ và ‘ca khúc phản động’, cũng đồng nghĩa với tương lai Cục Nghệ thuật biểu diễn (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) mất mát một giấy phép con chủ chốt và do đó ‘mất ăn’. Cục Nghệ thuật biểu diễn tự ‘bỏ ăn’? Vào ngày đầu tiên sau tết nguyên đán 2019, báo chí nhà nước đưa tin “Chính phủ đã đồng ý với một số đề xuất xây dựng dự thảo nghị định mới thay thế nghị định 79, như bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975, chỉ đưa ra quy định những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức, đi ngược lại lợi ích quần chúng thì sẽ bị cấm”. Theo Quyền cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn Nguyễn Quang Vinh: “Bỏ cấp phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau 1975 đều như nhau”. Một động thái ‘lạ’. Lại ‘hòa hợp hòa giải’ chăng? Trong lịch sử tồn tại của mình, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã nhiều lần ‘quản không được thì cấm’ và ‘vẽ’ ra nhiều thủ tục bắt các doanh nghiệp phát hành ca khúc trước 1975 phải xin phép cục này. Quá nhiều dư luận đã phát sinh đầy bức bối về cách ‘làm tiền’ lộ liễu và trơ trẽn của cơ quan này nhân danh công cuộc bảo vệ ý thức hệ cộng sản và ‘bài trừ tàn dư văn hóa Mỹ - ngụy’. Vào đầu năm 2017, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã gây ra một scandal thuộc loại rất vớ vẩn và tạp nham khi ra thông báo tạm thời dừng lưu hành 5 bài hát sáng tác trước 1975 “để xem xét, xác minh, thẩm định trên cơ sở đối chiếu về ca từ với bản nhạc gốc”. Đó là các ca khúc: Cánh thiệp đầu xuân của tác giả Lê Dinh - Minh Kỳ, Rừng xưa và Chuyện buồn ngày xuân của tác giả Lam Phương, Đừng gọi anh bằng chú của tác giả Diên An, và Con đường xưa em đi của tác giả Châu Kỳ - Hồ Đình Phương. Lý do: vi phạm tác quyền, thay đổi nội dung so với bản gốc, nhầm tên tác giả. Nhưng đến tháng 4/2017, vì sức ép từ dư luận và Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Cục trưởng Cục Nghệ thuật Biểu diễn lúc đó là ông Nguyễn Đăng Chương đã phải ký văn bản thu hồi quyết định tạm dừng 5 ca khúc trên. Còn giờ đây, kế hoạch ‘bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975’ của chính quyền Việt Nam lại đang gây ra mối nghi ngờ lớn về tính thành thật của nó. Vì sao Cục Nghệ thuật biểu diễn lại tự ‘bỏ ăn’, trong khi cấp phép ca khúc là một thủ tục hành chính đầy ‘màu’ mà đã giúp nuôi sống nhiều quan chức? Liệu đây chỉ là động tác ‘đơn giản hóa thủ tục hành chính’ nằm trong chủ trương tiết giảm giấy phép con của chính phủ ‘kiến tạo và hành động’ của Thủ tướng Phúc, hay còn nhắm đến một ý đồ nào khác - đặc biệt là ý đồ chính trị? Liệu chủ trương hay ý đồ này có được Cục Nghệ thuật biểu diễn thực hiện nghiêm, hay cơ quan này vẫn tiếp tục dựa vào quy định “những bài hát có nội dung xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ cá nhân hay bôi nhọ tổ chức” sẽ bị cấm để tiếp tục trò ‘hành là chính’ và ‘làm tiền’ đối với các công ty phát hành băng đĩa? Vắt chanh bỏ vỏ Vào tết nguyên đán năm 2019, người ta vẫn thấy giới chóp bu Việt Nam phân công nhau đi chúc tụng Ủy ban người Việt ở nước ngoài và những Việt kiều được xem là ‘đại diện’ cho cộng đồng hơn 4 triệu người Việt hải ngoại, vẫn một lần nữa ‘đồng ca’ không mỏi miệng về ‘nghị quyết 36’ của Bộ Chính trị về công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và những lợi ích mà nghị quyết này đã làm được cho ‘khúc ruột ngàn dặm’. Nhưng gặp ‘kiều bào’ xong thì đâu vẫn vào đó. Cho tới nay chính quyền Việt Nam vẫn chẳng chứng minh được một trường hợp ‘trí thức kiều bào’ nào đã được đảng tạo điều kiện làm việc một cách thực chất, đặc biệt là nhiều trí thức hải ngoại ở Mỹ về nước đã bị các cơ quan và giới quan chức chính quyền từ trung ương xuống các địa phương - nhẹ nhàng thì tiếp đón đãi bôi rồi gạt sang một bên, nặng nề hơn thì soi mói về gốc gác ‘Việt Nam Cộng Hòa’, còn trầm trọng nhất thì chỉ thị cho công an gọi hỏi, triệu tập và răn đe về ‘hành vi chống phá’… Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu - một trường hợp hiếm hoi được chính quyền tặng căn hộ và bố trí cho ông Châu phụ trách một viện đào tạo toán học, chỉ vì lấp ló tư tưởng và hành động phản biện về bản hiến pháp Việt Nam mà đã bị giới dư luận viên vô giáo dục của chính quyền lồng lộn chửi bới bằng đủ các từ tục tĩu và xúc phạm nhân phẩm. Tình trạng trên cũng chính là nguồn cơn sâu cay khiến ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ bị phá sản đến hai lần vào năm 2017. Vì sao ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ thất bại? Kế hoạch tổ chức ‘Hội nghị hòa hợp văn học’ được đề xuất bởi nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và là quan chức được xem làm ‘ngoan hiền dễ bảo’ của đảng cầm quyền nên đã được đảng cho ngồi yên ấm trên ghế chủ tịch này đến 4 khóa, bất chấp ông Thỉnh đã gần tám chục tuổi. Vào đầu năm 2017, Hữu Thỉnh đã bất ngờ công bố một kế hoạch chưa từng có tiền lệ trong lịch sử tồn tại của đảng: Hội Nhà văn Việt Nam sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người từng cầm bút phục vụ chế độ cũ (VNCH), về dự “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học”. Nhưng ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học,” khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính “cuội.” Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị quyết 36 của Bộ Chính Trị về “công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể “chiêu dụ người Việt hải ngoại” như thế? Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan “đảng quang vinh” về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến “khúc ruột ngàn dặm” nhằm hút đô la “làm giàu cho đất nước” càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại. Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của “khúc ruột ngàn dặm” được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để “cống hiến,” nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi “vòng tay của đảng.” Về thực chất, nếu chính quyền Việt Nam không quá ‘nô lệ’ cho nhu cầu kiều hối đô la, “khúc ruột ngàn dặm” đã chẳng có gì khác hơn là “ruột dư” Làm sao để đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’? Hẳn nhiên, kiều hối là một nguồn quan trọng đã giúp duy trì “máu” để chính quyền Việt Nam vẫn có thể tạm ung dung về “đà tăng trưởng kinh tế không ngừng”, đồng thời khi cần thiết có thể gia tăng in tiền mặt để “gom” USD trôi nổi từ dân chúng, đặc biệt từ các gia đình ở Sài Gòn được thân nhân ở nước ngoài gửi ngoại tệ về, giúp bổ sung kho dự trữ ngoại hối và có thêm ngoại tệ để dễ bề trả số nợ nước ngoài đang lên đến hàng chục tỷ USD hoặc hơn mỗi năm. Chính vào thời gian này, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sau mức đỉnh 13,2 tỷ USD của năm 2015, số kiều hối về Việt Nam trong hai năm 2017 và 2018 rất có thể đã giảm thê thảm, chỉ còn khoảng 7-8 tỷ USD, bổ túc thêm nỗi căng thẳng thường trực của giới chóp bu Việt Nam phải đào bới bằng được những nguồn ngoại tệ còn lại để trả nợ cho nước ngoài và chi xài cho bộ máy khổng lồ nhưng đậm đặc chất ăn bám của đảng và chính quyền. Khi kiều hối về Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong vài ba năm tới, ngân sách sẽ không biết tìm đâu ra ngoại tệ mạnh để thanh toán các khoản đến hạn với quốc tế, trong bối cảnh dải đất hình chữ S đã chìm trong cơn suy thoái kinh tế năm thứ 10 liên tiếp, tràn ngập bất ổn xã hội và bất ổn chính trị, và nhiều nguy cơ sắp rơi vào cuộc khủng hoảng không lối thoát. Một nguồn giấu tên cho biết ngân sách Việt Nam sẽ sớm rơi vào cạn kiệt ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Thời điểm cạn kiệt gần nhất là vào cuối năm 2019. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng “cải cách”. Trong những “cải cách” đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về “lấy lòng người Việt hải ngoại” - mà “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975” là một minh họa mang tính nửa vời và còn quá ít ỏi để khiến những đồng đô la ‘tự nguyện về nước đầu thú’ - theo cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã bày đặt trường hợp Trịnh Xuân Thanh ‘không bị bắt cóc’. Phạm Chí Dũng
......

Điểm lại lịch sử

Mối bất hoà giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu từ năm 1962, đến năm 1969 là coi nhau như thù địch. Cũng từ lúc đó trở về sau, CSVN đứng giữa 2 chọn lựa, theo anh hai Liên Xô hay theo anh ba Trung Cộng? Ngay từ lúc đấy, CSVN chẳng muốn bỏ ai, nên thực hiện trò chơi đu dây giữa 2 thằng anh Cộng Sản này. Trong chiến tranh Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Cộng đều viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Nhưng mỗi thằng có một dụng ý khác nhau. Thằng anh Liên Xô đang chạy đua vũ trang với Mỹ nhưng cả Mỹ và Liên Xô đều không muốn nổ ra chiến tranh, nên Liên Xô viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Tức trong bàn cờ Chiến Tranh Lạnh 2 con tướng xúi 2 con tốt phân cao thấp thôi, chứ 2 tướng không đánh trực diện. Còn riêng Trung Cộng viện trợ Hà Nội nhằm mục đích gì? Trung Cộng thích làm ăn hơn thích thể hiện, nên Trung Cộng viện trợ là để đưa Hà Nội vào vòng phụ thuộc mình. Mục đích là để làm gì? Mục đích là từ các khoản nợ đó, Trung Cộng sẽ thu hồi giang sơn Việt Nam để cấn nợ. Dùng những món nợ ấy để nuốt dần Việt Nam như trăn nuốt mồi. Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng chính là khoản trả nợ của Hà Nội với "ơn nghĩa" Trung Cộng. Riêng CSVN thì được 2 thằng hùng mạnh nhất nhì khối CS viện trợ, được hậu thuẫn quá mạnh, Hà Nội hăng máu tràn vào Miền Nam tắm máu đồng bào. Kết quả họ nướng 3 triệu đồng bào thành đống xương tàn để có được "mùa xuân đại thắng" cho ĐCSVN. Kể từ năm 1972, Trung Cộng bắt tay Mỹ để tranh thủ làm ăn kinh tế, lúc đó Liên Xô và Trung Cộng càng mâu thuẫn hơn nữa. Đến năm 1978, Trung Cộng mở cửa đón Mỹ vào làm ăn, từ đó mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng đẩy lên cực độ. Giờ khoảng cách giữ Liên Xô và Trung Cộng quá xa, Việt Nam không thể đu dây được nữa, nếu tiếp tục đu, thì dây đứt CSVN sẽ chết. Cho nên, đến thời điểm này buộc CSVN phải chọn lựa 1 trong 2. Và Việt Nam đã chọn theo anh hai bỏ anh ba, thế là thằng Trung Cộng tức lồng lộn. Vậy là bao công sức tiền của của Trung Cộng đổ ra nuôi Việt Cộng để nhằm mục đích thu nợ bằng lãnh thổ Việt Nam giờ tan thành mây khói. Điên tiết vì mất cả chì lẫn chài, nên ngày 17/02/1979 Đặng Tiểu Bình xua hơn nửa triệu quân sang "dạy cho Việt Nam một bài học". Sau 1 tháng Trung Cộng tàn sát nhân dân Việt Nam và phá hủy 6 tỉnh biên giới miền Bắc thành bình địa, Việt Nam đánh bật quân cướp nước ra khỏi biên giới. Kể từ sau năm 1979, thằng em út Việt Nam có anh hai Liên Xô làm chỗ dựa, nên Hà Nội không việc gì phải hòa thuận với Trung Cộng. Thế nhưng, đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Cộng bơ vơ, nên nhóm Linh - Mười - Anh mang chiếu sang Thành Đô lót gối quỳ lạy tạ lỗi với anh ba vì đã lỡ dại phản anh ba theo anh hai trong quá khứ. Giờ anh hai chết rồi, nay thằng em út xin làm trâu ngựa để nghe anh ba sai bảo, đang mồ côi nên em quỳ lạy anh ba che chở dùm. Mà một khi đã tự mình xin làm nô lệ, thì những kế hoạch mà anh ba định làm dang dở trước đó phải được phục hồi lại hoàn toàn. Như vậy kế hoạch dang dở của Trung Cộng với Việt Nam là gì? Như đã nói phần đầu, đó là làm cho Việt Nam nợ ngập đầu và tiến hành cấn trừ bằng lãnh thổ. Cho nên, từ năm 1990 đến nay, CSVN liên tục nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để trả hết món nợ cũ. Đó là cái giá mà CSVN theo đuổi chủ thuyết CS để bảo vệ sự độc tài cai trị. Và tất nhiên, khi trả nợ cũ thì Trung Cộng cũng tròng thêm nợ mới trên đầu Việt Nam bằng thứ bẫy nợ mà Trung Cộng đã và đang áp dụng. Một khi CSVN đã gắn kết với Trung Cộng thì rứt không ra được, vì những món nợ đáng kinh tởm cứ lớn dần, và bắt buộc CSVN phải tìm cách nào đấy để giải quyết với dân nhằm thực hiện tiến trình nhượng địa cấn nợ. Và cứ như thế Trung Cộng tứ từ từ tùng xẻo lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang mất dần lãnh thổ về tay Trung Cộng, nhân dân đang phẫn uất. Thêm vào đó, là sự hèn hạ của ĐCSVN trước sự lấn tới của Trung Cộng làm lòng dân vốn đã căm phẫn lại càng căm phẫn. Chưa hết, đầu năm 2019, XHCN Venezuela đang lâm vào đường cùng, sợ phẫn uất của dân cộng hưởng với biến động Venezuela làm dân tràn xuống đường, thế nên ngày 17/02 năm nay, Đảng bật đèn xanh cho Ban Tuyên Giáo mở lệnh cấm, cho phép báo viết về chiến tranh biên giới 1979. Đây là hình thức xả van để giảm nhiệt tức giận của dân mà thôi. Chẳng có gì đáng mừng, mọi thứ đều không thay đổi. Tất cả đều nằm trong kế sách trị dân của ĐCS./. Đỗ Văn Ngà  
......

CSVN muốn thoát Tàu?

Nguyễn Bình Trung Theo ông Hữu Thịnh, Chủ tịch hội nhà báo Việt Nam cho biết là giữa tháng 12/2018, Trung ương CSVN cho phép tổ chức tưởng niệm 40 năm trận chiến biên giới phía Bắc với Trung Cộng bằng văn thơ. Tức là cho dùng văn thơ để ca ngợi cuộc chiến biên giới xảy ra vào tháng 2 năm 1979 cách nay 40 năm. Qua sự “bật đèn xanh” này, ta thấy trên các báo đài của CSVN, đã có nhiều bài mạnh dạn hơn nói về lịch sử đánh Tàu của dân Việt. Bắt đầu là những bài viết đề cập đến một cách chính thức trận hải chiến Hoàng Sa của hải quân VNCH nhân kỷ niệm trận chiến này vào tháng Giêng vừa qua trong khi đề cao người chiến sĩ VNCH vốn là điều CSVN vẫn cấm kỵ từ trước đến nay. Mới đây, báo chí lại bắt đầu đăng nhiều kỳ “hồi ức” của ông Vũ Mão về cuộc chiến biên giới và những tàn ác của quân đội Trung Cộng. Những loại bài viết như thế này không còn xuất hiện trên báo chí đảng từ hơn 10 năm qua. Lý do là CSVN sợ Tàu Cộng khó chịu. Ngay cả những địa danh đụng độ ác liệt với quân Tàu Cộng và những tấm bia nói lên tội ác Tàu cộng lập hồi năm 1979 – 1980 cũng bị CSVN phá. Vậy mà năm nay ban tuyên giáo thay đổi chủ trương cho kể tội xâm lược của Đặng Tiểu Bình và làm lễ kỷ niệm 40 năm trận chiến biên giới này. Theo hãng tin Reuters, khi coi được bản dự thảo thương thuyết của khối ASEAN về quy tắc ứng xử trên Biển Đông, thì thấy Hà Nội có vẻ mạnh dạn nhất trong khối thúc đẩy những điều khoản có thể làm phật lòng Bắc Kinh như hạn chế các vùng nhận diện phòng không, phi pháp hoá việc xây đảo nhân tạo, phong toả vùng biển và triển khai vũ khí tấn công. Đầu tháng Giêng năm nay, CSVN cũng nhanh nhẩu lên tiếng cổ võ tự do hải hành trên Biển Đông ngay sau khi chiến hạm USS McCampbell của Mỹ tuần tra sát gần Hoàng Sa trước sự phản đối của Tàu Cộng. Những động thái trên của Hà Nội có thể tạo ấn tượng cho người ta nghĩ rằng CSVN nay cũng đang muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu Cộng? Giả thuyết này không phải là không tưởng. Bản chất của CSVN là không có sự chung thuỷ tuyệt đối với ai ngoài sự chung thuỷ trước sau với mục tiêu duy nhất là cướp và nắm giữ chính quyền bằng mọi giá. Lịch sử đã cho thấy người CS đã thanh trừng tàn sát chính những đồng chí anh em của mình để tranh giành quyền lực củng cố ghế ngồi trên của mình. Trong mục đích bám giữ quyền lực ta thấy lãnh đạo CSVN luôn đi tìm thế lực mạnh để chống lưng dựa vào, như đã lệ thuộc vào khối CS quốc tế để chiếm miền Nam, lệ thuộc vào Liên Xô đến nỗi Đặng Tiểu Bình của Tàu Cộng nổi giận muốn dạy cho bài học trong cuộc chiến biên giới 1979, và khi Liên Sô sụp đổ thì lại quay sang khấu tấu Tàu Cộng. Cho nên không phải là điều ngạc nhiên khi Tàu Cộng có dấu hiệu gặp khó khăn về kinh tế trong trận chiến thương mại với Mỹ, khi sự hung hăng của Tập Cận Bình khiến quốc tế lo ngại bắt đầu muốn cô lập kềm chế Tàu thì CSVN cũng bắt đầu muốn thủ cẳng chuẩn bị đi tìm một chỗ dựa khác và đang dọn mình vào thế đu dây giữa việc lệ thuộc Tàu và việc treo giá để bán mình cho đàn anh nào khác. Nhưng nếu quả thật như thế liệu CSVN có thể thoát Tàu được không? Tàu Cộng là thầy của CSVN và hơn ai hết cùng là cộng sản với nhau thì hiểu bản chất của nhau hơn ai hết, nhất là khi Tàu Cộng đã từng tin rằng CSVN đã ăn cháo đá bát phản bội mình để đi với Liên Xô trước kia. Cho nên Tàu Cộng đã thủ trước và đã gài lãnh đạo CSVN vào vòng kim cô khó thoát khỏi. Theo Thiếu tướng công an Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an Nhân dân và Giám đốc Học viện Chính trị Công An Nhân dân nay đã bị cho về hưu non, thì Trung Quốc đã cài cắm sâu người trong nội bộ đảng CSVN. Tàu Cộng cũng đã nắm kiểm soát được các địa điểm chiến lược về kinh tế và quân sự của Việt Nam. Tàu Cộng cũng là vua mua tham nhũng, nên giới cầm quyền CSVN vốn toàn quan tham đã dễ dàng bị mua chuộc để bị khống chế hoàn toàn. Ta cũng thấy Nguyễn Phú Trọng đã và đang hành xử rập khuôn theo Tập Cận Bình về việc nhất thể nắm Đảng và nhà nước, đốt củi nướng lò theo đuôi “đả hổ diệt ruồi”. Cho nên dù CSVN có muốn hay không, khả năng thoát Tàu của Hà Nội hầu như vô vọng khi mà CSVN vẫn còn cầm quyền trên đầu dân Việt. Một lý giải thực tế hơn, là những động thái có vẻ thoát Tàu kể trên chỉ là hình thức. Mục tiêu của Hà Nội là chiêu dụ Mỹ và các nước đang lo ngại Tàu để họ o bế mình hơn. Đồng thời qua đó lãnh đạo CSVN xoa dịu và ru ngủ tinh thần kháng Tàu trong nội bộ đảng và một số người dân nhẹ dạ, để tránh những cuộc biểu tình chống Tàu đe dọa sự sống còn của chế độ như vụ biểu tình ngày 10 tháng 6 xảy ra 12 tỉnh thành chống dự luật về đặc khu. Nói cách khác, Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm cho diễn trò chống Tàu trên mặt báo đảng chỉ là thủ thuật nhằm làm giảm áp suất của quần chúng ghét Tàu cộng trước sự căng thẳng của cuộc chiến mậu dịch Mỹ-Trung và nhất là che đậy âm mưu bán nước qua việc cho tư bản Tàu ào ạt đầu tư tại Việt Nam để tránh áp thuế của Hoa Kỳ gần đây. Tóm lại, quan hệ giữa CSVN với Tàu cộng đã kéo dài hơn nửa thế kỷ. Cái gọi là “tình hữu nghị” của hai đảng đã từng được ví là “răng môi” thì làm sao CSVN dám buông Trung Quốc. Đất nước Việt Nam chỉ thoát được cái bóng Tàu cộng khi nào Việt Nam có một thể chế thật sự do người dân bầu ra và đặt quyền lợi Tổ Quốc và Dân Tộc lên trên hết. https://viettan.org/csvn-muon-thoat-tau/  
......

Juan Guaidó làm lịch sử

Ngô Nhân Dụng Người Việt Ông Juan Guaidó mới nói trên đài truyền hình tại thủ đô Caracas, báo tin một số phẩm vật cứu trợ quốc tế đã tới tay người dân Venezuela. Hình ảnh cho thấy những người dân đang cầm biểu ngữ viết “Cảm ơn Cộng đồng Quốc tế” (Gracias Comunidad Internacional) ở biên giới giữa Colombia và Venezuela. Tuần trước, Tổng Thống Venezuela Nicolás Maduro ra lệnh quân đội đóng cửa cây cầu biên giới, không cho đem đồ cứu trợ vào, trong lúc hàng triệu dân chúng đang thiếu ăn. Đáp lại, ông Guaido đã kêu gọi quân đội để cho phẩm vật cứu trợ được tự do đi qua. Cuộc đấu giữa nhà độc tài Maduro và Guaidó đã bắt đầu từ ba tuần qua. Ông Maduro, cầm quyền từ năm 2013, đang chuẩn bị tiếp tục nắm quyền sau cuộc bầu cử, nhưng các đảng đối lập và nhiều quốc gia không công nhận kết quả cuộc bỏ phiếu mà họ tố cáo là gian lận trắng trợn. Ông Guaidó đã tuyên bố nhậm chức Quyền Tổng Thống Venezuela, ngày 23 Tháng Giêng, 2019, chiếu theo bản Hiến Pháp quy định rằng khi trong nước không có tổng thống thì vị chủ tịch Quốc Hội tạm nắm quyền cho đến khi tổ chức bầu cử tổng thống mới. Hàng trăm ngàn dân chúng Venezuela biểu tình ủng hộ ông Guaidó và hơn 60 quốc gia đã công nhận ông là tổng thống hợp pháp của Venezuela. Ông đã phong nhậm nội các, bổ nhiệm đại sứ, và ra lệnh cho các lực lượng an ninh. Ngày Thứ Ba, 12 Tháng Hai, dân Venezuela lại biểu tình khắp nơi ủng hộ vị tổng thống lâm thời. Đối với thế giới bên ngoài, các hành động của Juan Guaido có vẻ như một tấn kịch được sắp xếp có trình tự, trong vài tuần lễ đã biến một lãnh tụ đối lập 35 tuổi thành một vị tổng thống lâm thời. Nhưng thực tế không giản dị như vậy. Trước biến cố giống như một cuộc “đảo chính” này, Juan Guaidó mới lên làm chủ tịch Quốc Hội, vì đến lượt đảng Dân Chí (Popular Will) của ông đảm nhận chức này, theo sự dàn xếp của các đảng đối lập. Hành động của ông rất bất ngờ. Một ngày trước khi tự đứng ra tuyên thệ nhậm chức, Guaidó vẫn chưa quyết định. Đấu tranh bất bạo động nhìn từ chuyển biến Venezuela Trong thực tế, các lực lượng đối lập trong 20 năm qua chưa bao giờ có chung một đường lối thống nhất. Nhiều người muốn “đối thoại” với với chế độ độc tài mang danh “xã hội chủ nghĩa” của Hugo Chávez, và người kế vị, Nicolás Maduro. Họ đau đớn vì kinh nghiệm những thất bại. Năm 2002, một cuộc đảo chính bất thành, Chávez càng mạnh hơn. Những cuộc biểu tình năm 2014 và 2017 nhằm lật đổ Maduró cũng thất bại, 200 thanh niên thiệt mạng. Trong thời gian đó thì nền kinh tế Venezuela rớt xuống hố thẳm, nguồn lợi chính của quốc gia là dầu lửa sản xuất ngày càng ít hơn vì nạn tham nhũng, bè phái và bất lực, lạm phát lên tới 1,7 triệu phần trăm, thuốc men và thực phẩm khan hiếm khiến người dân khốn khó. Bốn lãnh tụ đối lập quan trọng nhất đã bàn việc lật đổ chế độ độc tài nhưng chưa có chương trình cụ thể. Hai người đang sống lưu vong, hai người đang bị quản thúc. Tháng Mười Hai, năm 2018, các đảng đối lập họp nhau mỗi ngày, nhưng chưa thống nhất. Một biến cố bất ngờ là ngày 4 Tháng Giêng, “Nhóm Lima” gồm 14 quốc gia Châu Mỹ La Tinh viết thư kêu gọi Maduró hãy từ chức vì bầu cử gian lận, và hãy trao quyền cho Quốc Hội. Chính phủ Canada cũng ký tên vào lá thư này. Các lãnh tụ đối lập trong nước Venezuela không ngờ có bức thư đó, họ cảm thấy thời cơ đã tới. Cuối cùng, một số người mới đồng ý phải có một vị tổng thống lâm thời, thay thế Maduró, và họ thúc đẩy Guaidó nhận đóng vai này. Họ chọn thời cơ thuận tiện nhất. Ngày 23 Tháng Giêng, hàng trăm ngàn dân chúng đi biểu tình, cũng là ngày kỷ niệm cuộc nổi dậy của nhân dân Venezuela lật đổ nhà độc tài quân phiệt Marcos Pérez Jiménez vào năm 1958. Khi ông Guaidó đứng trên khán đài tuyên bố sẽ đảm nhiệm chức tổng thống lâm thời, hàng trăm ngàn người hoan nghênh vỗ tay nồng nhiệt. Nhiều lãnh tụ đối lập đứng bên ông không biết trước, lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Có người lẳng lặng ra về, vì không biết biến cố này sẽ đưa tới đâu. Nhưng một khí thế mới đã bùng lên, thuận lòng dân, không thể nào quay ngược nữa. Không ai có thể dập tắt niềm hy vọng của hơn ba chục triệu con người! Guaidó đã biến một hành động có vẻ chiến thuật thành một biến cố có giá trị chiến lược. Ngay lập tức, nhiều quốc gia từ Châu Mỹ tới Châu Âu tuyên bố công nhận Guaidó là vị tổng thống hợp pháp. Dân Venezuela đã nhìn thấy họ có một người lãnh đạo mới, một người không những chỉ dám nói mà dám làm. Khung cảnh chính trị trong nước Venezuela đã thay đổi. Các đảng chính trị đối lập đều phấn khích, và đảng Dân Chí của ông Guaidó trở thành lực lượng tiên phong đối đầu với chế độ Maduro. Chính quyền Maduró bị đặt vào thế bị động. Mỹ và các nước Châu Âu phong tỏa kinh tế, cấm các ngân hàng không được quan hệ với công ty dầu lửa quốc doanh PDVSA, cắt đứt nguồn tài chánh của chính quyền Maduro. Nga gửi 400 lính đánh thuê qua giúp Maduro nhưng âm mưu đem vàng ra trả bị các nước khác chặn đứng vì không một công ty giao dịch vàng nào đứng ra làm công việc đó, sợ sau này bị trừng phạt. Nước mua nhiều dầu lửa của Venezuela nhất là Mỹ, đã ngưng mua. Không một ngân hàng Tây phương nào nhận chuyển tiền cho PDVSA. Đầu tuần này, Maduro đã phải thương lượng với các nhà nhập cảng dầu của Ấn Độ “trao đổi” thuốc men và các sản phẩm khác lấy dầu thô. Juan Guaidó làm lịch sử. Khi Maduro ra lệnh quân đội ngăn cấm của các cơ quan từ thiện quốc tế vào nước, lòng dân càng phẫn uất. Ông Guaidó đã thắng lớn khi đưa được những phẩm vật cứu trợ đó đến tay người dân, dù chỉ tượng trưng. Ông còn tuyên bố sẽ mở các đường chuyển hàng cứu trợ qua Brazil và các quần đảo Caribbean. Những nước lớn duy nhất đứng ra bảo vệ chế độ Maduro là Nga, Trung Cộng và Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng hôm qua Trung Cộng cũng bắt đầu chuyển hướng. Bộ Ngoại Giao Trung Cộng công nhận rằng họ đang thảo luận chính thức với người của chính phủ Guaidó. Trong hai mươi năm qua, Trung Cộng vẫn ủng hộ chính quyền “xã hội chủ nghĩa” của Chávez và Maduró. Nhưng bây giờ các đồng chí Cộng Sản này cũng lo lắng về mấy chục tỷ tiền đầu tư vào xứ Venezuela, trong đó có $20 tỷ đô la cho Maduró vay không biết bao giờ mới trả. Trong đám người trung thành với Maduró có những tướng lãnh phải cấu kết với nhau vì tất cả đã từng làm giầu bằng tham nhũng, và lo mai này sẽ cùng bị bỏ tù hay bị treo cổ. Ông Guaidó đã tuyên bố “ân xá” cho những người phục vụ cho chế độ cũ. Hai vị tướng Không Quân đã ly khai, kêu gọi quân đội tách khỏi chính quyền. Cuộc tranh đấu của nhân dân Venezuela vẫn còn kéo dài. Nhưng cuối cùng, có thể tin rằng lòng dân sẽ thắng bạo lực. Hành động của Bắc Kinh nói chuyện với phe đối lập chứng tỏ họ đã ngửi thấy ngày tàn của chế độ Maduró sắp tới.    
......

Sẽ có khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’?

Phạm Chí Dũng – VOA Một năm rưỡi sau vụ Nhà nước Đức tố cáo Trịnh Xuân Thanh bị mật vụ Việt Nam tổ chức bắt cóc ngay tại Berlin, vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ - nổ ra vào những ngày giáp tết nguyên đán năm 2019 - đang hứa hẹn sẽ trở thành một vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Vẫn là ‘kẻ tử thù của chế độ’ Điểm trùng hợp ngẫu nhiên và cứ như thể một thứ điềm báo dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam là trong khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc vào thời gian cuối tháng 4 năm 2017 và chưa đầy một tuần sau đó báo chí Việt ngữ ở Đức và cả báo chí Đức đã đưa tin về vụ này, thì vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ xảy ra vào những ngày cuối tháng 1 năm 2019 cũng được phát tin khoảng một tuần sau đó bởi báo chí quốc tế. Nhưng đặc biệt nhất là được phát tin một cách rất chi tiết bởi một blogger - người bị xem là ‘kẻ tử thù của chế độ cộng sản Việt Nam’: Người Buôn Gió, tức Bùi Thanh Hiếu, hiện đang sống ở Đức. Trong khi một số tờ báo nước ngoài, trong đó có báo Thái Lan, bắt đầu đề cập vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích’ một cách thận trọng và tỏ ý nghi ngờ có sự nhúng tay của phía Việt Nam, thì blogger Người Buôn Gió đã huỵch toẹt: blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc bởi Tổng cục 2 tình báo (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) theo chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, kèm theo nhiều chi tiết khá cụ thể về vụ bắt cóc này: lực lượng bắt cóc khoảng 10 người, trong đó có 2 người biết tiếng Thái, lên đường đến Thái Lan vào ngày 23/1; trước khi bị bắt, Trương Duy Nhất đã nhận số máy lạ có đuôi 6521; ngày Trương Duy Nhất bị bắt là 26/1; Trương Duy Nhất bị bắt tại siêu thị FuturePark; khi bị bắt, Trương Duy Nhất còn xin thay áo; một số hình ảnh về Trương Duy Nhất tại Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Bangkok…. Những chi tiết quá cụ thể này khiến độc giả không thể không nghĩ rằng tác giả Người Buôn Gió, nếu không phải do hoang tưởng, đã nhận được những nguồn tin cực mật từ chính nội bộ đảng CSVN, hay cụ thể hơn là từ nội bộ của giới công an Việt Nam, hoặc từ chính người nằm trong ‘lực lượng bắt cóc’. Trong bài viết mô tả vụ bắt cóc Trương Duy Nhất, blogger Người Buôn Gió còn gửi đi một thông điệp vừa ẩn ý vừa lộ liễu: “Tôi biết nhiều hơn những gì tôi viết, những điều tôi biết là những bằng chứng chứ không phải là những suy đoán, trong vụ này cũng như trong nhiều vụ khác cũng vậy”. Đây là lần thứ hai Người Buôn Gió làm cho chính quyền Việt Nam điên đầu và có thể sẽ rơi vào trạng thái lúng túng cao độ như tình trạng hậu cuộc bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Tuy nhiên, những thông tin mà blogger Người Buôn Gió cung cấp trong loạt bài viết về Trương Duy Nhất cho đến nay chỉ thuộc về tác giả mà chưa thể kiểm chứng được. Nhưng khách quan mà xét, nếu nhìn lại vụ Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc và loạt bài viết của Người Buôn Gió về vụ này, có thể nhận ra một số chi tiết mà Người Buôn Gió nêu ra là phù hợp với thực tế vụ bắt cóc này và kết quả điều tra đã được công bố của cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện Công tố Đức. Nếu những cáo buộc chi tiết và như thể trong ruột mà Người Buôn Gió nhắm tới Tổng cục 2 quân đội là đúng, hoặc ít ra có một số cơ sở xác thực, vụ blogger Trương Duy Nhất bị bắt cóc tại Bangkok gần như chắc chắn sẽ trở thành vụ Trịnh Xuân Thanh thứ hai. Nhưng lần này, ‘tác giả’ không phải là Bộ Công an mà lại là Bộ Quốc phòng với vai trò Bí thư quân ủy trung ương là ‘Tổng chủ’ Nguyễn Phú Trọng. Liệu có ‘thỏa thuận ngầm’? Chính quyền Việt Nam đã im lặng trước tết nguyên đán khi xuất hiện tin tức Trương Duy nhất bị mất tích hay bị bắt cóc. Đó là khoảng thời gian mà có thể ‘thông cảm’ được: giới quan chức còn phải ăn tết. Nhưng sau cái tết nguyên đán đầy cảnh ‘lót tay’, chúc tụng đãi bôi và ăn nhậu xả láng thì lại là chuyện khác: thông tin lan rộng và đầy tính nghi ngờ trên một số tờ báo quốc tế về vụ Trương Duy Nhất sẽ khiến chính quyền Việt Nam không thể nhắm mắt che tai. Do đó, nhiều khả năng là sau tết nguyên đán 2019, chính quyền Việt Nam sẽ phải có thông báo về vụ này, trong đó hoặc phủ nhận việc chính quyền này ra lệnh bắt cóc Trương Duy Nhất, hoặc chính thức xác nhận Trương Duy Nhất đã bị bắt nhưng là ‘tự nguyện về nước đầu thú’ do hành vi phạm pháp - tương tự cái cách mà Bộ Công an và Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đồng thanh tương ứng ‘Trịnh Xuân Thanh tự nguyện về nước đầu thú’ vào đầu tháng 8 năm 2017. Điều an ủi mà có thể khiến chính quyền Việt Nam tạm thời yên tâm để đưa ra một thông báo theo kiểu trên là khác với lời tố cáo mạnh mẽ của nhà nước Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh, chính quyền Thái Lan sẽ khó mà lên án chính quyền Việt Nam tổ chức bắt cóc người một cách bất hợp pháp trên đất Thái do một ‘thỏa thuận ngầm’ nào đó (nếu có) giữa hai bên, cộng thêm mối quan hệ Việt - Thái được xem là ‘ngày càng tốt đẹp’, và chế độ của Thủ tướng Prayuth Chan-ocha chẳng ưa gì tự do báo chí. Củng cố cho khả năng này là động thái mới nhất của lãnh đạo Cục Di trú Thái Lan thông tin rằng họ đã không có hồ sơ về việc Trương Duy Nhất nhập cảnh vào Thái Lan - một vấn đề có thể được hiểu là ông Nhất đã vào đất Thái theo cách không hợp pháp và do vậy các cơ quan Thái có thể sẽ cho rằng họ không liên can đến vụ việc này. Nhưng còn sức ép của các tổ chức nhân quyền quốc tế và truyền thông quốc tế đòi hỏi trách nhiệm của người Thái phải tìm ra tung tích của Trương Duy Nhất? Chắc chắn chính quyền Thái Lan sẽ phải tiến hành một số động tác nào đó, dù chỉ cho có, để có cơ sở hồi âm cho quốc tế về vụ việc này. Nội dung hồi âm này lại có thể có độ chênh, thậm chí là chênh biệt đáng kể, với một thông báo mà phía Việt Nam phải nêu ra sau tết nguyên đán 2019 về vụ Trương Duy Nhất. Khi đó, sự thật sẽ lộ dần ra. Song mối lo sợ và nguy hiểm lớn nhất của chính quyền Việt Nam, và của cả chính quyền Thái Lan, sẽ đến từ… Người Buôn Gió. Sẽ có bằng chứng? Bởi khi Người Buôn Gió dám khẳng định là anh ta có những bằng chứng về vụ Trương Duy Nhất bị bắt cóc mà không phải là suy đoán, toàn bộ những ai quan tâm đến vụ này đều ngóng cổ trông chờ Người Buôn Gió tung ra những bằng chứng đó để xem tính xác thực đến đâu. Còn chính quyền Việt Nam, đặc biệt là thủ tướng Phúc và Tổng cục 2, có lẽ sẽ sống trong nỗi hồi hộp mòn mỏi. Nếu Người Buôn Gió không thể cung cấp những bằng chứng trên? Nhiều quan chức Việt Nam sẽ thở phào và tổ chức phản đòn để cho quốc tế thấy ‘chính nghĩa Việt Nam’. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu trong những ngày tới một số bằng chứng, và nếu đúng là bằng chứng có tính xác thực, được công bố theo đúng cái cách mà Người Buôn Gió thường làm là rỉ rả giết dần giết mòn sức chịu đựng của địch thủ? Chỉ có thể là những cơn đau tim, thống phong và… xơ gan cổ trướng. Hoặc cả ba. Và nếu quả thực vụ ‘Trương Duy Nhất mất tích ở Bangkok’ sẽ nổ ra như một cuộc khủng hoảng ‘Trịnh Xuân Thanh thứ hai’, đó sẽ là điềm báo ‘rông cả năm’ hoặc còn lâu hơn thế dành cho tương lai toàn màu tối của chính thể độc trị ở Việt Nam.  
......

Trung Quốc đưa Venezuela đến bờ vực hỗn loạn như thế nào?

Nguyễn Học Tình hình tại Venezuela cuối tháng 1/2019 này đang hết sức căng thẳng. Xung đột có thể bùng nổ, giữa một bên là một tổng thống bị mất lòng dân, nhưng được quân đội và Nga, Trung Quốc ủng hộ, và bên kia là chủ tịch Quốc Hội tự phong làm tổng thống, được Hoa Kỳ và nhiều nước phương Tây hậu thuẫn. Vì sao chế độ Venezuela, với một đất nước giàu tài nguyên hàng đầu thế giới, lại đứng trước bờ vực sụp đổ ? Vì sao một quốc gia giàu tài nguyên bậc nhất thế giới lại chìm trong lạm phát kinh hoàng, kinh tế hoàn toàn kiệt quệ, chế độ chính trị ngày càng độc đoán và bất lực, đẩy đất nước đến bờ vực rối loạn, có nguy cơ nội chiến hoặc can thiệp quân sự từ bên ngoài ? Đất nước Venezuela sở dĩ rơi vào tình trạng hiện nay một phần rất lớn là do chính sách của Trung Quốc với Caracas, từ gần 20 năm qua. Dùng dòng tín dụng lớn để khuyến khích chế độ Venezuela bám chặt lấy ảo tưởng ý thức hệ « xã hội chủ nghĩa », bám chặt lấy việc xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản như phương thức sống còn chủ yếu. Kết quả là tạo ra một tầng lớp quan chức ăn bám, tham nhũng, một bộ phận đông đảo dân chúng bị ru ngủ trong các ảo ảnh. Sau đây là phần tổng hợp thông tin từ báo chí, về vai trò của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng Venezuela hiện nay.   Quan hệ của Trung Quốc với « chế độ xã hội chủ nghĩa Venezuela » khởi đầu ra sao ? Dầu mỏ là duyên nợ của Venezuela với Trung Quốc. Trang mạng SupChina, có trụ sở tại New York, tháng 1/2019 này, có loạt bài « The Venezuela-China relationship, explained » đáng chú ý. Năm 1996, Venezuela thu được hơn một tỉ đô la nhờ bán dầu cho các nước châu Á – Thái Bình Dương, chủ yếu là cho Nhật Bản. Dầu thô của quốc gia Nam Mỹ này bắt đầu được bán sang Nhật từ năm 1988. Ngay trước khi ông Hugo Chavez đắc cử tổng thống năm 1998, tập đoàn dầu mỏ Trung Quốc (NPCC) đã tìm cách đàm phán để được chính quyền lúc đó cho phép khai thác ở Venezuela. Những người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Chavez đã tố cáo chính sách bán tài nguyên cho « các thế lực đế quốc ». Sau khi lên nắm quyền, chế độ Chavez tìm thấy ở Trung Quốc đồng minh ý thức hệ hiếm có. Tổng thống Chavez đã không thay đổi các hợp đồng đã ký của Trung Quốc với chính quyền tiền nhiệm, và thậm chí còn mở rộng hơn. Tháng 4/2001, ông Giang Trạch Dân - lãnh đạo Trung Quốc thời đó - đã đích thân tới Venezuela, ký kết nhiều hợp đồng, mở đầu cho quan hệ gắn bó kéo dài đã hơn 17 năm trời. Năm 2004 là một bước ngoặt lớn trong quan hệ hai nước. Bắc Kinh và Caracas ký thỏa thuận cho phép mỗi bên đầu tư tại quốc gia đối tác, mà không phải nộp thuế. Caracas cũng dành cho Bắc Kinh nhiều chế độ ưu đãi về thuế nhập khẩu, hơn hẳn với Hoa Kỳ. Venezuela được Bắc Kinh coi là cánh cửa mở vào Nam Mỹ. Năm 2005, Trung Quốc đầu tư một tỉ đô la vào quốc gia này, hơn tất cả các nước khác trong khu vực. Vào thời điểm này, đã có khoảng 20 doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại Venezuela trong đủ các lĩnh vực, từ khai thác dầu mỏ, khai thác khoáng sản, đến xây dựng đường sắt, các hạ tầng giao thông khác, viễn thông, năng lượng, nông nghiệp, sản xuất dụng cụ điện tử gia dụng… Năm 2005 cũng là năm mà tổng thống Venezuela Chavez quyết định đình chỉ quan hệ hợp tác lịch sử về quân sự với Hoa Kỳ, để xích lại gần Trung Quốc hơn. Năm 2007, thành lập Quỹ chung Trung Quốc – Venezuela. Thương mại song phương tăng cường, với tổng giá trị vượt quá 4 tỉ đô la. Quan hệ giữa Bắc Kinh và Caracas ngày càng mật thiết. Tuy nhiên cũng bắt đầu từ thời điểm đó, Venezuela trở thành quốc gia mắc nợ Trung Quốc nhiều nhất tại châu Mỹ Latinh, với khoảng 5 tỉ đô la. Phải chăng mục tiêu chính của Trung Quốc là khai thác khoáng sản, còn các đầu tư cho phát triển khác chỉ là để mỵ dân ? Thực tế cho thấy, tình trạng tài chính và kinh tế của Venezuela ngày càng tồi tệ cùng lúc với ảnh hưởng tài chính và kinh tế của Trung Quốc tại nước này càng gia tăng. Nhìn chung, Trung Quốc không bao giờ công bố số tiền cho vay với các dự án cụ thể nào, cũng như điều kiện cấp tín dụng. Tình trạng mù mờ này là mảnh đất màu mỡ cho nạn tham nhũng bùng phát. Theo một số nhà quan sát, tín dụng của Trung Quốc cho Venezuela, với 60 tỉ đô la, chiếm khoảng 40% tổng tín dụng của nước này cho các nước Mỹ Latinh. Nhìn chung, Trung Quốc dành đến 90% đầu tư trực tiếp tại châu Mỹ Latinh cho các hoạt động khai thác khoáng sản, và tình hình cũng tương tự tại Venezuela. Một trong các dự án đầu tư của Trung Quốc được quảng bá rầm rộ tại Venezuela là dự án xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên của châu Mỹ Latinh, trị giá 7,5 tỉ đô la, do tập đoàn xây dựng đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới, của Trung Quốc, China Railway Group, thực hiện. Dự án khởi sự năm 2009, đã hoàn toàn đổ bể sau đó. Năm 2015, tập đoàn Trung Quốc âm thầm rút, để lại món nợ 400 triệu đô la cho Venezuela. Cho đến gần đây, nhiều người dân vẫn tin tưởng sẽ có một ngày nào đó công ty Trung Quốc trở lại. Tình hình tương tự với dự án phát triển các ngành công nghiệp của Venezuela. Một ví dụ tiêu biểu là công ty điện tử viễn thông Orinoquia của Venezuela, ra đời năm 2010, với 35% vốn do tập đoàn Hoa Vi Trung Quốc đầu tư. Tuy nhiên, các dự án mà Hoa Vi hứa hẹn đã không bao giờ trở thành hiện thực. Trên thực tế, trong lúc sản xuất nội địa của Venezuela không ngóc đầu lên được, thì hàng xuất khẩu từ Trung Quốc ồ ạt đổ vào nước này. Nếu như năm 1998, trước khi ông Chavez lên nắm quyền, chỉ có 0,18% hàng nhập khẩu đến từ Trung Quốc, thì 14 năm sau, tỉ lệ này lên đến 34,9%. Bắc Kinh cũng có một số dự án trọng điểm thành công mang tính biểu tượng với Venezuela, như phóng vệ tinh, với sự hỗ trợ của Trung Quốc. Năm 2017, Caracas phóng thành công vệ tinh quan sát thứ ba lên quỹ đạo. Đây có thể là một hành động của chế độ Bắc Kinh nhằm quyến rũ chính quyền Venezuela. Tháng 9/2018, Bắc Kinh ký kết với Caracas 28 hợp đồng « hợp tác » thuộc nhiều lĩnh vực, dựa trên nguyên tắc « bình đẳng », « tôn trọng lẫn nhau », « hai bên cùng có lợi ». Đầu năm nay, bất chấp Venezuela – « đối tác » hàng đầu của Bắc Kinh tại châu lục – đang chìm sâu trong khủng hoảng, bên bờ hỗn loạn, lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc tại Chilê tiếp tục có một bài phát biểu hùng hồn quảng bá cho dự án Con Đường Tơ Lụa Trên Biển, coi các nước Nam Mỹ là « thành phần tự nhiên » và các đối tác không thể thiếu của dự án quốc tế khổng lồ mà Trung Quốc khởi xướng và chủ trì. Sau khi lãnh đạo Chavez qua đời năm 2013, phải chăng Trung Quốc đã gia tăng nỗ lực biến Venezuela thành một chư hầu, thúc đẩy Caracas tăng cường khai thác tài nguyên để hoàn nợ ? Trong bài viết mang tựa đề « Venezuela and China : a perfert storm / Venezuela và Trung Quốc : Một sự nhiễu loạn hoàn hảo » (1), nhà nghiên cứu Matt Ferchen, chuyên về « mô hình phát triển Trung Quốc », quan hệ Bắc Kinh với các nước Mỹ Latinh nhận xét : Ngay cả sau khi đã biết Venezuela lún sâu vào khủng hoảng gần như không có lối ra, Bắc Kinh cũng không thừa nhận thất bại, từ chối tham gia vào các nỗ lực tại khu vực, nhằm giúp Venezuela tìm được lối thoát. Trung Quốc tin là các quan hệ vững chắc giữa hai chế độ cùng ý thức hệ, cùng với sự dồi dào tín dụng của các ngân hàng Nhà nước Trung Quốc, sẽ giúp Venezuela tiếp tục duy trì chính sách lấy bán dầu và quặng mỏ làm trụ cột của nền kinh tế, bất chấp mọi biến động thị trường và chính trị. Các hợp tác theo kiểu bán rẻ tài nguyên, đã được khởi sự dưới thời tổng thống Chavez, được tăng cường trong thời kỳ ông Maduro lên nắm quyền, trong bối cảnh mô hình « chủ nghĩa xã hội » Venezuela có dấu hiệu phá sản. Sau khi tổng thống Chavez qua đời, và trong bối cảnh các khu vực dầu mỏ dễ khai thác bắt đầu cạn kiệt, cùng lúc với giá dầu sụt giảm mạnh, tổng thống Maduro đã bí mật đàm phán với Trung Quốc và một số nước khác nhằm khai thác trên quy mô lớn nhiều loại khoáng sản quý hiếm, như vàng, coltan, boxit, kim cương, titan, nikel... tại vùng « Vòng cung mỏ Orinoco », với tổng diện tích 112.000 km² (tương đương 12% diện tích Venezuela hay một phần ba lãnh thổ Việt Nam) (2). Năm 2016, Trung Quốc ký được hợp đồng khai thác quặng coltan, rất cần cho điện thoại di động. Năm 2016 cũng là năm mà Vòng cung mỏ Orinoco chính thức được coi là một « đặc khu kinh tế », mở rộng cho các tập đoàn Trung Quốc và nhiều tập đoàn đa quốc gia khác. Đây là nơi các điều kiện kinh doanh hết sức dễ dãi, các tiêu chuẩn về lao động, môi trường gần như bị bỏ qua, chưa kể đến vấn đề môi trường sống, của rất nhiều cộng đồng sắc tộc sống lâu đời ở đây, bị đe dọa nghiêm trọng, do các hoạt động khai khoáng (3). Tháng 9/2018, Bắc Kinh tiếp tục bỏ thêm 5 tỉ đô la, để mua lại 10% cổ phần của tập đoàn dầu mỏ Nhà nước (PDVSA). Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận với chính quyền Maduro để công ty Yankuang Group khai thác vàng tại khu vực Vòng cung Orinoco nói trên. Nhiều người vốn trung thành với di sản của Bolivar - nhà cách mạng Venezuela nổi tiếng thế kỷ 19, mà tổng thống Chavez được coi là người kết tục - đã coi giai đoạn 2014 đến nay là thời kỳ mà chính quyền Venezuela đã hoàn toàn xa rời với một số tôn chỉ tốt đẹp ban đầu của cố tổng thống, để chuyển hướng sang một mô hình kinh tế « tân tự do ». Một mặt lệ thuộc nặng nề vào các thế lực bên ngoài, mặt khác quyền lực trong nước bị tập trung vào tay một số nhóm chóp bu, các cơ hội tham gia xây dựng nền dân chủ của người dân bị ngăn chặn (việc tổ chức bầu cử Quốc Hội lập hiến mang đầy tính kỳ thị là một trong các ví dụ tiêu biểu) (4). Tương lai quan hệ giữa Venezuela và Trung Quốc sẽ ra sao ? Sự thất bại của chế độ Chavez tại Venezuela có thể coi là một thất bại của Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù chế độ « xã hội chủ nghĩa » hiện nay ở Venezuela có sụp đổ, Bắc Kinh chắc chắn không buông Venezuela. Một mặt để bảo vệ số tiền bạc đã đầu tư, mặt khác tiếp tục có cơ hội khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản, được đánh giá là còn hết sức dồi dào, trong lúc khả năng kiểm soát của chính quyền trung ương lại hết sức hạn chế. Vẫn theo chùm bài phân tích về quan hệ Trung Quốc – Venezuela trên trang mạng SupChina, thì cho dù chế độ mang danh hiệu « xã hội chủ nghĩa » của ông Maduro đang khủng hoảng trầm trọng, Bắc Kinh chắc chắn sẽ không từ bỏ vùng đất màu mỡ Nam Mỹ này. Một khi đã đứng chân được tại Venezuela, thì bằng cách này hay cách khác, Trung Quốc tìm mọi cách ở lại. Kể từ những năm 2015, 2016, Bắc Kinh bắt đầu tiếp xúc với đối lập Venezuela, để chuẩn bị phương án mới, đề phòng thay đổi chế độ. Về phần mình, giáo sư Isabelle Rousseau, một chuyên gia về chính trị tại châu Mỹ Latinh (Đại học Colegio de Mexico, Mêhicô) (5), cho biết Bắc Kinh cũng đang đàm phán bí mật với Nga và Mỹ về khủng hoảng Venezuela. Theo một số nhà nghiên cứu, « thất bại » tại Venezuela không cản trở Trung Quốc tiếp tục mô hình quan hệ mua chuộc giới chóp bu để thao túng, trong trường hợp có thay đổi chính trị, giống như với nhiều chế độ độc tài khác, tại Cam Bốt hay Zimbabwe. Xem bài « Venezuela. L'échec du processus bolivarien (II) » của nhà xã hội học Edgardo Lander, trang alencontre.org, ngày 1/9/2018. Nguồn: BCNN  
......

Ngày đầu năm: Bàn chuyện cúng bái của dân và mồ mả của lãnh đạo CSVN

Tác giả: Quê Hương Những ngày đầu năm là những ngày người dân Việt đổ đi khắp chốn để cầu khấn lễ bái để cả năm được an lành, sức khỏe và thịnh vượng. Khắp các chùa chiền từ Yên Tử, Chùa Hương đến Bái Đính rồi đền Trần, đâu đâu cũng đông nghịt người, chen lấn xô đẩy nhau đến ngất xỉu, rồi nạn “chặt chém khách” diễn ra nhan nhản. Dân biết, quan biết, Đảng biết mà không thể hoặc không làm gì để mọi việc trở nên tốt đẹp hơn. Rồi hết năm này qua năm khác, đến hẹn lại lên, nạn “hội hè chùa chiền” khiến nhức nhối dư luận và tạo ra một hình ảnh vô cùng xấu xí mông muội về Việt Nam đối với thế giới văn minh. Tại sao lại như vậy nhỉ? Quyền thờ phụng, hành hương là quyền của dân và là tự do của dân. Nhưng dân thì không thể nào đứng ra tổ chức các lễ hội, các nghi thức chùa triền, phân bổ luồng giao thông, thu phí, đảm bảo trật tự được. Đó là công việc của chính quyền và chỉ của chính quyền mà thôi. Ở một đất nước chỉ đề cao tính chính danh của Đảng Cộng Sản, đề cao vai trò của Hồ Chí Minh như một vị thần thánh của dân tộc và tôn thờ chủ nghĩa vô thần thì tại sao, chính quyền lại để người dân mông muội thờ cúng rồi hành hương theo kiểu này, khiến tốn kém cho nhân dân, chưa kể mất mạng người vì các tai nạn khác nhau.   Vấn đề là Đảng có lợi từ những hoạt động thờ cúng mông muội ấy. Bởi họ thu được rất nhiều thuế và phí. Từ phí thu tiền tàu xe trên đường, đến phí thăm quan du lịch, phí bán sớ ấn lệnh đến tiền cho thuê ki ốt bán hàng, tiền cho thuê bãi trông giữ xe, tiền cho phép đăng kí các loại dịch vụ tàu thuyền … Dân các địa phương cũng có chút tiền dịch vụ kiếm sống nhưng số tiền đó chỉ là muỗi so với tiền mà chính quyền và các công ty sân sau của các quan chức chính quyền kiếm chác được. Thiệt hại nhất vẫn chính là người dân. Thay vì được đi hành hương một cách văn minh và có tổ chức, họ phải tham gia vào những hành trình hành xác và nhiều lúc tiền mất tật mang. Nhưng chẳng biết kêu ai. Một phần của nạn chùa chiền đầu năm cũng chính tại bản chất nói một đằng làm một nẻo của chính quyền cộng sản Việt Nam. Điều này khiến cho người dân mất lòng tin và chỉ biết trông chờ vào một thế lực siêu nhiên nào đó để che chở cho mình. Một Đảng luôn đề cao sự lãnh đạo của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa duy vật biện chứng nhưng các quan chức cao nhất Việt Nam lại xây cho mình những lăng mộ to gấp hàng chục, hàng trăm lần các vua chúa thời phong kiến để thờ cùng thì bảo sao dân tin vào chủ nghĩa cộng sản lừa dối ấy. Nếu như trước đây, các lãnh đạo cộng sản Việt Nam trừ Hồ Chí Minh, đều được đưa vào chôn tại nghĩa trang Mai Dịch thì nay kể từ năm 2013 khi Võ Nguyên Giáp chết, ông chọn khu vực ven biển Vũng Chùa, Đảo Yến rộng tới 10 hecta làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình. Ông Nguyễn Bá Thanh được an táng tại quê nhà xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, Quảng Nam cũng vài ngàn mét vuông, gần đây nhất là trường hợp của chủ tịch nước Trần Đại Quang với khu lăng mộ cũng 3 – 4 hécta ở quê nhà tại Ninh Bình. Đấy là chưa kể hồi tháng 5/2017, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cho phê duyệt quy hoạch chi tiết nghĩa trang dành cho cán bộ cấp cao của ĐCS VN rộng 120 ha tại xã Yên Trung, huyện Thạch Thất, Hà Nội với kinh phí khủng là 1400 tỷ đồng. Ở một đất nước mà Đảng Cộng Sản luôn ủng hộ sự vô thần, tôn thờ chủ nghĩa duy vật biện chứng hay còn gọi là chủ nghĩa xã hội thì các lãnh đạo Cộng sản cần gì phải chăm chút cho mộ phần của mình (để thờ cúng) để làm gì, sao không hỏa táng như dân thường vẫn làm??? Trong khi đấy, dân đen ở nhiều nơi còn bị cướp đất, không có đất trồng trọt sinh sống, chứ nói gì đến chuyện có đất mà chôn mới cất. Nói như thế mới thấy cái lăng của ông Hồ Chí Minh thật là khốn nạn. Chỉ vì noi gương và học tập theo ông ấy mà lăng tẩm đền đài của các quan chức lớn nhỏ cứ mọc lên như nấm ở khắp mọi nơi. Và có lẽ cũng chỉ vì nó mà dân cứ phải đi thắp hương cúng bái tứ tung mọi nơi mà giờ này Việt Nam vẫn như con tàu mất lái đi mãi mà chả biết bến bờ Chủ Nghĩa Xã Hội nằm ở đâu. Và đã đến lúc phải phá bỏ thứ Chủ Nghĩa Xã Hội điên rồ này cùng với Chủ Nghĩa Lăng Mộ cổ hủ, đã làm khổ dân ta mấy chục năm qua!
......

Nhân quả Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu (EVFTA)

Phạm Chí Dũng – Người Việt| Khó nuốt hơn hẳn Mặc dù đã kết thúc đàm phán từ cuối năm 2015, nhưng quá trình rà soát pháp lý đối với EVFTA (Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-Châu Âu) đã kéo dài đến hai năm rưỡi, thay vì chỉ từ sáu tháng đến một năm đối với các hiệp định thương mại khác. Trong thời gian đó, chính quyền Việt Nam vẫn vừa “nhai lại” không chán đề nghị “EU thúc đẩy sớm thủ tục để EVFTA được ký kết và phê chuẩn,” vừa tha hồ đàn áp nhân quyền trong nước. Thậm chí vào năm 2017 là năm rộn rã các đoàn công du Châu Âu của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Thủ Tướng Vương Đình Huệ, và quan chức còn chưa chết đột ngột gây nghi ngờ là Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang, đã nổ ra vụ “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh” như một trái bom tàn phá toàn bộ hệ thống nhà nước pháp quyền của nước Đức và EU. Chẳng quá đáng để cho rằng kể từ vụ Trịnh Xuân Thanh, không chỉ người Đức mà một phần lớn các nước Châu Âu đã thực sự được “mở mắt” về bản chất của lời tuyên rao “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm quyền con người.” Cũng kể từ đó, EVFTA trở nên khó nhai nuốt hơn hẳn. Đến Tháng Mười Hai, 2017 khi chính quyền Việt Nam hùng hổ khoe khoang bản thành tích đã tóm cổ được hơn ba chục tên phản động (chỉ những người bất đồng chính kiến và hoạt động nhân quyền) trong năm đó, một cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU với Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội mà không mang lại kết quả khả quan nào ngoài những hứa hẹn bất tận bao giờ cũng thế của Việt Nam, cộng thêm việc vài khách mời của Phái Đoàn EU tại Việt Nam bị công an trơ tráo bắt cóc. Rốt cuộc, việc gì phải đến đã đến. Hai tháng sau đó, vào Tháng Hai, 2018, một cuộc họp của EU tại Brusells, Bỉ đã thông qua một loạt điều kiện chưa từng có: muốn vào EVFTA, Việt Nam phải ký kết 3 công ước còn lại trong tổng số 8 công ước quốc tế về lao động của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO), trong đó đặc biệt là công ước quốc tế về quyền tự do lập hội (dành cho công đoàn độc lập), phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm cùng liên quan đến một số đòi hỏi về nhân quyền và cả vụ Trịnh Xuân Thanh. Cùng lúc, ngành kinh tế thủy sản Việt Nam bị EU giơ “thẻ vàng” – một hình thức chế tài và trừng phạt thương mại nghiêm khắc mà nếu không tìm cách thoát khỏi sự trầm luân đó, tôm cua cá Việt Nam sẽ còn phải nhận “thẻ đỏ” và có thể hết đường vào thị trường Châu Âu. Trong lúc đó, giới chóp bu Việt Nam vẫn như thiêu thân trong cuộc chiến nội bộ thời hậu Nguyễn Tấn Dũng và say sưa đàn áp nhân quyền mà không đếm xỉa gì đến cánh tay đưa ra với những cử chỉ biểu cảm cuối cùng của EU. Thậm chí khi Bernd Lange – Chủ Tịch Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế Châu Âu, cơ quan có thẩm quyền rất quan trọng trong việc tham mưu EVFTA cho nghị viện Châu Âu – lặn lội đến Hà Nội vào Tháng Tám, 2018 để thuyết phục các quan chức cao cấp Việt Nam cải thiện nhân quyền, trong đó có cả cuộc gặp với Tô Lâm Bộ Trưởng Công An, ông đã chẳng nhận được bất kỳ tín hiệu hồi âm nào ngoài những lời xã giao mọc rễ đằng miệng mà một nhà ngoại giao phương Tây phải lắc đầu ngao ngán khi ẩn dụ hình ảnh “đánh đĩ cả mười phương.” Đó cũng là cái cách mà một số quan chức cao cấp Việt ngoe nguẩy đi Châu Âu để “quốc tế vận” vào thời điểm Ủy Ban Châu Âu – cơ quan cấp dưới của Hội Đồng Châu Âu – mở một cuộc điều trần về EVFTA – nhân quyền vào Tháng Mười, 2018 tại Brusells. Nhưng bất chấp không ít ý kiến của giới nghị sĩ Châu Âu về sự cấp thiết hoãn lại việc ký kết và phê chuẩn EVFTA để Việt Nam phải có những hành động cải thiện nhân quyền một cách rõ rệt chứ không phải chỉ hứa suông, Ủy Ban Châu Âu vẫn làm tờ trình cho Hội Đồng Châu Âu để xem xét phê chuẩn EVFTA – một kết quả khá mỹ mãn mà đã khiến chuyến công du ba nước châu Âu vào thời điểm đó của Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc trở thành bảng vàng chói lọi ghi nhận thành tích của ông ta, cũng như đã ghi thêm một điểm cho Phúc trên cung đường chạy đua vào cái ghế tổng bí thư của đảng CSVN tại đại hội 13 vào năm 2021. Nhưng người tính cuối cùng lại không bằng… người khác tính. Gieo gió ắt gặt bão Vào giữa Tháng Mười Một, 2018 khi mọi việc đã tưởng chừng xong xuôi và giới chóp bu Việt Nam chỉ còn xoa tay chờ đón kết quả Hội Đồng Châu Âu chính thức phê chuẩn EVFTA và trình hiệp định này cho Nghị Viện Châu Âu để bỏ phiếu thông qua lần chót, chính nghị viện này đã tung ra một bản nghị quyết cứng rắn chưa từng có về dòi hỏi Việt Nam phải thỏa mãn nhiều cải thiện nhân quyền về tự do tôn giáo tự do báo chí, tự do Internet, hủy bỏ hay hoãn Luật An ninh mạng, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, phải ký kết 3 công ước quốc tế còn lại về lao động… Sau bản nghị quyết nhân quyền trên là một thời gian mặt hồ lặng ngắt không sủi tăm. Cả hai phía đều chờ đợi, chờ lẫn nhau. Hình thể vận động quốc tế của Việt Nam như tạm ngừng thở và giới chóp bu Hà Nội giương mắt nhìn về phía châu Âu để chờ, nhưng lại không chịu làm bất cứ hành đông nào về cải thiện nhân quyền, dù chỉ là hành động nhỏ nhất hay chỉ mang tính tượng trưng. Ngày 1 Tháng Giêng, 2019, Luật An Ninh Mạng vẫn chính thức giương nanh múa vuốt theo lịch trình mà “Tổng Chủ” Nguyễn Phú Trọng đã sắp xếp, bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế và chính phủ nhiều nước phương Tây. Trong vài tháng cuối năm 2018 đã chẳng có bất kỳ thứ gì thay đổi trên nhân dạng xấu xí của “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người.” Đã quá rõ là từ cuộc điều trần ở Bỉ vào Tháng Mười, 2018 cho đến nay, chính thể độc đảng ở Việt Nam đã chẳng chịu làm một điều gì để cải thiện nhân quyền. Trong não trạng chủ quan cùng căn bệnh duy ý chí của chế độ chuyên quyền và một chiều này, hẳn họ vẫn cho rằng bản nghị quyết về nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu chỉ là một thứ văn bản cho có lệ, để cuối cùng chính thể Việt Nam vẫn bỏ túi EVFTA mà chẳng phải trả cái giá đáng kể nào. Nhưng cũng đã quá rõ là chính vì nguyên do rất chính yếu trên mà Cộng Đồng Châu Âu đã không cho phép Ủy Ban Châu Âu ký EVFTA với Việt Nam, cho dù bản thảo của hiệp định này đã khá đầy đủ và nằm sẵn trên bàn chỉ chờ ký. Ngay cả chuyến công du của nữ phó Chủ Tịch Nghị Viện Châu Âu – bà Heidi Hautala – đến Hà Nội vào tuần đầu tiên của năm 2019 cũng chẳng hé ra chút hy vọng nào cho chính thể Việt Nam: trong lúc Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân lại một lần nữa “mong muốn trên cương vị của mình, phó chủ tịch sẽ ủng hộ và thúc đẩy EP sớm phê chuẩn EVFTA khi được ký kết,” bà Heidi Hautala đã chẳng hé môi bất cứ từ nào về bản hiệp định phải được đánh đổi bằng quyền con người này. Trong khung cảnh lặng như tờ đó, một chút hy vọng mà Hà Nội ngầm ngấm xúc tiến chỉ còn là thúc đẩy giới doanh nghiệp châu Âu có văn phòng ở Việt Nam tác động vào nghị trường Châu Âu để Hội Đồng Châu Âu sớm mở một cuộc họp thông qua EVFTA. Cuộc họp đó cuối cùng đã tới vào Tháng Giêng, 2019, trễ gần hai tháng so với dự liệu của cả hai bên. Nhưng một lần nữa, việc gì phải đến đã đến. Ngay sau khi tin tức về EVFTA bị EU quyết định hoãn lại việc phê chuẩn lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội và trong dư luận (trừ mặt báo nhà nước) vào ngày 24 Tháng Giêng, 2019, một số nguồn tin từ nội bộ đảng CSVN đã xác nhận tâm trạng chung của giới lãnh đạo cao cấp là bị bất ngờ và thất vọng đến mức “mặt cứ thượt ra” mà không biết phải nói gì. Quyết định hoãn EVFTA của Hội Đồng Châu Âu là bằng chứng rõ ràng nhất cho tới nay về việc Liên Minh Châu Âu không còn đáng bị xem là yếu thế và nhu nhược trong con mắt của chính quyền Hà Nội, và quyết định này là sự tuân thủ một cách triệt để và kiên định tinh thần bản nghị quyết nhân quyền của Nghị Viện Châu Âu ban hành vào giữa Tháng Mười Một, 2018. Ngay cả Bernd Lange – Chủ Tịch Ủy Ban Thương Mại Quốc Tế của Quốc Hội EU và là người được xem là hiền hòa, giờ đây cũng phải quyết liệt: “Nếu không có tiến bộ nào về nhân quyền, và đặc biệt là quyền của người lao động, thì sẽ không có bất cứ hiệp định nào được Quốc Hội Châu Âu thông qua hết.” Hẳn là đến lúc này, giới chóp bu Việt Nam đã phải “sáng mắt sáng lòng”: rõ là EVFTA cũng có luật nhân quả. Kẻ nào gieo gió ắt phải gặt bão./.  
......

VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ VỤ TRƯƠNG DUY NHẤT “MẤT TÍCH”

Ảnh: Ông Trương Duy Nhất trong một chuyến tháp tùng Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khi còn là nhà báo trong hệ thống chính quyền. Fb Phạm Lê Vương Các 1. Nếu thông tin ông Trương Duy Nhất bị bắt tại một Trung tâm thương mại ở Bangkok là chính xác thì chính quyền Thái Lan không phải là kẻ vô can, mà là người chịu trách nhiệm chính cho vụ bắt giữ này. Bởi lẽ không thể bắt ông Nhất bằng vũ lực hay gây mê để rời khỏi một trung tâm thương mại đông đúc với hệ thống camera và lực lượng an ninh bảo vệ dày đặc, nếu những người bắt giữ không phải giới chức chính quyền sở tại. 2. Chính sách của chính quyền Việt Nam trong suốt nhiều năm qua là sẵn sàng “tống khứ” những người bất đồng chính kiến hay hoạt động dân chủ nhân quyền ra khỏi Việt Nam. Chỉ cần quốc gia nào đồng ý tiếp nhận các đối tượng này thì chính quyền Việt Nam cũng sẵn sàng để họ ra đi. Trong một số trường hợp chính quyền còn gây áp lực để buộc những người này phải rời khỏi Việt Nam. Nếu ông Nhất chỉ thuần tuý là một người viết lách bất đồng chính kiến hay một nhà hoạt động cho dân chủ nhân quyền thì chính quyền Việt Nam không dở hơi đến nỗi nhanh chóng mở chiến dịch quy mô săn lùng sang tận Thái Lan để bắt về. Về lý do bắt ông Nhất đến lúc này vẫn còn đang bỏ ngỏ. 3. Khi nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và Hoa Kỳ lên tiếng, gây áp lực tiến hành điều tra về việc ông Nhất “mất tích”, thì ngay lập tức thông tin thuộc dạng “định hướng dư luận” được tung lên mạng. Nội dung của bài viết cáo buộc ông Nhất là một “mắc xích” trong đường dây chiếm dụng công sản của “Vũ Nhôm”. Cụ thể, Trụ sở báo Đại Đoàn Kết ở miền Trung tại số 82 Trần Quốc Toản, TP. Đà Nẵng, thời ông Nhất làm Trưởng đại diện bị biến thành nhà riêng của “Vũ Nhôm”. Cạnh đó ông Nhất cùng với “Vũ Nhôm” thành lập công ty I.V.C để mần ăn chung. Thông tin này được đưa ra rõ ràng nhằm mục đích làm giảm sự ủng hộ đối với ông Nhất, buộc những người lên tiếng bảo vệ cho ông phải dè dặt hơn. Thông tin này cũng có thể giải thích cho lý do ông Nhất dù đã đào thoát qua Thái Lan xin tỵ nạn nhưng vẫn bị săn đuổi. 4. Khoảng hơn một năm trước, trên mạng Internet rò rỉ một báo cáo tuyệt mật của Tổng cục Tình báo Quân đội (Tổng cục II) về Trương Duy Nhất. Nội dung của bản báo cáo này đánh giá về Nhất, một mặt là “đối tượng chống đối chính trị cực đoan”, mặt khác lại phục vụ cho “lợi ích nhóm và phe cánh chính trị””(trong nội bộ đảng và nhà nước). Bản báo cáo còn miêu tả Nhất có “mối quan hệ phức tạp” (vừa quan hệ với phản động, lại vừa quan hệ với lãnh đạo chính quyền), đặc biệt là mối quan hệ thân mật với Vũ Nhôm. Bản báo cáo này cũng đưa ra kiến nghị lực lượng công an cần lập chuyên án, củng cố hồ sơ để xử lý Trương Duy Nhất và ngăn chặn tình trạng “phe cánh chính trị” đang ảnh hưởng trực tiếp đến đoàn kết nội bộ, uy tín của lãnh đạo các cấp. 4. Đối với giới hoạt động đấu tranh, Nhất là một người khá thú vị. Nhiều người biết đến ông vì ông được ví là một “Anh hùng Thông tin” (được tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới trao tặng) vì các bài viết phê phán mạnh mẽ về lỗi hệ thống chính quyền, cổ suý cho dân chủ và nhân quyền, nhưng đồng thời nhiều người cũng khá rõ mối quan hệ thân thiết của Nhất với Vũ Nhôm và áp phe với một số giới chức lãnh đạo chóp bu, trước cả khi bản báo cáo của Tổng cục II ra đời. Đánh giá đầy đủ về Nhất, có lẽ những nhà sử học sau này sẽ có cái nhìn chuẩn xác hơn thời điểm này. 5. Hiện tại Trương Duy Nhất đang trong tình huống khá nguy hiểm, không ai biết được tình trạng hiện tại của ông ra sao, cũng như chưa một ai nhận lãnh trách nhiệm về việc bắt giữ ông. Tình trạng của ông được pháp lý mô tả bằng thuật ngữ “cưỡng bức mất tích”. Người bị bắt giữ trong tình trạng này có nguy cơ bị thủ tiêu, hoặc bị đưa ra xét xử mà không đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng như bị giam giữ bí mật, bị tra tấn, ép cung, bị tước đoạt quyền tiếp cận luật sư và thân nhân... Bỏ qua nguyên tắc xét xử đối với ông Nhất thì tất cả mọi cáo buộc nhắm vào ông, lẫn việc xét xử ông sau này đều trở nên vô giá trị về mặt pháp lý. Lúc này ông Nhất cần được bảo vệ và đảm bảo cho việc xét xử công bằng và công khai. Những người yêu công lý hãy đặt câu hỏi cho chính quyền Thái Lan và Việt Nam: “TRƯƠNG DUY NHẤT ĐANG Ở ĐÂU?”    
......

Gia đình các Tù nhân lương tâm kêu cứu vì những dấu hiệu bất thường

Phan Kim Khánh (trái), Trần Hoàng Phúc (giữa), và ông Huỳnh Trương Ca (phải) Tù nhân lương tâm Phan Kim Khánh trong ngày hôm nay 11/2/2019 sẽ làm đơn kêu oan về việc TAND tỉnh Thái Nguyên không nhận đơn kháng cáo phúc thẩm, trong khi đó gia đình của hai TNLT khác là Trần Hoàng Phúc và Huỳnh Trương Ca lên tiếng về những dấu hiệu bất thường xảy ra cho người thân của mình trong trại giam. Phan Kim Khánh kêu oan về việc Tòa án Thái Nguyên không nhận đơn kháng cáo Bà Đỗ Thị Lập, mẹ của tù nhân lương tâm Phan Kim Khánh cho hay gia đình bà có buổi gặp con mình trong trại giam Ba Sao, tỉnh Hà Nam hôm 10/2/2019 và nhận được thông tin như trên. “Hôm qua là cũng có 1 anh trong cùng trại của cháu nó là anh Kiên, hôm 29 cũng báo cho em gái của Khánh là Phan Thị Trang, cho gia đình biết trước là hết tết - là ngày hôm nay (11/2) Khánh sẽ làm đơn kêu oan gửi lên Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên vì nó không nhận tội, đã kháng cáo nhưng TAND tỉnh Thái Nguyên không trả lời. Cháu nó có hỏi gia đình là sau 15 ngày (sau phiên tòa phúc thẩm - PV) có giấy gì về gia đình không, thì gia đình cũng bảo là không có giấy gì hết. Khánh thông báo cho gia đình, bố mẹ biết là Khánh sẽ làm giấy là kêu oan,” bà Đỗ Thị Lập nói qua điện thoại. Hồi tháng 10 năm ngoái, luật sư Hà Huy Sơn, người bào chữa cho Phan Kim Khánh cũng cho Đài Á Châu Tự Do biết là ông không biết gì về đơn kháng cáo của thân chủ và việc kháng cáo chỉ có hạn 15 ngày sau phiên sơ thẩm. Nếu quá thời gian này phải có lý do đặc biệt thì tòa án mới có thể chấp nhận việc kháng cáo. Phóng viên của Đài Á Châu Tự Do gọi cho số điện thoại của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên để hỏi về vụ việc nhưng không có người bắt máy. Sinh viên Phan Kim Khánh, sinh năm 1993, bị tòa án tỉnh Thái Nguyên tuyên 6 năm tù giam và 4 năm quản chế trong phiên xử diễn ra vào ngày 25/10/2017 với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999. Trước khi bị bắt, anh Phan Kim Khánh là Chủ tịch Hội sinh viên Khoa Quốc tế, Đại học Thái Nguyên được một số người hoạt động cùng cho biết, anh thường sử dụng công cụ mạng xã hội để nói lên tình trạng tham nhũng và các vấn đề xã hội khác tại Việt Nam. Truyền thông trong nước dẫn cáo trạng quy kết, từ tháng 3/2015 Phan Kim Khánh đã lập và quản trị 2 trang blog, 3 tài khoản facebook và 2 kênh YouTube để đăng nhiều thông tin mà theo Công An Việt Nam là “có nội dung bịa đặt, xuyên tạc nhằm chống Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, phần lớn được lấy từ các trang mạng phản động khác.” Trần Hoàng Phúc không nhận canh của trại giam vì nghi “có vấn đề” Một tù nhân lương tâm trẻ khác là Trần Hoàng Phúc không nhận canh của trại giam An Phước, tỉnh Bình Phước từ đầu tháng 1 cho tới nay vì nghi thực phẩm của trại giam “có vấn đề’. Thông tin trên được bà Huỳnh Thị Út, mẹ của tù nhân lương tâm này nói với Đài Á Châu Tự Do sau chuyến thăm gặp ngày11/2/2019 như sau: “Cái thức ăn thì lần (thăm gặp) vừa rồi tại sao con có nói cả tháng không nhận canh thì Phúc nói là con nghi ngờ là trong canh có vấn đề, vì khi người ta đầu độc thì con đường dễ nhất và nhanh nhất là chất lỏng nên con không nhận. Chỉ ăn thức ăn gia đình mình gửi vào thôi!” bà Huỳnh Thị Út nói qua điện thoại vào trưa 11/2/2019. Bà Út cũng cho biết thêm thông tin là thuốc đặc trị viêm gan siêu vi C gửi vào cho Trần Hoàng Phúc từ hôm 5/1 thì anh này đã được trại giam cho nhận để điều trị và trong ngày mùng 1 và mùng 3 Tết Kỷ Hợi vừa qua, những tù nhân chính trị trong trại giam An Phước cũng được ra khu giam riêng để giao lưu, trò chuyện với nhau. Anh Trần Hoàng Phúc, sinh năm 1994, đã học hết năm cuối Khoa Luật quốc tế – trường đại học Luật TPHCM, nhưng chưa được trường cấp bằng do tham gia các hoạt động cổ vũ cho quyền con người. Trước lúc bị bắt, Trần Hoàng Phúc là thành viên của nhóm Sáng Kiến Lãnh Đạo Đông Nam Á (YSEALI) do cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama thành lập nhưng bị ngăn đến dự buổi nói chuyện của ông Obama khi ông này đến TPHCM tháng 5/2016. Hồi tháng giêng năm 2018, anh bị TAND Hà Nội tuyên án 6 năm tù giam và 4 năm quản chế cùng với ông Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển trong phong trào Chấn Hưng Nước Việt. Báo chí nhà nước dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát quy kết nhóm 3 người này đã “làm, đăng tải 17 video, clip lên mạng xã hội, Internet và tàng trữ nhiều tài liệu có nội dung phỉ báng chính quyền”. Ông Huỳnh Trương Ca tố bị “ép cung, dụ cung” Người thân của tù nhân lương tâm Huỳnh Trương Ca, thành viên của nhóm Hiến Pháp trong cuộc phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do cho hay, ông Ca trong cuộc thăm gặp cuối tháng 1/2019 đã tố cáo một điều tra viên của cơ quan An ninh TPHCM trong giai đoạn điều tra đã “ép cung, dụ cung” ông này để khai ra những người còn lại, nhưng đã từ chối làm theo. “Có một ngày công an điều tra trên Sài Gòn đi xuống ép cung, dụ ông khai ra những người bạn trên Sài Gòn, những người cùng tuyên thệ và dùng lời lẽ thô thiển nạt nộ. Nhưng ông nói mấy người không có quyền nói chuyện với tôi kiểu đó nên ông không khai ra gì hết trơn”, một người thân của ông Ca vì lý do an toàn xin được giấu tên cho biết. Ông Huỳnh Trương Ca, sinh năm 1971, bị Tòa án tỉnh Đồng Tháp tuyên phạt 5 năm 6 tháng tù giam với cáo buộc "làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hôm 28/12/2018 vừa qua. Người thân của ông Ca cũng tiết lộ trong phiên tòa sơ thẩm, người tù nhân lương tâm này không “tỏ ra ăn năn, hối hận” như báo chí nhà nước tường thuật về phiên tòa và ông cũng không có luật sư bào chữa. Người này cũng cho biết, mặc dù ông Ca bị nhiều chứng bệnh trong người như tiểu đường, cao huyết áp, sỏi thận nhưng cán bộ trại giam từ chối nhận thuốc của gia đình gửi vào. Hiện cũng có những lo ngại cho sức khỏe ông Ca không đủ sức để qua hết án tù vì “điều kiện trong đó khắc nghiệt quá”. Tổ chức Bảo vệ Người Bảo vệ Nhân quyền dẫn lời một thành viên của nhóm Hiến Pháp là bà Nguyễn Uyên Thùy cho hay có tổng cộng 9 thành viên của nhóm này bị bắt trước và sau ngày Quốc khánh 2/9 năm ngoái. Nhóm này được cho là có dự định kêu gọi tiến hành biểu tình ôn hoà vào ngày này để lên tiếng về nhiều vấn đề khác nhau gồm vi phạm nhân quyền, tình trạng tham nhũng có hệ thống, phản ứng yếu ớt của chính phủ Việt Nam đối với vi phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc, cũng như quản trị tồi của chính phủ Hà Nội dẫn đến thực tế ô nhiễm môi trường trầm trọng trên cả nước. https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/families-of-prisoners-of-conscience-plea-for-help-02112019070308.html?fbclid=IwAR0SpJXx0XhlME5VyMG6m346GBJ5N7bkO9AzOYnlaMshRvo0wIazCs_GNnI *****   TRẠI GIAM AN PHƯỚC FB Huynh Nghia 11-2-2019 Biết Phúc cả tháng nay không nhận thức ăn của Trại giam An Phước cho nên từ mấy ngày trước, gia đình Phúc đã đi mua thức ăn tiếp tế cho Phúc. Cả đêm thao thức không ngủ, phải dậy sớm nấu cho Phúc bát canh nóng gởi vào cho Phúc ăn nhưng tôi lại thấy vui. Vì cương quyết đấu tranh cho quyền lợi của Phúc và của các tù nhân chính trị trong Trại giam nên thần sắc của Phúc khá căng thẳng. Thuốc đặc trị điều trị viêm gan siêu vi C, Phúc đã được nhận và đang uống. Phúc nói : Con không nhận thức ăn của trại hơn tháng nay vì cách đầu độc nhanh nhất, dễ nhất và hiệu quả nhất là thông qua đường chất lỏng. Cho nên con cương quyết từ chối nhận canh của trại. Thứ hai, khi bị trúng độc THẦN KINH thì qua kiểm tra đường huyết, huyết áp và cân nặng thì không thể phát hiện được. Gia đình nếu mang cân, máy đo huyết áp, máy đo tiểu đường vào đều bị vu cho là mang những thiết bị điện tử vào để làm chuyện vi phạm pháp luật. Cho nên gia đình không được mang những cái này vào trại giam và theo nguyên tắc Bảo vệ pháp lý của Trại thì Trại giam sẽ chịu trách nhiệm sức khỏe của các tù nhân. Trại giam An Phước sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về sức khỏe và tính mạng của Phúc trong thời gian Phúc ở đây và sau này. Mùng 29/12 âm lịch Tết, Giám thị Trại giam An Phước Thượng tá Phùng Văn Tuyến có đến chúc Tết. Phúc đã nhắc lại những yêu cầu về quyền lợi của Phúc và các tù nhân chính trị phải được hưởng theo các Nghị định và Thông tư của Thủ tướng và Bộ trưởng Công an đã ký. Thế nhưng đến nay trại giam An Phước vẫn chưa thực hiện. Ông Tuyến nói rằng qua Tết ông sẽ giải quyết nhưng đến nay ngày 11-2-2019 vẫn chưa thấy ông giải quyết. Phúc nói trong lần thăm gặp tới ngày 5-3-2019, để xem Giám thị Trại giam Phùng Văn Tuyến trả lời như thế nào thì Phúc sẽ nói cụ thể cho gia đình biết. Phúc nói rằng Giám thị Tuyến còn nợ Phúc và các tù nhân chính trị người dân tộc 1 lời xin lỗi. Khu đất phía bên ngoài khu nhốt tù chính trị được Giám thị Trại giam Tuyến khẳng định là đất không thể trồng được rau xanh và không cho trồng. Thế nhưng Phúc và các tù nhân chính trị người dân tộc đã kiên quyết giữ lập trường là trồng được và yêu cầu được trồng. Sau khi được Phúc và các tù nhân người dân tộc ra sức canh tác thì những luống bắp cải và bí đỏ lấy ngọn đã phát triển xanh tốt. Giám thị Tuyến có thừa nhận sai nhưng không xin lỗi. Sách , tập vở của gia đình gởi vào, Phúc đã được mượn vào buồng giam để học, giấy trắng thì mua ở căn tin cho rẻ tiền. Đĩa phim “ Bằng chứng thép “, tôi gởi vào thì đã được chiếu cho các tù nhân chính trị xem trong dịp Tết vừa rồi. Nhật ký thăm nuôi Gia đình cháu Trần Hoàng Phúc  
......

LẠC HẬU CẢ TRĂM NĂM

Fb Luân Lê Sau cả hàng trăm năm, vẫn con trâu theo sau cái cày, cái bừa một cách thô sơ để đi vỡ đất trước mỗi mùa vụ. Nông dân nước Mỹ phun thuốc sâu bằng máy bay, trồng rau, củ, quả và thu hoạch bằng các loại máy cơ giới tự động. Hòa Lan thu hoạch hoa, quả bằng những chiếc máy mà thậm chí không cần tới sự có mặt của con người tại những vườn hoa, rãnh đất. Đất nước nhỏ bé Israel sau mấy chục năm lập quốc trở lại, đã biến sa mạc, các vùng diện tích rộng lớn cằn cỗi, sỏi đá thành những vùng đất sống màu mỡ và phát triển nông nghiệp rực rỡ. Nhật Bản áp dụng công nghệ cao vào và xây dựng một hệ thống nông nghiệp sạch, an toàn và có thể canh tác mọi thời gian trong năm, khiến thế giới còn phải học hỏi và ngưỡng mộ. Mặc dù ta được thiên nhiên ưu đãi cho tài nguyên trù phú, đất đai phì nhiêu, biển đảo rộng lớn, sông ngòi kênh rạch chằng chịt và điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, nhưng cả hàng trăm năm trôi qua vẫn hiển hiện tình trạng cái cày đi trước con trâu và con người mặc chiếc áo tơi lẽo đẽo theo sau cuối cùng. Con trâu, cái cày vẫn là biểu tượng của nông nghiệp; cái loa vẫn là biểu trưng tuyên bố của công nghệ; dây rợ nặng trĩu giăng mắc lủng lẳng trên đầu với các cây cột yếu ớt cắm đầy mặt đất vẫn là phương tiện truyền dẫn điện, thì bao giờ mới có nền tảng khoa học công nghệ? Các ông nên ngồi lại với nhau và bắt đầu bằng những chính sách vĩ mô thiết thực và cụ thể, đừng để người dân xây cái chòi vịt bị cưỡng chế phạt lên phạt xuống; trồng cái cây cái que, nuôi mấy con gia cầm, súc vật cũng củ hành củ tỏi, vòi vĩnh đủ thứ, kiểm tra ráo riết, phạt vạ đủ đường; làm cái thủ tục đăng ký hoạt động cũng lên bờ xuống ruộng vì mấy cái dấu chấm, phẩy, đẩy hết cơ quan này tới ban ngành khác, tổ chức nọ; một quả trứng gánh 14 loại thuế, phí hay một cái kẹo cao sao phải chịu tới 13 loại phí, thuế; nhà khoa học thì không có dụng cụ thí nghiệm; đề tài khoa học nghiên cứu xong vứt vào ngăn kéo; trí thức từ nước ngoài về nước thì thất nghiệp, từ trong nước thì tìm mọi cách ra đi... Nếu các vị lãnh đạo cao cấp cứ mỗi mùa vụ lại mặc áo nâu rồi thủng thẳng đi sau cái cày và con trâu, đất nước sẽ tụt lại trước những hố sâu rãnh cày của các ông đấy.
......

Pages