2013

Sự phát tán của loại vũ khí chiến tranh này có thể là dấu chấm hết cho sự tồn tại của loài người…

Trong thời gian gần đây, quan hệ quốc tế đang trở nên căng thẳng vì tình hình chính trị ở Syria. Sau những nghi ngờ của một số nước phương Tây về việc về việc Syria có sử dụng vũ khí hóa học đối với thường dân, Mỹ và các quốc gia đồng minh đe dọa sẽ sử dụng những biện pháp can thiệp quân sự vào mảnh đất ở khu vực Trung Đông này. Mới đây nhất, chính quyền Mỹ đã cho công bố những báo cáo, bao gồm một loạt chứng cứ về sự tồn tại của một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học ở ngoại ô Damascus ngày 21/8 vừa qua. Theo đó, cuộc tấn công này đã làm 1.429 người thiệt mạng, bao gồm 426 trẻ em. Vậy vũ khí hóa học là gì, chúng có ảnh hưởng như thế nào tới cuộc sống con người và điều gì sẽ xảy ra nếu loại vũ khí này phát tán, bùng nổ trên toàn thế giới? Vũ khí hóa học là gì? Vũ khí hóa học là một dạng vũ khí quân sự thường được sử dụng trong chiến tranh, có khả năng hủy diệt và sát thương hàng loạt, giống như vũ khí sinh học, vũ khí hạt nhân… Nói đơn giản, đây là tập hợp các thiết bị quân sự có sử dụng hóa chất (ở cả 3 thể rắn, lỏng, khí) khi được phát tán sẽ gây ra tổn thương trực tiếp trên cơ thể người hoặc tử vong. Tùy theo hóa chất được sử dụng, người ta chia vũ khí hóa học thành 3 loại chính: loại sử dụng chất độc thần kinh, sử dụng hơi cay và sử dụng chất độc hô hấp. Sức mạnh hủy diệt của vũ khí hóa học? Trên thực tế, con người biết sử dụng loại vũ khí tàn bạo này từ rất sớm. Những phiên bản đầu tiên chính là các mũi tên tẩm độc của thổ dân da đỏ. Thời đó, người ta đã biết tới việc bỏ độc vào nguồn nước để tiêu diệt quân địch. Trước Công nguyên, người Ấn Độ đã từng vận dụng khói hơi ngạt trong các trận chiến của mình. Ở phương Tây, các chiến binh Spartan cũng đốt gỗ trộn với mù tạt và lưu huỳnh để tạo ra hơi cay của riêng mình dùng trong chiến tranh. Thời kỳ hoàng kim của loại vũ khí này là trong hai cuộc chiến tranh thế giới và hình ảnh tàn bạo của phát xít Đức thảm sát hàng triệu người vô tội bằng khí độc sẽ còn ám ảnh chúng ta mãi về sau. Một số loại chất độc chính từng được sử dụng là VX, Sarin, clo, phosgene,… Trong đó, Sarin là một chất độc thần kinh, độc tính mạnh gấp 500 lần cyanide (Hidro xyanua) và có thể giết chết một người trưởng thành trong vòng 1 phút. VX lại sở hữu khả năng hủy diệt lớn, giết chết 75% những ai bị chất này dính lên người trong vòng 7-8 giờ đồng hồ. Phosgene có mùi cỏ mới, sẽ gây phù phổi nếu vô tình hít phải và giết chết người bị nhiễm trong vòng 1-2 ngày. Cho tới ngày nay, trên thế giới có không ít quốc gia trên thế giới tuyên bố sở hữu kho vũ khí hóa học. Có thể kể tới như Mỹ, Ấn Độ, Iraq, Nhật Bản. Gần đây, cả thế giới đang nín thở theo dõi tình hình ở Syria khi báo chí và chính quyền phương Tây nghi ngờ nước này sử dụng vũ khí hóa học với dân thường. Dù điều đó có đúng hay không thì với khả năng hủy diệt hàng loạt của mình, sẽ không sai khi cho rằng, nếu vũ khí hóa học bùng nổ trên thế giới, đó cũng sẽ là dấu chấm hết cho lịch sử loài người. Bí kíp sống sót trước thảm họa vũ khí hóa học Cả nhân loại đều hiểu được sự nguy hiểm mà vũ khí hóa học đem lại. Do đó, một tổ chức giải trừ vũ khí hóa học (OPCW) quy tụ 189 quốc gia đã được thành lập năm 1997 nhằm thực hiện những nỗ lực không mệt mỏi, ngăn chặn sự phát triển cũng như giải trừ, tiến tới xóa bỏ vũ khí hóa học trên thế giới. Với những nỗ lực này, nhiều khả năng, một thảm kịch vũ khí hóa học trên quy mô toàn cầu có lẽ sẽ chỉ có trên lý thuyết. Song, không ai có thể chắc chắn 100% điều gì. Bởi vậy, giống như thảm họa hạt nhân, sự bùng nổ trên quy mô toàn cầu của vũ khí hóa học cũng như Ngày Tận thế đang treo lơ lửng trên đầu chúng ta. Để sống sót qua “cái chết không báo trước” này, hãy làm theo những hướng dẫn sau: Cố gắng nhận biết một cuộc tấn công hóa học càng nhanh càng tốt. Bạn có thể làm điều này bằng cách nghe thông tin từ truyền hình, radio. Đa phần các chất độc hóa học được sử dụng có thể không màu nhưng có mùi đặc trưng như mùi hắc của khí clo, mùi mù tạt… Khi tiếp xúc với những loại khí như vậy, cơ thể bạn gần như phản ứng tức thì: da tấy đỏ, ngứa, khó thở, mù tạm thời… Nếu biết mình đang nằm trong vùng tấn công hóa học, hãy tìm những vùng đất cao nhất và tới đó. Phần lớn chất độc hóa học nặng hơn không khí, do đó việc làm trên giúp bạn hạn chế đáng kể khả năng bị dính chất độc. Sau đó,  cởi hết toàn bộ quần áo đang mặc, bọc vào túi nhựa và vứt đi vì chắc chắn hóa chất đã dính lên chúng. Bạn cần nhanh chóng tắm rửa bằng xà phòng cẩn thận, rửa mắt với nước 10-15 phút để loại bỏ những mầm mống hóa chất có thể sót lại trên da. Cuối cùng, hãy giữ bình tĩnh để điều hòa nhịp thở. Sự hoảng loạn khiến bạn thở nhanh hơn, hít nhiều khí hơn bình thường và làm tăng nguy cơ hít phải khí độc. Để bảo vệ phổi, hãy sử dụng mặt nạ phòng độc hoặc bịt mũi bằng bông tẩm nước tiểu. Nước tiểu có khả năng trung hòa một số chất độc hóa học đang được sử dụng hiện nay. Trong Thế chiến thứ I, quân đội Canada đã sống sót nhờ vận dụng phương pháp này. Tạm kết: Sự bùng nổ vũ khí hóa học xảy ra chính xác khi nào là điều không ai dám chắc. Nhưng chuẩn bị trước là chuyện hoàn toàn nên làm. Thường xuyên cập nhật tin tức, tìm hiểu chính xác những bí kíp phòng thân là điều sẽ giúp bạn sống sót qua “cái chết không báo trước” này. * Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Discovery, Business Insider, Global Post, Wikihow, Wikipedia...
......

Tự do dân chủ và vấn đề điện hạt nhân

(SaveVietnam´sNature) Hai cây cổ thụ của ngành năng lượng hạt nhân Việt Nam, hai vị giáo sư khả kính Nguyễn Khắc Nhẫn và Phạm Duy Hiển, vừa dạy chúng ta một bài học không những về sự hiểu biết đứng đắn về tình trạng điện hạt nhân (ĐHN) trên thế giới và tại VN,mà trong cuộc phỏng vấn (1) của RFI ngày 4/09/2013, hai vị còn làm gương cho mọi người, lấy cách ứng xử của mình để thể hiện Tự do Nhân quyền cần thiết nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc . Nói theo một thiền sư VN nổi tiếng khắp thế giới, không có con đường đưa đến Tự Do Dân Chủ, chính con đường là Tự Do Dân Chủ (TDDC). TDDC không là một cái đích trọn vẹn xuất hiện từ không có gì và chỉ xuất hiện trong một tương lai xa vời, TDDC cũng không phải hoàn toàn không thể có vì bị một thế lực nào đàn áp, hay có vì một thế lực nào cho phép, mà tinh thần Tự do đã và đang tiềm ẩn  và chỉ cần mỗi con dân VN nhận thức và thể hiện nó theo phương cách của mình. Thật ra, đáng lý GS Nguyễn Khắc Nhẫn và GS Phạm Duy Hiển không có gì phải cắt nghĩa thêm về cơ nguy thảm họa ĐHN sẽ tàn phá đất nước và phá hủy môi trường sống của những thế hệ con cháu chúng ta, trong thời kỳ hậu Three Mile Island ,  Chernobyl và Fukushima hiện nay. Mọi sự đã quá rõ ràng. Sau cả chục năm tiên phong đem sự hiểu biết chuyên môn cùng kinh nghiệm vài chục năm của mình để cắt nghĩa và chỉ dẫn những người chưa hiểu biết, sự lên tiếng cuả hai vị mới đây,  ngoài việc tóm tắt mọi lý do chính không cho phép Việt Nam phạm lỗi lầm giết người đi vào con đường ĐHN, còn một lần nữa tiên phong đưa ra khía cạnh nhân bản và trách nhiệm của vấn đề: quan tâm và dấn thân gánh vác, đem sự hiểu biết để bảo vệ sự sống của con người VN thế hệ này cũng như những thế hệ tiếp nối, thể hiện Tự do Dân chủ bằng cách lên tiếng bất kể trong tình huống nào để nói lên sự thật, gạt bỏ chút lợi lộc cá nhân, dù là sự yên thân của tuổi già mà mọi người có quyền hưởng. Là người VN, nghe tiếng VN, thì chúng ta thừa tinh tế thấy rõ sự kiện, tưởng chừng là khác nhau về mức độ chống ĐHN của hai vị giáo sư, thật ra chỉ là chút khác biệt về cách nói, tùy thuộc hoàn cảnh nơi sống. Một người đã từng dạy học tại VN trước 75 và sau khi thành danh tại hải ngọai, đã từng về VN nhiều lần sau 75 để mong đóng góp xây dựng đất nước và cuối cùng đã phải ngao ngán dứt khoát tuyên bố với nhà cầm quyền đương thời từ chối mọi lời mời, ngày nào VN chưa buông bỏ chương trình “Điện hại dân, hại nước”. Người kia ,”với tư cách của một người được giao nhiệm vụ làm ngành hạt nhân từ 35 năm nay ở trong nước” và cũng vì còn sống trong nước nên chịu sự chi phối của nền pháp luật khấp khiểng đương thời  (với bản chất chẳng khác luật rừng) đành phải dè dặt hơn trong cách khẳng định. GS Hiển đi từ “không nhất trí với việc làm sớm và làm ồ ạt ĐHN”, cho tới” nhưng bây giờ một khi chính phủ đã quyết, thì chúng tôi phải nói rất mạnh … chừng nào đội ngũ nhân lực đó mà chưa sẵn sàng, thì chưa có thể làm, chưa có thể cho vận hành, xây dựng nhà máy ĐHN được”. Vả lại làm làm gì khi đã có những công trình nghiên cứu chứng minh VN không cần ĐHN? Cả hai vị giáo sư, hai nhà chuyên môn sáng giá nhất của VN trong ngành năng lượng hạt nhân, chính là những người có thẩm quyền nhất để bác bỏ sự xuất hiện của ngành kỹ nghệ ĐHN tại VN cũng như thúc bách đòi hỏi một chương trình năng lượng hiệu lực và có trách nhiệm, để người dân được no đủ và nâng cao mức sống của người dân cho không quá tụt hậu: -tức khắc chú trọng nâng cao hiệu suất sử dụng điện và -cấp tốc dồn hết sức lực, kế họach và phát triển các năng lượng tái tạo. Đã có những giải đáp thực tiễn sẵn sàng để VN có thể học hỏi từ những nước văn minh trên thế giới và áp dụng, cớ sao phải ngụy tạo, thủ đọan, để bịt mắt dân và hại nước cho bằng được? Tự do Nhân quyền không phải là một đặc ân do ai ban phát. Những tổ chức dân sự mọi nơi trên thế giới đã nghiễm nhiên hành động và chứng tỏ sức mạnh của người dân có thể áp lực những nhà cầm quyền phải trực diện sự thật và không ngừng thay đổi theo đà tiến triển của nhân lọai , thay đổi những quyết định sai lầm có hại cho đất nước. Sức khỏe và hạnh phúc của người dân là tiên quyết. Một quyết định sai lầm dù đã được quốc hội thông qua vẫn là một quyết định sai lầm, cần bàn thảo lại và sửa đổi, ngay cả hủy  bỏ. Quan trọng là người dân phải dứt khoát lên tiếng . Có rất nhiều hình thức để lên tiếng dù nhà cầm quyền không muốn dân lên tiếng hay cấm cản, gây khó dễ. Sức mạnh chính là sự quan tâm và tinh thần trách nhiệm của lớp người có khả năng hiểu biết rộng . Lớp người này rất may mắn Việt Nam không thiếu, chỉ cần họ theo gương hai giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn và Phạm Duy Hiển lên tiếng. Lên tiếng không phải là một hành vi can đảm mà chỉ đơn thuần là điều mà lương tâm con người đòi hỏi phải làm. Đâu là hàng trăm ngàn những chuyên viên, sinh viên cũ của hai vị giáo sư? Đâu là những đồng nghiệp, những nhà khoa học VN trong cũng như ngoài nước? Đâu là những nhà trí thức, những cô giáo, thầy giáo đang mang trọng trách hướng dẫn thế hệ con em, tương lai của đất nước? Đâu là những nhà tôn giáo, luật gia,với chức năng bảo tồn nền đạo đức dân tộc, đảm bảo công bằng xã hội? Đâu là những nhà y tế đã nguyện bảo vệ sức khỏe, sự sống và môi trường sống của con người? Đâu là những nhà truyền tin , nhà văn, với thế đứng hàng đầu trong việc nối kết mọi người trong nước với thế giới bên ngoài, góp sức mở rộng tầm hiểu biết?   Đất nước Việt Nam có thể đang tụt hậu về mặt vật chất nhưng không thể để thế giới lầm tưởng chúng ta cũng tụt hậu về mặt trí tuệ .Bảo vệ nhân quyền, bảo vệ môi sinh, tinh thần trách nhiệm toàn cầu là vấn đề dân trí, là đặc thù của nền văn minh thế kỷ 21. Không thể vỗ ngực đánh đuổi ngọai xâm trong khi giao trọn tương lai sự sống của bao thế hệ con người VN cho những công ty ĐHN ngọai quốc. Có thể gọi là thành công khi khai mạc được một “Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành” với sự hiện diện của 5 nhà vật lý mang giải Nobel không, trong khi trẻ em tiểu học VN bị bỏ mặc cho tập đoàn Rosatom múa gậy vườn hoang, tung chút tiền mọn, nhồi sọ những tuyên truyền rẻ tiền vào đầu óc non nớt của chúng ?(2). Danh dự dân tộc Việt Nam cần được bảo vệ. Chúng ta phải lên tiếng. Trong tình huống này chúng ta không thể nhân danh bất cứ một cái gì để im lặng chịu trận,nhưng có thể nhân danh tất cả những gì thiêng liêng cao qúi nhất để lên tiếng : Tôi không đồng ý làm Điện Hạt Nhân tại VN và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm phổ biến tin tức giúp mọi người chung quanh tôi hiểu rõ về sự nguy hại này! T.Q. Tác giả trực tiếp gửi cho BVN Nguồn: boxitvn.blogspot
......

Mười một tháng chín...

(Tặng đồng đội tôi, những người bị bắt trong mùa thu 2008). Mười một tháng chín năm 2001 không chỉ là ngày tồi tệ trong lịch sử nước Mỹ mà còn trở thành biểu tượng về nỗi kinh hoàng cho nhân loại. Trong khi cả thế giới đang tưởng niệm bẩy năm ngày xảy ra “sự kiện 11 tháng 9” thì một chiến dịch khủng bố khác đã được thực hiện. Vụ khủng bố không xảy ra ở nước Mỹ, thủ phạm không phải Osama Bin Laden và không có ai bị chết. Mười một tháng chín năm 2008, chính quyền cộng sản đã tiến hành một chiến dịch bắt bớ với quy mô lớn nhằm vào những nhân vật đấu tranh cho Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam.   Trong số những nhân vật đầu tiên bị bắt đi vào ngày 11 tháng 9 là các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Văn Trội, Nguyễn Văn Túc. Lần lượt những ngày kế tiếp là các nhân vật tranh đấu khác gồm: Nguyễn Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Tính, Ngô Quỳnh, Vũ Hùng, Trần Đức Thạch, Nguyễn Kim Nhàn và tôi, Phạm Thanh Nghiên. Hơn bốn mươi năm tù là “phần thưởng” dành cho chúng tôi, dành cho khát vọng Tự do và những giá trị tốt đẹp của Con người. Ngày hôm nay, 11 tháng 9 năm 2013, tròn 12 năm kể từ ngày khủng bố mười một tháng chín trên đất Mỹ. Và cũng đã năm năm kể từ ngày cộng sản tiến hành “chiến dịch bắt bớ mùa thu 2008”, chúng tôi đều đã lần lượt ra tù. Nhưng có một người vẫn còn nằm lại, ở một trong những nhà tù khắc nghiệt nhất của hệ thống nhà tù cộng sản: nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, người nhận bản án nặng nề nhất trong số chúng tôi. Trong năm năm qua, nhà văn của chúng ta đã trải qua bốn nhà tù. Không ít lần trong thời gian năm năm ấy ông đã bị biệt giam, bị phân biệt đối xử, bị nhốt trong buồng kỷ luật với lý do “vi phạm nội quy trại giam” mà trên thực tế là một hình thức trả thù hèn hạ vì ông đã đấu tranh để phản đối sự vô nhân đạo của cai tù áp đặt lên ông và những người tù khác. Sự tàn bạo của chế độ nhà tù cộng sản không  còn là điều xa lạ nhưng chúng ta vẫn không khỏi ngỡ ngàng nhận tin ông bị cùm chân ngay trên giường bệnh hồi cuối năm 2012. Khí phách và sự khảng khái của một nhà văn yêu nước không chỉ làm cho chúng ta xúc động, khâm phục mà còn khiến những tên cai tù máu lạnh đang lăm lăm chiếc cùm sắt phải chùn tay, lùi bước: “Nếu các anh cùm chân tôi, thì tôi sẽ chọn cái chết ngay trên giường bệnh này!” Cách đây không lâu, sự kiện Blogger Điếu Cày tuyệt thực trong tù trở thành một trong những sự kiện khiến công luận trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm. Người ta đếm từng ngày anh tuyệt thực và gọi đó là “lịch Điếu Cày”. “Lịch Điếu Cày” chỉ dừng lại ở con số 36 khi anh ngừng tuyệt thực đồng nghĩa với việc cai tù buộc phải đáp ứng những yêu cầu chính đáng của một người tù lương tâm bất khuất. Người đã bất chấp hiểm nguy để báo tin Điếu Cày tuyệt thực chính là ông, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa. Dùng từ “hiểm nguy” không quá vì đối với một Tù nhân lương tâm, khi trao đổi với người thân trong những cuộc thăm gặp thì dù là thông tin liên quan đến bản thân mình còn bị cho là cấm kỵ. Huống hồ đó là thông tin về một Tù nhân lương tâm khác, nhất lại là thông tin vào diện “nhạy cảm”. Theo lời kể của bà Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa thì khi vừa thông báo tin này cho bà biết, “ông Nghĩa lập tức bị công an bịt mồm, lôi đi xềnh xệch” và đương nhiên, cuộc gặp bị hủy bỏ. Ngay sau đó, ông Nghĩa được chuyển từ buồng tập thể sang buồng giam chỉ có hai người. Không phải ngẫu nhiên Trần Văn Tiến, tên tội phạm làm gián điệp cho Trung Quốc, lại từng có “thành tích” đánh người (trước đó đã đánh một Tù nhân lương tâm khác là ông Nguyễn Kim Nhàn) được bố trí để ở chung với nhà văn, một người rất quyết liệt trong đấu tranh chống bá quyền Trung Quốc. Vào lần thăm gặp gần đây, bà Nga cho biết chồng bà không chỉ bị tên Tiến đánh, mà còn liên tục bị đe dọa và xúc phạm đến nhân phẩm. Hắn từng ngang nhiên tuyên bố: “Mày (Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa) sẽ chết trước khi kịp bước chân vào nhà”. Lời đe dọa nghe giống với thông điệp của chính quyền gửi đến “kẻ chống đối” hơn là của một người tù nói với một người tù. Năm trong số sáu năm tù nhà văn đã trải qua với bao nhiêu hiểm nguy và thử thách. Một năm còn lại, có thể những hiểm nguy và thử thách sẽ nhiều hơn nhưng chúng ta tin, một con người luôn hướng đến tương lai như ông sẽ vượt qua tất cả để trở về trong chiến thắng. Những Tù nhân lương tâm khác đều sẽ trở về trong Chiến thắng. Vì tương lai là của chúng ta. Hôm nay, để kỷ niệm năm năm ngày nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và các đồng đội của ông bị bắt, xin được tặng lại quý độc giả bài thơ “Cầu xin đau cả loài người” ông viết hồi tháng 9 năm 2007, một năm trước khi bị bắt. Bài thơ - như ông tâm sự- là để “kính viếng hương hồn những người dân Myanmar đã ngã xuống trong cuộc biểu tình chống chế độ quân phiệt cuối tháng 9 năm 2007”.                            “Người đã ngã trên đường Yangon                             Tôi sẽ ngã trên đường Hà Nội”. Không lâu sau khi tôi, ông và nhiều anh em khác bước chân khỏi căn nhà quen thuộc của mình để đối mặt với cuộc sống ngục tù thì đường phố Yangon đã không còn thêm những xác người. Người dân Miến Điện đã được Tự do. Một kết thúc có hậu cho một Dân tộc từng trải qua nhiều đau thương, mất mát. Việt Nam có thể phải rất lâu hoặc có thể không bao lâu nữa để có một cuộc xuống đường như mong muốn.Trong số những người “sẽ ngã” có thể có ông-nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa- có tôi, bạn hay bất cứ một người dân Việt Nam nào. Nhưng, chúng ta sẽ ngã cùng với nụ cười nở trên môi: Nụ cười Việt Nam. Nụ cười Chiến thắng. Nhưng trước mặt chúng tôi đã có đoàn người vững vàng tiến tới và đang ca bài Chiến thắng.                                 Cầu xin đau cả loài người                                                                            Nguyễn Xuân Nghĩa            Người đã ngã trên đường Yangon           Ngực áo cà sa đang thủng           Tiếng súng độc tài vang trên xứ sở chùa chiền           Sao người bên ấy giống mẹ tôi,           Người giống bố tôi.          Con trâu lưỡi cày chung gốc          Cây lúa, cây ngô một hạt phân cành        Sao đất nước của người giống đất nước của tôi        Hoa văn mái chùa chung nét        Tiếng chuông phương Nam, tĩnh hồn phương Bắc        Gốc Bồ Đề, tràng hạt cầm chung.        Kẻ cầm quyền bên người sao giống bên tôi       Viên đạn giống nhau ngôn từ cũng giống       Cái người mất là cái tôi đang mất       Tiếng thét bên kia nghe ở bên này       Người đã ngã trên đường Yangon       Tôi sẽ ngã trên đường Hà Nội.       Giọt máu trộn chung, đỏ hai mảnh đất       Cầu xin đau cả loài người. nguồn: phamthanhnghien.blogspot
......

Mạng Lưới Blogger Việt Nam Gặp Phái đoàn EU Trước Thềm Đối Thoại Nhân Quyền

Chiều ngày 10/9, 5 thành viên của Mạnglưới Blogger Việt Nam đã có cuộc gặp với đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam để đưa bản Tuyên bố 258 và trao đổi về tình hình nhân quyền trong nước. Đáng chú ý là cuộc gặp này diễn ra ngay trước phiên đối thoại nhân quyền 2013 giữa EU và Việt Nam. Đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho bà Veronique Arnault, đại diện Phái đoàn EU sang dự phiên Đối thoại Nhân quyền 2013 với Việt Nam. Bà Véronique Arnault, Giám đốc phụ trách nhân quyền của Cơ quan Hành động Đối ngoại châu Âu (EEAS, tương đương với một Bộ Ngoại giao chung của EU), vừa đến Hà Nội để bắt đầu đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam. Đối thoại nhân quyền năm nay diễn ra vào ngày 11/9, và bà đã dành riêng cho các blogger thuộc Mạng lưới Blogger Việt Nam một cuộc gặp chính thức. Tham dự cuộc gặp, ngoài bà Véronique Arnault, còn có một số quan chức cấp cao của EU: bà Delphine Malard, Cố vấn thứ nhất, phụ trách Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Juan Jose Almagro Herrador, cố vấn Ban Chính trị, Báo chí và Thông tin; ông Konstantin Von Mentzingen, quan chức về Việt Nam và Đông Nam Á; và bà Rose Ieremia, Đại sứ Hy Lạp tại Việt Nam. (Hy Lạp cùng với Ireland và Litva giữ chức chủ tịch Hội đồng Liên minh châu Âu nhiệm kỳ 2013-2014). Phó Đại sứ Thụy Điển Elenore Kanter, người từng tiếp các blogger Việt Nam trong cuộc gặp “nghẹtthở” ngày 7/8 khi 5 blogger phải khó khăn lắm mới qua được hàng rào an ninh để vào Đại sứ quán, cũng tham dự. Phía Mạng lưới Blogger Việt Nam có 4 blogger với đầy đủ đại diện từ ba miền đất nước: NguyễnTường Thụy, Nguyễn Chí Tuyến (Hà Nội), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tức blogger Mẹ Nấm, ở Nha Trang), Châu Văn Thi (blogger Yêu Nước Việt, ở Sài Gòn). Mạng lưới Blogger Việt Nam sẽ có bài tường thuật chi tiết về cuộc gặp này với Phái đoàn EU. Đại diện Mạng lưới blogger Việt Nam và phái đoàn EU trao đổi về tình hình nhân quyền Việt Nam Đối thoại nhân quyền EU-Việt Nam EU tổ chức đối thoại định kỳ về nhân quyền với hơn 30 nước ngoài EU. Mỗi cuộc đối thoại đều được tiến hành căn cứ vào Nguyên tắc chung của EU về đối thoại nhân quyền. Các vấn đề đưa ra trong mỗi cuộc đối thoại được quyết định theo từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, một số vấn đề thuộc diện ưu tiên thì sẽ luôn ở trong chương trình nghị sự của mỗi cuộc đối thoại. Đó là việc ký, phê chuẩn và thực hiện các công ước nhân quyền quốc tế, hợp tác với các thủ tục và cơ chế nhân quyền quốc tế, chống tra tấn, xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm quyền trẻ em, quyền phụ nữ, tự do biểu đạt và vai trò của xã hội dân sự. Tham gia đối thoại là các quan chức nhà nước về nhân quyền, bao gồm cả đại diện từ các cơ quan chức năng như quốc hội, bộ tư pháp, bộ nội vụ, công an, thi hành án, v.v. Đối thoại giữa EU và các tổ chức xã hội dân sự ở nước sở tại thường diễn ra song song, bên lề những cuộc đối thoại cấp nhà nước. Ngay sau cuộc gặp với Mạng lưới Blogger Việt Nam, Phái đoàn EU đã tiếp tục gặp gỡ (không chính thức) một số quan chức, để chuẩn bị cho đối thoại  nhân quyền chính thức vào ngày 11/9. Mạng lưới Blogger Việt Nam tuyenbo258.blogspot.comtuyenbo258@gmail.com Nguồn: tuyenbo258.blogspot.de
......

Liên Hiệp Truyền Thông CGVN lên án nhà cầm quyền đàn áp giáo dân Gx. Mỹ Yên

Thông cáo báo chí của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam về việc cộng sản tấn công giáo dân Giáo Xứ Mỹ Yên THÔNG CÁO BÁO CHÍ FOR IMMEDIATE RELEASE.Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam Liên Lạc: Lm. Paul Van Chi Chupaulvanchi@yahoo.com Tel: (02) 9773 0933 Mob: 0410 552 650 Sydney ngày 7 tháng 9 năm 2013 - Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam nhận được Thông Cáo của Tòa Giám Mục Xã Đoài Giáo Phận Vinh ngày 5 tháng 9 năm 2013 về sự kiện "Chính quyền Nghệ An tổ chức dùng vũ lực trấn áp giáo dân." Đồng thời, chúng tôi cũng nhận được Thư Chung của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám Mục Giáo Phận Vinh, gửi ngày 6 tháng 9 năm 2013. Thông Cáo của Giáo Phận Vinh và Thư Chung của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp đều lên tiếng "cực lực lên án cách ứng xử bất nhân và những hành vi bạo lực dã man của cơ quan công quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân," vào buổi chiều ngày 4.9.2013 tại Giáo Xứ Mỹ Yên thuộc xã Nghi Phương huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thông Cáo và Thư Chung đã ghi rõ sự đàn áp bất nhân và dã man này, khi người nhà của ông Phêrô Ngô Văn Khởi và Antôn Nguyễn Văn Hải cùng nhiều bà con giáo dân thuộc Giáo Xứ Mỹ Yên tới UBND xã Nghi Phương để nhận 2 ông về nhà theo Giấy cam kết của nhà cầm quyền. Nhưng ngược lại, nhà cầm quyền đã bày binh bố trận với hàng trăm công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ, chó nghiệp vụ, và lựu đan cay... tấn công dã man. Nhiều người ngất xỉu và những người còn lại hoảng loạn bỏ chạy tứ tung. Lực lượng công quyền còn phá cửa, xông vào nhà, đập phá đồ đạc, tấn công những người trốn chạy vào những ngôi nhà đối diện với trụ sở UBND xã, và hành hung bắt cả chủ nhà... Nghiêm trọng hơn nữa, họ đã đập vỡ và xúc phạm tượng thánh tại tư gia anh Antôn Nguyễn Văn Văn. Đây là hành vi phạm thánh trắng trợn, xúc phạm nặng nề niềm tin tôn giáo. Hậu quả thê thảm này theo Thông Cáo và Thư Chung đã gây thương tích cho ít nhất 30 người, trong đó có cả phụ nữ và thiếu niên. Một số nạn nhân còn trong tình trạng nguy kịch đến tính mạng. Tòa Giám Mục đã lo lắng để các nạn nhân được điều trị và chăm sóc tại Bệnh viện Đa khoa Xã Đoài, Bệnh viện 115, Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An... Thông Cáo của Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh gồm 3 điểm: Điểm thứ nhất nhấn mạnh chính quyền đưa hàng trăm công an, cảnh sát cơ động, dân quân tự vệ và côn đồ, cùng với vũ khí và chó nghiệp vụ gây hỗn loạn, đánh đập dã man giáo dân, vào nhà dân đập tượng tôn giáo. Điểm thứ hai TGM Vinh lên án hành động sai trái của chính quyền Nghệ An. Điểm thứ ba là kêu gọi những người yêu chuộng công lý và hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân và lên tiếng bảo vệ giáo dân. Hơn thế nữa, trước tình cảnh đau thương này, Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp kêu gọi: "Cùng với Thông cáo của Tòa Giám mục Xã Ðoài, tôi cực lực lên án cách ứng xử bất nhân và những hành vi bạo lực dã man của cơ quan công quyền. Ðồng thời, tôi tha thiết mời gọi anh chị em cầu nguyện, dâng những hy sinh cũng như có những hành động cụ thể biểu lộ sự hiệp thông với giáo xứ Mỹ Yên và tình liên đới với các nạn nhân của bạo lực”. Đứng trước sự kiện đau thương và sự kiện tấn công dã man tại Giáo Xứ Mỹ Yên, cũng như lời kêu gọi của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp và Tòa Giám Mục Giáo Phận Vinh, Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam cực lực phản đối trước cộng đồng thế giới và quý Cộng Đồng Việt Nam trong nước và hải ngoại, đồng thời, nghiêm khắc lên án việc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam tiếp tục dùng hệ thống Công An, Cảnh Sát và côn đồ do nhà cầm quyền điều động như công cụ để đàn áp và tấn Công Giáo dân Giáo Xứ Mỹ Yên, Tỉnh Nghệ An, Giáo Phận Vinh. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam xin cùng Hiệp Thông, Cầu Nguyện, và chia sẻ với Giáo Xứ Mỹ Yên và Giáo Phận Vinh, đồng thời, nghiêm khắc lên án và tố cáo trước dư luận quốc tế những hành vi đàn áp, tấn công, hành hung, và xúc phạm niềm tin Công Giáo tại Giáo Xứ Mỹ Yên. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam yêu cầu nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam: 1) Chấm dứt ngay lập tức những hành động đàn áp, tấn công, hành hung, xúc phạm niềm tin Công Giáo tại Giáo Xứ Mỹ Yên và trên toàn quốc Việt Nam. 2) Chấm dứt việc đàn áp Giáo Hội Công Giáo và quý Tôn Giáo bạn. Bảo đảm an ninh cho các nơi thờ tự của tất cả quý Tôn Giáo. 3) Nghiêm chỉnh tôn trọng luật pháp do chính nhà cầm quyền Việt Nam ban hành và trả lại tất cả tài sản đã chiếm đoạt của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và của quý Tôn Giáo bạn. 4) Tuyệt đối tôn trọng Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo theo như bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc khẳng định. Trong niềm tin vào Thiên Chúa, chúng tôi tha thiết mời gọi những trái tim Việt Nam cùng đoàn kết để hiệp thông, chia sẻ, và đồng hành với Giáo Xứ Mỹ Yên và Giáo Phận Vinh nói riêng, cùng toàn thể Dân Tộc Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh bi thương này. Chúng tôi tha thiết kêu gọi Quý Quốc Hội, Quý Chính Phủ, Quý Đảng Phái Chính Trị các quốc gia, Quý Tổ Chức Nhân Quyền, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, Quý Ủy Ban Nhân Quyền Quốc Tế, các tổ chức thường quan tâm đến Tự Do và Nhân Quyền cho Việt Nam, cùng Quý Cơ Quan Truyền Thông Thế Giới và Quý Cơ Quan Truyền Thông Việt Nam trên toàn thế giới, cùng đồng hành đấu tranh cho Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo tại Việt Nam. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam. Liên hệ: Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài Giám Đốc Radio VERITAS Asia Buick St. North Fairview, Quezon City, Philippines P.O. Box 2642 Lm. Gioan Trần Công Nghị Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic P.O. Box 735, Avalon, CA 90704 Lm. Joachim Nguyễn Đức Việt Châu Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Mỹ Châu PO Box 1419 Gretna, LA 70053-5440, USA. Lm. Antôn Nguyễn Hữu Quảng Phó Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu 715 Sydney Rd. Brunswick Vic 3056 Australia Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu Chủ Nhiệm Nguyệt San Dân Chúa Âu Châu Magazine Catholique Katholische Monatszeitschrift Lm. Paul Chu Văn Chi Phó Giám Đốc Thông Tấn Xã Công Giáo VietCatholic 92 The River Rd - Revesby NSW 2212 Australia Nguồn: Vietcatholic.com
......

Các Chức Sắc Tôn Giáo: Hiệp thông với giáo phận Vinh, lên án chính quyền tỉnh Nghệ An

Trưa ngày 10.09.2013, Các chức sắc tôn giáo Việt Nam đã công bố Bản Lên Tiếng về Về vụ việc tại Giáo xứ Mỹ Yên, thuộc Giáo phận Vinh.   Bản Lên Tiếng: Chân thành hiệp thông đồng cảm với Đức Giám mục và toàn thể Giáo phận Vinh, nhất là với các nạn nhân vô tội trong vụ việc kéo dài từ 22-05-2013 tới nay. Cực lực phản đối nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An đã không có thiện chí giải quyết vụ việc ngay từ đầu, lại còn rắp tâm trả thù giáo dân kiểu hèn hạ bằng cách bắt cóc người và đàn áp dân. Mạnh mẽ nhắc nhở nhà cầm quyền và các lực lượng công an, quân đội rằng: mọi tội ác chống lại con người không sớm thì muộn sẽ phải bị truy tố trước tòa án của nhân dân, của quốc tế, của lịch sử (chưa kể của Các Đấng Thiêng liêng). Thiết tha kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như các Chính phủ dân chủ, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan truyền thông hoàn vũ tiếp tục phơi bày tội ác của Cộng sản, áp lực đủ cách lên nhà cầm quyền Việt Nam và bày tỏ lòng hiệp thông hữu hiệu với những dân lành vô tội.   BẢN LÊN TIẾNG                                                                                                                                                                        Của các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam Về vụ việc tại Giáo xứ Mỹ Yên, thuộc Giáo phận Vinh —— - Xét rằng chiều ngày 22-05-2013, trước khi diễn ra phiên xử phúc thẩm 14 thanh niên Công giáo và Tin Lành tại thành phố Vinh, có đoàn xe giáo dân thuộc giáo xứ Mỹ Yên, thuộc giáo phận Vinh, hành hương đến Linh địa Trại Gáo để cầu nguyện cho họ thì bị 3 người mặc thường phục chặn lại và đòi xét cả hành lý. Quá bất bình trước thái độ ngang nhiên này, giáo dân đã xô xát rồi bắt giữ những kẻ lạ mặt và mới khám phá ra đó chính là công an nhưng sau đó đã thả họ ra. Đây là hành vi hết sức sai trái và xâm phạm tự do tôn giáo của nhân viên công lực. - Xét rằng vào ngày 27-06-2013, hai giáo dân Mỹ Yên đã bị công an và cảnh sát chặn giữa đường, bắt cóc theo kiểu bọn khủng bố, chẳng có lý do và không thông báo ngay cho thân nhân. Đó là ông Ngô Văn Khởi bị 5 công an bịt mặt bắt khi đi đám cưới người cháu về; còn ông Nguyễn Văn Hải bị bắt đang khi chở cháu bé đi khám bệnh. Một tuần sau, gia đình mới nhận được giấy bắt với lý do hai ông này gây rối trật tự. Đây là hành vi vi phạm trầm trọng Luật Tố tụng Hình sự (Điều 80, 84, 85) đồng thời là sự vu khống trắng trợn (nhằm trả thù dân) của Công an cộng sản. - Xét rằng vào ngày 27-08-2013, khi giáo dân giáo xứ Mỹ Yên tập trung về trụ sở ủy ban nhân dân xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để đòi tự do cho hai giáo dân nói trên, nhà cầm quyền có hứa miệng là sẽ thả họ 4 ngày sau đó. Thế nhưng họ không thực hiện lời hứa, khiến hôm 03-09-2013, giáo dân lại tiếp tục đến trụ sở ủy ban để yêu cầu thả người, và ông chủ tịch xã đã viết giấy cam kết sẽ thả người trước 16 giờ ngày 04-09-2013. Thế nhưng, khi giáo dân đến đón 2 tù nhân vô tội thì đã bị hơn 500 công an, dân phòng, côn đồ… trang bị thuốc nổ, hơi cay, lựu đạn khói, chó nghiệp vụ xông vào tấn công. Nhiều người đã bị bắt về đồn. Ít nhất 30 người bị thương, trong đó có cả phụ nữ và thiếu niên, một số nạn nhân còn trong tình trạng nguy kịch tính mạng. Vài người được đưa đến bệnh viện công còn bị côngg an ngăn cản y bác sĩ cứu giúp. Ngoài ra, rất nhiều quân nhân được trang bị súng ống đã bao vây giáo xứ Mỹ Yên, sẵn sàng nhả đạn; 500 công an khác chặn đường và đánh đập nhiều giáo dân thuộc các giáo xứ bạn đến tiếp cứu. Đây vừa là hành vi dối trá lật lọng, vừa là hành vi bạo lực trấn áp, vừa là hành vi tàn nhẫn ác độc của nhà cầm quyền Cộng sản Nghệ An và các lực lượng công cụ. - Xét rằng báo Nghệ An điện tử (baonghean.vn) trong thời gian gần đây đã có nhiều bài báo sai sự thật: “Nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật có tính hệ thống của một số đối tượng quá khích ở Nghi Phương, Nghi Lộc, Nghệ An”, “Đặt vấn đề Ông Nguyễn Thái Hợp đã làm tròn trách nhiệm và bổn phận?”, “Đoàn kết không có nghĩa là đồng lõa, bênh vực cho những sai phạm”, để phối hợp với nhà cầm quyền trong chiến dịch đánh hội đồng giáo dân Mỹ Yên và vị Giám mục cai quản giáo phận, nghĩa là đánh toàn bộ giáo dân giáo phận Vinh, bằng những kiểu trình bày gian trá, lý luận ngụy biện và phê phán sai lạc nhằm đầu độc công luận. Đây là sự gian dối tráo trở và là sự đồng lõa chà đạp pháp luật của các kênh thông tin nhà nước, cụ thể tại Nghệ An. Các chức sắc tôn giáo tại Việt Nam tuyên bố: - Chân thành hiệp thông đồng cảm với Đức Giám mục và toàn thể Giáo phận Vinh, nhất là với các nạn nhân vô tội trong vụ việc kéo dài từ 22-05-2013 tới nay. Xin chung lòng hợp trí với Thư Chung ngày 06-09-2013 của Đức Giám mục để cầu nguyện cho hai tù nhân và các nạn nhân của bạo lực sớm tai qua nạn khỏi, cho giáo phận Vinh được bình yên, cho nhà cầm quyền biết sử dụng quyền bính để phục vụ công ích, biết tôn trọng phẩm giá người dân và tôn trọng niềm tin tôn giáo. - Cực lực phản đối nhà cầm quyền tỉnh Nghệ An đã không có thiện chí giải quyết vụ việc ngay từ đầu, lại còn rắp tâm trả thù giáo dân kiểu hèn hạ bằng cách bắt cóc người. Đến khi nhân dân tụ tập đòi công lý thì giả cam kết để đánh úp họ bằng tất cả bạo lực và dối trá của những công cụ lẽ ra phải phục vụ nhân quần xã hội. Điều này thêm một lần nữa củng cố danh ngôn ô nhục: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhìn những gì Cộng sản làm”. Chớ biến câu này thành bia miệng ngàn năm. - Mạnh mẽ nhắc nhở nhà cầm quyền và các lực lượng công an, quân đội rằng: mọi tội ác chống lại con người không sớm thì muộn sẽ phải bị truy tố trước tòa án của nhân dân, của quốc tế, của lịch sử (chưa kể của Các Đấng Thiêng liêng). Lúc đó, theo quy định quốc tế và từ kinh nghiệm các chế độ độc tài bị lật đổ, những kẻ ra lệnh và những kẻ thừa hành đều phải chịu chung trách nhiệm, không thể đổ lỗi cho nhau. - Thiết tha kêu gọi Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như các Chính phủ dân chủ, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan truyền thông hoàn vũ tiếp tục phơi bày tội ác của Cộng sản, áp lực đủ cách lên nhà cầm quyền Việt Nam và bày tỏ lòng hiệp thông hữu hiệu với những dân lành vô tội. Làm tại Việt Nam, ngày 10.09.2013 CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO VIỆT NAM Đồng ký tên - Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593) - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820) - Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân, Cao Đài giáo (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng, Cao Đài giáo (đt: 0988.477.719) - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Tin Lành (đt: 0949.275.827) - Mục sư Hồ Hữu Hoàng, Tin Lành (đt: 0902.761.057) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Tin Lành (đt: 0906.342.908) - Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082) - Ông Trần Nguyên Hưởn, PGHH (đt: 0167.341.0139) - Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn, Tin Lành (đt: 0162.838. 7716) Nguồn: VRNs
......

Ls Lê Quốc Quân và Tôi

Anh Quân và tôi chưa từng gặp nhau, chưa từng nói chuyện điện thoại, email hay những phương tiện liên lạc khác, nhưng anh đã để lại trong tôi sự kính trọng, yêu mến và nể phục. Suy nghĩ của anh sâu sắc, tinh thần thì can đảm giám dấn thân, đấu tranh cho “công lý, toàn vẹn lãnh thổ và nhân quyền của người Việt Nam”. 13.09 sinh nhật LS Lê Quốc Quân trong  lao tù Tôi và anh Lê Quốc Quân là hai thế hệ khác nhau, anh hơn tôi nhiều tuổi và sống ở hai vùng miền khác nhau. Tôi lần đầu tiên nghe tên anh vào năm 2008 liên quan đến sự kiện đấu tranh đòi lại đất Tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Thông qua những gì tôi lĩnh hội, và tìm hiểu qua những bài viết được đăng trên Blog của anh, tôi đã hiểu nhiều hơn nữa về con người, lý tưởng của anh. Tôi muốn được chia sẻ một vài suy nghĩ, cảm xúc về con người mang tên Giuse Lê Quốc Quân, trước khi nhà nước Việt Nam mở phiên toà hài kịch, ghán ghép tội danh ‘kinh tế’, để xử anh. 1. Cuộc sống Gia Đình: Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công Giáo, có nền tảng đức tin, đạo hạnh, anh đã quan tâm và nhiệt thành đấu tranh cho công lý, công bằng xã hội. Là một Luật sư, có bằng cấp Thạc sĩ kinh tế loại giỏi nên việc tìm ‘Vinh Hoa - Phú Quý’ cho bản thân và gia đình anh là chuyện dể dàng. Nhưng anh lại không màng ‘danh-lợi’ riêng tư. Ngược lại, anh dấn thân đấu tranh cho Công Lý & Hòa Bình - Nhân Quyền & Dân Tộc. Anh sẳn sàng chấp nhận hy sinh kể cả cảnh tù tội. Anh biết rất rõ, nhà cầm quyền độc tài đảng trị Việt Nam xem anh là thành phần nguy hiểm cho chế độ, cần phải bị tiêu diệt. 2. Mở mang kiến thức: Mong muốn xã hội VN phát triển về tình con người, khơi dậy tính hiếu học của người Việt và lo cho thế hệ trẻ tương lai của đất nước, anh đã bỏ công sức và của cải kết hợp, kêu gọi những cá nhân và tổ chức quan tâm đến tương lai Dân Tộc Việt. Anh đã triển khai mô hình “Tủ Sách” đầu tiên cho những vùng khó khăn, xa xôi, hẻo lánh. Tính tới thời điểm này, tôi biết là đã triển khai được khoảng 29 địa điểm thuộc các tỉnh phía Bắc Việt Nam. 3. Công lý - Hòa bình: Là thành viên quan trọng trong Ủy Ban Công Lý - Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Là người am hiểu luật pháp, yêu chuộng công lý và sự thật, anh cổ xuý cho các giá trị nhân bản và đấu tranh cho quyền sống, làm người của nhân dân Việt Nam. Những thao thức của anh đã được anh trình bày trong các bài tham luận, với những luận chứng “Công Lý” bị giết chết trong hệ thống Pháp Luật Việt Nam hiện nay được đăng tải trên trang Blog của anh. Anh đã phải chứng kiến liên tục hình ảnh người dân Việt Nam phải sống trong cảnh “Một Cổ 2 Tròng”, “Chân lý thuộc về kẻ mạnh” hay nói dân dã hơn “lấy thịt đè người, cá lớn nuốt cá bé….”. của xã hội Việt Nam và tình trạng đó ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. 4. Nhân quyền & Dân tộc: Ls Lê Quốc Quân là người bảo vệ “Nhân Quyền”, là người sẵn sàng “hy sinh cho Dân tộc”? Đứng trước thực trạng quyền làm người bị xâm hại trắng trọn, tư tưởng coi mạng người như “cỏ rác” trong hệ thống luật pháp của VN, nhưng kẻ cầm quyền đã nhào nặn ra những thứ luật pháp chỉ phục vụ riêng cho quyền lực của họ, phục vụ lợi ích riêng của họ mà không màng tới nhân mạng của người khác. Ls Lê Quốc Quân đã can đảm giám góp ý, giám nói lên sự thật những hành động phi nhân tính đó của nhà cầm quyền VN. Nhưng bù lại phần thưởng của nhà cầm quyền dành cho anh là gì? Là những lần khủng bố, sách nhiễu, đe dọa, bắt giam và bị “côn đồ đỏ” tấn công… Trong những thập niên gần đây, chủ quyền Dân tộc không ngừng bị đe dọa, “người anh trai tốt của ĐCSVN” là "Hán Cộng" không ngừng xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải của Tổ Quốc Việt Nam trên cả hai phương diện “Vừa Đấm Vừa Đàm”. Ls Lê Quốc Quân lên án hành động “hèn với giặc ác với dân, coi giặc là anh em” của nhà cầm quyền VN. Trong những lần tuần hành biểu tình chống Trung Quốc xâm lược cùng với những người yêu nước, anh và mọi người bị đàn áp dã man bởi những người mang danh là “Chính Quyền”, nhưng ngọn lửa yêu nước, yêu Dân tộc trong anh không hề tắt mà còn bùng cháy mạnh hơn, kể cả lúc này anh đang bị giam trong ngục tối, nhưng tinh thần yêu dân tộc, yêu đất nước của anh vẫn thiêu đốt tâm can của anh thể hiện qua bài thơ “ Hỏa Lò Vọng Sóng Biển Đông” anh vừa mới viết và gởi ra từ trại giam Hỏa Lò, Hà Nội mấy hôm vừa qua. Nhà cầm quyền CSVN có thể giam được thân thể anh, nhưng không thể giam nổi ý chí của anh, họ có thể giam anh không cho đi tuần hành chống Trung Cộng, nhưng không thể giam nổi lòng yêu nước của anh. Trước ngày anh bị đưa ra xét xử về tội “trốn thuế”, những câu hỏi về sự việc của anh cứ vẫn vơ trong tâm trí tôi. Theo như lời anh Lê Quốc Quyết em trai của Ls Lê Quốc Quân (người có chứng cớ về thuế của công ty anh Quân) thì công ty anh Quân là một trong những công ty xuất sắc trong việc đóng thuế cho nhà nước, không những xuất sắc mà còn đóng dư trước cho nhà nước là 172 triệu. Trước những hồ sơ, chứng cớ của cơ quan thuế rõ ràng như vậy thì việc kết án trốn thuế chỉ mang tính lý cớ bắt giam và hạ uy tín của anh. Đây là âm mưu đê tiện của nhà cầm quyền Việt Nam. Nhưng qua những bản lên tiếng của các chính phủ, tổ chức đoàn thể quốc tế, những buổi thắp nến cầu nguyện liên tục tại các nhà thờ trong thời gian vừa qua, âm mưu thâm độc của nhà cầm quyền đã bị phản tác dụng. Còn rất nhiều và rất nhiều việc mà anh đã làm mà tôi chưa liệt kê hết, nhưng tôi điểm qua những gì mà tôi cảm nhận được thì anh là người tôi rất khâm phục và kính trọng. Kính trọng vì anh là người “Chính nghĩa”, giám nói giám làm. Khâm phục vì anh là người “Can Đảm” biết con đường phía trước là “Chông và Gai”, “Sỏi và Đá” mà anh vẫn “ Hiên Ngang Tiến Bước” để tạo con đường cho cho thế hệ trẻ như chúng tôi và cho cả tương lai của Dân Tộc Việt Nam. “Tôi muốn làm con Ruồi Trâu đốt vào mông đít Xã hội để nó nhảy lên phía trước” đó là câu châm ngôn trên Blog của anh Nguyện xin Thiên Chúa ban bình an xuống trên anh và đại gia đình anh trong tương lai, đặc biệt là những ngày tới đây. Như lời chúa dạy “Sự Thật Sẽ Giải Phóng Anh Em”. Nguồn: thanhnienconggiao.blogspot.com
......

Lễ cầu nguyện cho tù nhân lương tâm tại Hamburg

Một buổi lễ cầu nguyện cho Tù Nhân Lương Tâm được tổ chức vào lúc 13:30 giờ hôm nay ngày 08.09.2013 tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời Mariä Himmelfahrt ở quận Rahlstedt, Hamburg, thể theo ước nguyện của những người tù nhân yêu nước do anh Nguyễn Xuân Anh, một trong 17 thanh niên Công Giáo và Tin Lành vừa mãn hạn tù sau hai năm tù oan sai, mang ra từ nhà tù. Linh mục Vincent Maria Phạm Cao Quý Linh mục Vincent Maria Phạm Cao Quý đã dâng lễ cầu nguyện, tuy không phải là Thánh Lễ như mong ước của ban tổ chức, nhưng không kém phần nghiêm trang, súc tích và cảm động. Lễ cầu nguyện cũng đã hướng về Syria theo lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng. Trong bài giảng, cha Quý đã nhắc đến sự kiện nóng bỏng từ Mỹ Yên, Nghệ An, nơi 30 giáo dân tay không đã bị côn an đánh trọng thương phải vào bệnh viện điều trị. Cha đã không quên cầu nguyện hiệp thông với giáo xứ đang bị bách hại nặng nề bởi nhà cầm quyền địa phương này. Cha Quý cũng trích một phần lá thư chung của Đức Giám Mục Nguyễn Thái Hợp đã lên án hành động đàn áp bằng bạo lực đối với giáo dân một cách bất nhân, dã man. Điểm đặc biệt hôm nay là có nối Skype với Nguyễn Xuân Anh và hai thân nhân khác của những TNYNước. 3 người đã nhìn thấy quang cảnh buổi lễ và được nghe trực tiếp lời giới thiệu của nhóm "Bạn của Đặng Xuân Diệu, lời giảng, các bài thánh ca, lời Chúa, ... 3 thanh niên này cũng đã thay mặt gia đình để đọc 5 lời nguyện của 5 gia đình Nguyễn Xuân Anh, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đình Cương, Đậu Văn Dương và Trần Hữu Đức. Một mạnh thường quân hỗ trợ một gia đình thanh niên Công Giáo đã skype tại chỗ với người mình giúp đỡ. Cuối buổi lễ, Nguyễn Xuân Anh đã lên tiếng cám ơn cha Phạm Cao Quý, các giáo dân và người dự lễ đã tổ chức buổi lễ rất có ý nghĩa đối với người trong nước. Nói chung, buổi lễ đã thành công. Trừ vài lúc âm thanh nghe không được rõ, cha Quý và mọi tham dự viên đã tỏ ra mãn nguyện với buổi lễ. Một số cụ cao niên trước khi về đã đến bắt tay cám ơn ban tổ chức đã cho họ cơ hội tham dự một buổi lễ có ý nghĩa và cảm động. Xin mời xem một số hình ảnh của buổi lễ:        
......

Hãy cứ đi con đường gian truân

Tình hình đảng CSVN giống như con bệnh ung thư chờ ngày chết. Đìều này không phải là một mơ ước viển vông, chủ quan nói theo người Mỹ là “wishful thinking”; mà nó dựa vào những nguyên tắc có tính qui luật và các diễn tiến cụ thể, đã từng xảy ra trong quá khứ theo một tiến trình lịch sử rất tự nhiên. Vì vậy, nếu có xảy ra cho đảng CSVN thì đó là tiến trình bình thường, nếu không xảy ra mới là bất bình thường.   Cuộc cách mạng ở Đông Âu kéo đổ hàng loạt các chế độ cộng sản. Chính sách cải tổ của cựu Tổng Bí thư đảng CS Liên Xô, ông Gorbachev đã tác động vào tiến trình cách mạng không những ở Liên Bang Sô Viết mà ngay cả các nước cộng sản anh em. Mặc dù bản thân ông Gorbachev đã tìm mọi cách để ngăn chận ảnh hưởng của trào lưu dân chủ nhưng quá trể. Cơn cuồng phong của cách mạng đã giựt xụp chủ nghĩa Cộng sản, một chủ nghĩa man rợ mà tội ác đã được 46 Quốc gia Âu Châu thông qua Nghị Quyết 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng hóa với tội ác chống lại nhân loại. Thí dụ, điều 2, trong Nghị Quyết xác nhận: “…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ 20 và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn cầm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền.…”. Điều 3….” Nhân danh chủ trương đấu tranh giai cấp và nguyên tắc chuyên chính vô sản mà các tội ác được biện minh…..Hầu hết nạn nhân chế độ cộng sản chính là công dân của nước đó…”. Và điều 9….” Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…” Bối cảnh lịch sử như vậy, nên chế độ độc đảng CSVN đang bị thử thách hàng ngày là điểu hiển nhiên. Trong lúc đó, nền kinh tế “chỉ đạo quốc doanh” gặm nhấm tài sản đất nước và là môi trường tốt để nuôi dưỡng tham nhũng. Các nhóm kinh tế lợi ích, bám vào đặc quyền chính trị và đặc lợi kinh tế, đang ngày đêm đục khoét và bòn rút của công, đưa ra những chính sách kinh tế đầu voi đuôi chuột, mà hệ quả là viễn ảnh của sụp đổ kinh tế là điều khó có thể tránh khỏi. Hệ thống độc đảng CSVN cai trị từ những năm 1945 tại miền Bắc và 1975 tại miền Nam đã chứng tỏ bản chất “bất khiển dụng”. Cả một guồng máy độc tài vận hành theo quán tính, cai trị đất nước theo kiểu “Leninist-Stalinist”, chỉ biết chuyên chính với nhân dân, mà chế độ coi là kẻ thù. Hệ quả là những tiếng nói đối kháng đều bị trù dập, mọi nổ lực chính trị để đưa đất nước thoát ra khỏi qủy đạo độc tài, độc đảng đều thất bại vì sự đàn áp tàn bạo của chế độ. Để có một con số cụ thể, chỉ trong vòng 3 năm, từ 2010 -2013, đảng CSVN đã tuyên án gần 1000 năm tù cho các chiến sĩ dân chủ Việt Nam. Khi đưa những danh sách tù nhân và chứng liệu cho giới chức Hành Pháp và Lập Pháp Hoa kỳ, họ choáng và không thể ngờ là đảng CSVN đã phạm tội ác, đã gieo rắc nghiệp báo lên chính dân tộc Việt Nam như vậy. Và điều này, ngay cả những quan chức Cộng sản, những người đã ban hành những bản án hét ra lửa trong suốt ba năm qua, cũng có thể đã không đo lường hết được tội ác của họ. Tuy nhiên, thời kỳ đảng CSVN làm mưa làm gió trên vũ đài chính trị chắc sẽ đếm từng ngày. Giống như con bệnh đang nằm chờ chết, mọi nỗ lực, tham vọng níu kéo đều không thể làm chủ được tình hình. Bối cảnh đấu tranh ở thế kỷ 21 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nỗ lực cách mạng được nuôi dưỡng và hình thành. Gần đây, những tiếng nói mạnh mẽ của tuổi trẻ Việt Nam, cụ thể là giới viết blog đã công khai đối đầu, vượt lên trên nỗi sợ hãi và tính thụ động, đi tiên phong trong những nỗ lực đấu tranh. Đây là những nỗ lực rất đáng khích lệ, cần được nuôi dưỡng và ủng hộ bằng tất cả mọi phương tiện. Cũng vậy, sự kiện kêu gọi thành lập đảng đối lập tại Việt Nam của ông Lê Hiếu Đằng là một mũi nhọn về mặt chính trị đang làm chế độ độc tài lo sợ. Chỉ cần nhìn vào lượng các tờ báo đảng công kích, các bài viết đánh đổ lời kêu gọi bỏ đảng CSVN để lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, thì chúng ta biết Hà Nội đang hoảng hốt cở nào. Lẽ ra việc kêu gọi và thành lập đảng đối lập nên diễn ra cách đây cả chục năm trước chứ không phải đợi đến hôm nay. Và không phải chỉ có một đảng đối lập Dân chủ Xã hội mà càng có nhiều đảng đối lập thành lập, nhiều tổ chức khác công khai hoạt động, thì tiến trình dân chủ mới có cơ may thành tựu. Sự kiện kêu gọi công khai thành lập đảng chính trị và hoạt động đối lập, bất chấp sự đàn áp của đảng CSVN nó xác nhận tính vô hiến của điều 4 Hiến Pháp. Hơn nữa, thái độ hoạt động đối lập công khai của các tổ chức chính trị, cũng thể hiện sự thách thức lại bản chất độc tài, toàn trị và đứng trên pháp luật, khi tự qui định ra điều 4, nhằm khẳng định vai trò độc tôn lãnh đạo của đảng CSVN. Tình thế hiện nay cũng cho thấy, một đảng đối lập hoạt động công khai có thể dễ cho nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp, nhưng nếu có nhiều đảng cùng thành lập, hoạt động, và cùng thách thức vai trò lãnh đạo của đảng CSVN, thì Hà Nội sẽ bị kẹt cứng, nếu đàn áp quá hung bạo, có thể tức nước vỡ bờ. Nhiều người e ngại việc Hà Nội cố tình tạo ra các tiếng nói đối lập cuội để kéo dài tuổi thọ của đảng CSVN. Tình thế chính trị và bối cảnh hiện nay không thuận lợi cho Hà nội để có thể tạo ra những quân bài cuội. Hà nội giống như nhà phù thủy muốn tìm cách tạo ra những “âm binh”, nhưng quá yếu nên sợ không khả năng làm chủ được “âm binh”, và không khéo thì lại bị chính “âm binh” quật ngược. Phù thủy Hà Nội đã không còn phép thần thông để điều khiển âm binh như vài chục năm trước. Đồng thời, ở thế kỷ tin học, những âm binh “cuội” không đủ khả năng và điều kiện để có thể lôi cuốn và lừa bịp quần chúng, đánh đòn ảo về chính trị để bênh vực chế độ tham nhũng, độc tài đảng trị. Nếu có, “âm binh” cũng sẽ bị nhân dân lột mặt nạ và trở thành vô dụng. Trong không khí chính trị bất thường, “phản đảng và phản tỉnh” hiện nay, không khéo thì “âm binh” lại trở thành “phản binh”, thì đảng CSVN mất cả chì lẫn chài, nguy hại khôn lường cho chế độ. Điều này chưa nói đến khả năng “lộng giả thành chân” và hệ quả của “phản ứng dây chuyền” mà sự thành hình của đảng cuội, tạo hứng khởi và cơ hội cho nhiều đảng đối lập thực sự thành hình. Thí dụ, nếu giả sử có đảng cuội nằm xen kẽ trong các đảng đối lập thật, tình thế này cũng sẽ tạo ra bối cảnh chính trị rối rắm mà Hà Nội không thể kiểm soát. Liệu Hà Nội có đủ mạnh để đàn áp hết các đảng đối lập, cuội lẫn thiệt không? Liệu sức ép của quan hệ kinh tế và chính trị quốc tế có cho phép Hà nội muốn làm gì thì làm không? Liệu tình thế chính trị có thuận lợi cho Hà Nội dám đánh những ván bài nguy hiểm, dám phiêu lưu chính trị, tự mình thách thức lại chính điều 4 Hiến Pháp, có thể làm nguy hại cho sự tồn vong của chế độ không? Tóm lại, nghi ngờ và cẩn trọng là sự cần thiết, nhưng không vì vậy mà cứ trông gà hoá cuốc, và làm hỏng ngay những nỗ lực cần thiết và cần nuôi dưỡng trong bối cảnh đấu tranh hiện nay. Mèo trắng hay mèo đen gì cũng bắt được chuột, thì tại sao lại cứ phải phân biệt Mèo cộng sản phản tỉnh hay Mèo dân chủ để tự làm suy yếu mình trong khả năng cùng đấu tranh, nhằm dẹp bỏ con chuột cộng sản. Thời gian qua, kinh nghiệm cho thấy là muốn triệt hạ, cô lập và làm suy yếu đối kháng, Hà Nội có hai cách để tiến hành. Hoặc là chụp cho các nhà dân chủ, các tổ chức đối lập một cái mũ “cộng sản”, mũ “cuội”, hoặc là gán cho họ là tay sai, có liên hệ, nhận tiền, nhận chỉ đạo, là ngoại vi của các tổ chức chính trị ở hải ngoại. Có nhiều người, vì ngây thơ hay hữu ý cũng sẵn sàng ném đá, vô tình tiếp tay với an ninh CSVN và dư luận viên để cô lập, vô hiệu hoá mọi nỗ lực đấu tranh. Vài năm trước, chúng tôi cũng từng là nạn nhân của ném đá, nghi ngờ, bị chụp mũ và gán ghép “cuội’. Giờ này thì nhiều đảng viên lãnh đạo của Đảng Dân chủ Nhân dân (DCND) đã thi hành xong các bản án tù về tội “tuyên truyền chống chế độ”, nhưng thực sự là đã dám lập “Đảng đối lập”, dám thách thức bản chất của điều 4 Hiến Pháp. Những người ném đá chúng tôi hiện nay vẫn còn sống, có người là nhà bình luận ở Nam California, có người là nhà thơ chống Cộng nổi tiếng. Điều nghịch lý là họ vẫn an toàn, vẫn tiếp tục làm công việc ném đá của họ vào những người khác một cách nhiệt tình. Và chúng tôi, có người thì vẫn còn tiếp tục ngồi tù, có người vẫn tiếp tục đi con đường gian truân của mình. © Đỗ Thành Công Nguồn: danchimviet.info
......

Giấc Mơ Việt Nam

Nhạc sĩ Trần Tiến có một bài nhạc viết về đời sống của dân tộc Raglai và cây đàn chapi rất dễ thương. Ông bảo ở cái miền đồi núi ấy không có mùa đông, không có nắng mưa, chỉ có một mùa yêu nhau. Ở nơi ấy có đàn dê trắng nhởn nhơ, có mái nhà sàn, dù ai nghèo lắm cũng có cây đàn chapi. Và ai yêu tự do, yêu rừng xanh thì lên núi mà nghe người Raglai gảy đàn. Nhạc sĩ Trần Tiến gọi tên ca khúc này là “Giấc mơ chapi”. Nhạc sĩ Trần Tiến Ai nghe bài hát này mà không muốn được sống như người Raglai, không muốn được mơ giấc mơ chapi !? Có lẽ cuộc đời thường không như là mộng, nên con người ngủ thường hay nằm mơ và hay kể về giấc mơ của mình. Tuy nhiên, các khoa học gia lại bảo động vật cũng nằm mơ và đặc biệt là loài chim cũng ngủ mơ. Có những giấc mơ của con người đã làm biến đổi cả lịch sử thế giới, như giấc mơ của Hán Minh Đế đã giúp Phật giáo được truyền vào Trung Quốc. Và Hoàng đế Constantinus I Đại Đế đã giúp cho Ki-tô giáo được phát triển ở La Mã cũng chỉ sau một giấc mơ. Nhưng đó là giấc mơ của những vị Đại đế đầy quyền năng, đối với người bình thường, thực hiện giấc mơ của riêng mình còn dễ đạt được, thực hiện giấc mơ cho tha nhân thường có cái giá không nhỏ. Ngày 28 tháng 8 vừa qua, Tổng thống Obama và dân Mỹ đã làm lễ tưởng niệm 50 năm ngày mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn bất hủ “Tôi có một giấc mơ”. Bài diễn văn lịch sử này đã trở thành động lực cho sự ra đời của nhiều điều luật nhân quyền sau này. Martin Luther King Hôm đó đúng vào ngày 28/8/63 giữa một đám đông gồm 250 ngàn người đổ về từ khắp nơi, Martin Luther King đã đọc lời diễn từ: “Rồi có một ngày trên những ngọn đồi đất đỏ của Georgia, con của nô lệ và con của chủ nô sẽ ngồi lại cùng nhau bên bàn ăn của tình huynh đệ. rồi có một ngày vùng đất hoang mạc Mississippi, bức bối vì hơi nóng của bất công và áp bức, sẽ chuyển mình để trở thành ốc đảo của tự do và công bằng. Tôi đã mơ giấc mơ này…” Lúc đó Martin Luther King còn rất trẻ, ông bị ám sát vào ngày 4/4/68 khi đang đứng trên ban công của một khách sạn để chuẩn bị dẫn đầu một cuộc tuần hành. Ông bị bắn vào hàm, và một người bạn của ông có mặt lúc ấy đã thuật lại rằng, ông đã nói lời sau cùng với nhạc sĩ Ben Branch người được sắp xếp có màn trình diễn vào đêm hôm ấy: “Này Ben, hãy hứa với tôi là đêm nay anh sẽ chơi bài Take My Hand, Precios Lord và phải chơi thật hay.” Câu chuyện của vị mục sư trẻ vào những giây phút cuối đời và lời bài hát này làm tôi nhớ đến câu chuyện của cô bé gái 17 tuổi và người anh lớn vô tình cô được quen biết. Bài hát có những câu tôi nhớ loáng thoáng: khi bóng tối xuất hiện và đêm đến gần, khi ngày đã ra đi, đã trở thành quá khứ, hãy nắm lấy tay tôi, hãy hướng dẫn bàn chân tôi.              Anh hùng  Trần Văn Bá Cô bé đó tên là Yến và người anh lớn của cô là anh Lê Quốc Quân một chiến hữu của anh Trần Văn Bá. Khi cộng sản chiếm miền Nam, Yến đang là học sinh trường Gia Long. Cha và các anh trai của cô đều bị đi "tù cải tạo". Yến rất buồn, những giờ học chính trị của lớp, Yến chán nản thường hay trốn ra ngoài ngồi nhìn qua sân tennis. Ở đây cô được gặp anh Lê Quốc Quân, như một người anh, anh đã an ủi và hướng dẫn tinh thần cô. Đến bây giờ cô vẫn nhớ mãi câu nói của anh: “Em đừng lo, lúc này nước đang ở trong chai thì nó phải mang hình chai, rồi có lúc nước sẽ trở thành đại dương.” Ngày anh bị xử bắn cùng anh Trần Văn Bá, cô đạp xe vòng quanh thành phố trong mưa và mặc cho nước mắt rơi. Giờ đây, cô bé 17 tuổi vẫn mang theo giấc mơ của người anh lớn ngày nào, và cô hoạt động tích cực trong những công tác của cộng đồng. Những giấc mơ lớn luôn cần sự góp tay của rất nhiều người. Hoa Kỳ là một quốc gia đi đầu về những giá trị về tự do và nhân quyền. Nhưng để có được những giá trị đó ngày hôm nay, đã có rất nhiều người Mỹ chịu hy sinh cho những giá trị cao quý đó. Đến nỗi nhà thơ Allen Ginsberg đã phải kêu lên: “Nước Mỹ, tại sao tự do của ngươi lại tràn đầy nước mắt!” Cũng đúng vào cái ngày mục sư Martin Luther King đọc bài diễn văn “Tôi có một giấc mơ”, hai mươi bốn năm sau, ngày 28/08/87 đã có những người con Việt Nam âm thầm ngã xuống cho tự do của quê hương họ. Nơi những người Kháng chiến quân này nằm lại chỉ còn cách biên giới đất mẹ vào khoảng 20 cây số. Đó là Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và những chiến hữu của ông - những con người yêu nước hơn xa mạng sống của chính mình - trên con đường Đông Tiến.          Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh Đó là một mùa thu ảm đạm, đau thương nhất cho những người trong cuộc! Những người còn lại đã vuốt mắt cho các chiến hữu của họ bằng sự son sắt nối tiếp con đường gian nan. Chắc chắn đã có nhiều tiếng thở dài xen lẫn đắng cay nhưng con đường vẫn tiếp nối. Bởi chưa có con đường nào dẫn tới sự tươi đẹp cho cả một dân tộc lại được trải đầy hoa. Có nhiều người Mỹ gốc Việt đã tham dự ngày tưởng niệm Martin Luther King trong ngày ông đọc bài diễn văn “Tôi có một giấc mơ”, nhưng ít ai biết về giấc mơ của những người lính đã nằm lại nơi biên giới Thái Lan ngày hôm ấy. Anh Nguyễn Trọng Hùng, một chiến hữu sát cánh bên cạnh Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh đã viết về giấc mơ của anh trong một lá thư gởi về cho con: “Bố đi cứu nước và đợi ngày các con thành tài hồi hương kiến quốc. Có như thế bố con chúng mình mới kiêu hãnh ngẩng mặt dưới ánh sáng mặt trời nhận mình là giống dân Hồng Lạc.” Tôi yêu giấc mơ của Martin Luther King và tôi yêu giấc mơ của những người kháng chiến quân này. Những người tha thiết với giấc mơ của mình cho đến tận những giây phút cuối của cuộc đời! Ngay cả đến những giây phút cận kề với cái chết, Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh vẫn thiết tha yêu cuộc sống. Tôi còn nhớ ông đã viết một câu trong bút ký của ông khi còn là một thiếu uý trẻ: “chỉ có người lính mới không sợ chết, và cũng chính người lính mới biết sự sống đáng quý đến dường nào.” Xin được cúi đầu tạ ơn những người lính Việt Nam, những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Ngô Chí Dũng, Vũ Đình Khoa, Trương Ngọc Ni, Trần Hướng Việt… Các anh đã trao tặng cái quý giá nhất của mình để thực hiện cho bằng được giấc mơ của biết bao con dân Việt Nam. Tưởng nhớ đến các anh, chúng tôi xin nguyện cùng đồng hành, cùng chia chung ước mơ với các anh Điếu Cày, Vi Đức Hồi, Lê Quốc Quân, Trần Vũ Anh Bình, Việt Khang, Nguyên Kha, Phương Uyên, 17 thanh niên yêu nước... và rất nhiều anh chị em khác đang cọ xát với gian nan và hiểm nguy bên ngoài song sắt của lao tù. Tạ ơn các anh. Xin các anh yên nghỉ. Giấc mơ Việt Nam đang được thực hiện bởi rất nhiều, rất nhiều những người trẻ hôm nay. GHI CHÚ: Lễ Tưởng Niệm Cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Anh Hùng Đông Tiến vào Chủ Nhật 8-9-2013, từ 10:30 giờ sáng đến 2 giờ trưa tại Westminster Rose Center, 14140 All American Way, Westminster, CA 92683. Nguồn: http://vietbao.com
......

Thêm những nghi vấn về Hồ Chí Minh

BTV Dân Luận: Nghi vấn ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay người Đài Loan như tác giả Xích Tử đề cập trong bài viết, vốn đã được đề cập bàn tán mổ xẻ khá nhiều trong thời gian vừa qua, tôi (HG) đã có dịp trò chuyện trao đổi với một nhà văn nổi tiếng (xin được phép không nêu tên ở đây) mà bản thân ông và những thành viên trong gia đình đã từng có những sinh hoạt khá gần gũi với ông Hồ, ông tỏ vẻ hoài nghi về giả thiết ông Hồ là người Đài Loan như tác giả cuốn sách “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” nêu ra. Tuy nhiên, một tác giả có uy tín khác mà mới đây tôi có dịp tiếp xúc thì lại tỏ ra rất quan tâm tới giả thuyết trên vì ông cho rằng, nếu nghi án của ông Hồ Tuấn Hùng được chứng minh thì sẽ làm sáng tỏ được rất nhiều điều tưởng chừng như là "vô lý" được thể hiện qua cách hành xử, hay có trong một số tác phẩm của ông Hồ. Vì lẽ đó, bài viết của tác giả Xích Tử, tuy có nhiều nguồn thông tin chưa được kiểm chứng nhưng cũng xin được phổ biến tới bạn đọc để mọi người quan tâm cùng tham khảo.   Ông Phạm Quế Dương có bài viết trên danlambaovn.blogspot.com “Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan”. Đây là vấn đề xôn xao hơn mười năm qua, khi xuất hiện công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Hồ Tuấn Hùng cùng một số bài viết rất công phu của Huỳnh Tâm được đăng trên trang blog nói trên. Với tiêu đề bài viết, ông Phạm muốn lãnh đạo Việt Nam làm rõ, tức là công khai thông tin hoặc thái độ về vấn đề này. Tuy nhiên, dù vậy, ông cũng thừa hiểu là không bao giờ có việc ấy. Do đó, mục đích chính của bài viết, theo chỗ tôi hiểu, là nêu vấn đề, tạo nên một nghi án để nghiên cứu, để lịch sử đừng bỏ qua. Là một người quan tâm đến mức bị ám ảnh câu chuyện, xin đưa ra một số chi tiết, giả thiết để những người cùng quan tâm tham khảo: 1. Ông Hồ Cẩm Đào, lúc còn tại vị, có lần khi nói về quan hệ Việt Trung, cho rằng mối quan hệ này còn nhiều bí mật, phải 50 năm nữa mới nói ra được. Trong hàm ý của ông, một trong những bí mật đó là Hồ Chí Minh. Thời gian 50 năm cũng trùng với thời gian mà Trung Quốc quyết tâm “thu hồi” Đài Loan. 2. Trong một tài liệu của Chương Thâu viết về Phan Bội Châu, có kể về việc năm 1905, trước khi xuất dương lần đầu để hoạt động yêu nước, Cụ Phan có tổ chức một buổi tối thơ rượu chia tay ở nhà mình. Trong buổi gặp mặt, có cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng 2 con trai; Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung lúc đó ở tuổi 14 – 16, hầu rượu. Như vậy, giữa Nguyễn Sinh Cung và cụ Phan có quan hệ thân tình của đồng hương và gia đình, và sau này, ở lý tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc. Trong những năm 1924, 1925, Nguyễn Ái Quốc gặp lại cụ Phan ở Trung Quốc, cùng chia sẻ một số hoạt động của tổ chức cách mạng. Nguyễn Ái Quốc gián tiếp tổ chức một số cuộc gặp giữa cụ Phan với M. M. Borodine, đại diện của Liên Xô tại Trung Hoa Dân Quốc. Sau cuộc gặp ấy, tuy không tin được vào “người Nga xảo quyệt ấy” như cụ đã viết trong “Tự phán”, song có lúc cụ định ngả sang phía cộng sản. Cụ Phan tỏ ra rất quí Nguyễn Ái Quốc. Ngày 14/2/1925, cụ có viết cho Nguyễn một bức thư với nội dung thể hiện sự quí trọng và quan hệ khăng khít này “Nhớ lại hai mươi năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gò án ngâm thơ, anh em cháu đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem so kẻ gì này với cháu thì bác thất rất xấu hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, chỉ sợ không được thấy ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một đời tân khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác gánh vác trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cảm thấy vui mừng được. Bác đang định tìm một dịp tốt về Quảng Đông một chuyến để đàm luận với cháu, không biết cháu còn ở lại Quảng Đông lâu mau, hoặc giả trong tương lai có định đi chỗ khác không? Trong lòng bác có nhiều chuyện muốn hỏi ý kiến cháu, nhưng không gặp mặt thì làm sao có thể bàn cho hết ý được? Làm sao được? Nếu không coi già yếu là đồ bỏ thì cháu viết thư nhiều cho bác, bác thành thật yêu cầu cháu đấy. Cần nhắc lại là Phan Bội Châu lúc rời nước đã gần bốn mươi (ba mươi chín tuổi đến Nhật) lại không thể tránh khỏi những trách nhiệm này nọ đặng chuyên chú học hành, cho nên tri thức lúc bấy giờ cũng vẫn như xưa. Cháu học vấn rộng rãi, và từng đi nhiều nơi, hơn bác cả chục cả trăm lần. Tri thức và kế hoạch của cháu vượt sức đo lường của bác; không biết cháu có thể chia sẻ cùng bác một hai việc? Bác rất hết sức mong đợi, mong cháu không ngại. Vì nếu không có kế hoạch thì bất quá chỉ làm những khách tha hương than thở không đâu cho hồn cố quốc, chả giống ông Hy Mã thì cũng giống Phan Bội Châu mà thôi! “ ( ) Một số tài liệu ghi lại những hợp tác hoạt động giữa cụ Phan và Nguyễn Ái Quốc trong khoảng thời gian 1924 – 1925 bằng sự chuyển tiếp giữa nhóm Tâm Tâm Xã và Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Tuy nhiên, giữa hai người vẫn tồn tại khoảng cách, vẫn giữ bí mật về hành tung và từ đó tồn tại nghi vấn về việc Nguyễn Ái Quốc tham gia việc tổ chức bán cụ Phan cho Pháp. Điều lạ nhất là từ ngày cụ Phan bị bắt (30/6/1925) đến khi cụ mất (29/12/1940) và cho đến cả 2/9/1969, cả Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không có một dòng nào về người bác, người đồng chí vong niên và đồng hương vĩ đại này. Đây là thái độ của một người hay hai người? 3. Có chuyện kể rằng người chị của Nguyễn Sinh Cung – Hồ Chí Minh có ra thăm em sau khi cách mạng thành công. Chuyến thăm chỉ diễn ra trong một đêm, tức là từ chiều hôm trước và đến sáng hôm sau thì được tổ chức về quê ngay. Chuyện kể chỉ nói lại là khi thấy mặt “em trai”, bà Thanh xác nhận đó chính là “cậu ấy”. Câu nhận xét đó chỉ là truyền khẩu và không biết tác giả của nó là ai. 4. Tài liệu sau này thống kê là cứ khoảng 5- 6 ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một chuyến đi thăm cơ sở trong suốt đời làm Chủ tịch nước. Tuy nhiên, trong 9 năm kháng chiến, cụ không thể được sắp xếp để về thăm quê. Hòa bình lập lại 3 năm, cho đến năm 1957, cụ mới về quê lần đầu tiên, với sự chuẩn bị rất chu đáo. Đó là một chuyện lạ. Và thêm 2 chi tiết đáng chú ý : 1) Khi đi vào nhà cũ, cụ khéo léo nhường các cụ bô lão đi trước (có thể để dấu việc đi nhầm) và, 2) Cụ chọn thời gian về là mùa lạnh, nên ăn mặc rất kín đáo (hãy xem kỹ các tấm ảnh tư liệu). Hồ Chí Minh cả đời cũng không nói đến việc họ hàng, giỗ kỵ; khi ông anh cả (nếu đúng) mất, cụ cũng “vì việc nước” không về dự được. 5. Việc Hồ Chí Minh viết trong Di chúc, nguyện vọng được hỏa táng để lấy tro rắc lên các miền đất nước, không loại trừ khả năng phi tang nhân dạng. Giai đoạn 1965 – 1968, tục hỏa táng hoàn toàn chưa có ở VNDCCH. 6. Trong các tài liệu đã công khai ở Đài Loan như đã nói, cho rằng Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, gốc Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, do Quốc tế cộng sản cài thay thế Nguyễn Ái Quốc. Một số tài liệu khác cho rằng Hồ Tập Chương gốc người Hakka, người Hẹ, sống ven biển đông nam Trung Quốc và Đài Loan. Ngoài chi tiết giống nhau là do Quốc tế cộng sản cài thay thế, được đào tạo 5 năm để “giống” Nguyễn Ái Quốc, kể cả thay đổi nhân dạng, tác giả Huỳnh Tâm trên danlambao còn cung cấp những chứng cứ Hồ Chí Minh – Hồ Tập Chương là người của tình báo Trung Quốc. Điều này còn liên quan một số chi tiết ở mục 7, 8 dưới đây. 7. Việc chị em Nông Thị Xuân bị giết, không loại trừ nguyên nhân những người này, do gần gũi, đã biết con người Hồ Chí Minh thật. Từ đó, cũng không loại trừ những người tham gia kịch bản tai nạn giao thông gây chết Nông Thị Xuân và người em gái của bà bị giết bí mật khi bỏ trốn về quê là người của tình báo Trung Quốc. 8. Việc Hồ Chí Minh từ chối liên lạc với bà Tăng Tuyết Minh có thể sợ bị lộ và không được phép của phía Trung Quốc vì bà Minh có quan hệ với Lý Thụy- Nguyễn Ái Quốc chứ không phải với Hồ Chí Minh. 9. Cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” được Trần Dân Tiên – Hồ Chí Minh viết lúc nào? Tôi cho rằng có thể nhiều người cùng tham gia viết, trong đó có Hồ Chí Minh; và cuốn sách đã được khởi thảo từ những năm 30 khi có một Hồ Tập Chương thực hiện công cuộc huấn luyện và tự huấn luyện để trở thành Nguyễn Ái Quốc. Trong giai đoạn “Nguyễn Ái Quốc” về nước, thành lập Việt Minh, tiến hành cướp chính quyền 1945, và sau đó kháng chiến chống Pháp, không thấy có tài liệu nào nói đến việc ông viết một cuốn sách tương tự. Bỗng dưng nó được xuất bản ở Trung Quốc năm 1948 (ông Phạm dẫn tài liệu của Sophie Quinn-Judge nói năm 1949), rồi ở Pháp năm 1950 và đến 1958, lần đầu mới xuất bản ở VNDCCH. Theo ý trên, tôi nghĩ rằng cuốn sách có thể bắt đầu từ Moskva, sau đó hoàn chỉnh và xuất bản ở Trung Quốc, với sự tham gia dàn dựng của Quốc tế cộng sản và Đảng CSTQ. 10. Việc Trung Quốc nhường cho Việt Nam đảo Bạch Long Vĩ kèm theo cả tàu thủy để ra vào trong khi vẫn kiên trì bành trướng xuống Đông Nam Á có khi cũng là vì Hồ Chí Minh, trong đó có cả khả năng giải thoát cho ông bằng đường biển trong trường hợp có biến động. 11. Có một nữ điệp viên CIA gốc Việt, tác giả của cuốn hồi ký Nghìn Giọt Lệ Rơi, là con của một cán bộ cao cấp trong Đảng CSVN, người miền nam tập kết ra bắc, kể rằng sau 1978, bà có đến Trung Quốc và được gặp Hoàng Văn Hoan. Trong câu chuyện, ông này cũng nói rằng về lịch sử cách mạng Việt Nam, quan hệ Việt Trung, quan hệ giữa ông với Hồ Chí Minh, còn nhiều việc chưa thể nói được. Cần ghi nhận những bí mật đó. Mặt khác, từ những chi tiết này, có thể nghi ngờ về sự liên hệ của nhiều lãnh đạo cao cấp của Việt Nam với tình báo Trung Quốc. Có thể bố của nữ điệp viên nói trên, ông Hoan, những người tiền bối của ông Hoan là như vậy; còn nữ điệp viên này, phải bắt tay hoạt động song trùng với CIA, một phần là để giữ an toàn cho bố. 12. Có một số nghi vấn liên quan đến ngôn ngữ: - Giọng đọc tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được ghi lại năm 1945không phải là giọng Nghệ An. - Tự dạng bút lục của Nguyễn Ái Quốc so với Hồ Chí Minh rất khác (so sánh những đơn của Nguyễn Ái Quốc gửi Toàn Quyền Đông Dương xin phân công việc cho bố, đơn xin học trường thuộc địa với Di chúc) - Nguyễn Ái Quốc chưa bao giờ có ý cải cách chính tả tiếng Việt theo kiểu chuyển ph thành f; gi, d thành z. - Với trình độ chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc, không thể có quá nhiều lỗi chính tả tiếng Việt như trong bản thảo Di chúc. 13. Tất cả những nghi vấn nói trên và sự thật đàng sau nó, có thể Trường Chinh, và đặc biệt, Lê Duẩn, sau thời gian hoạt động trong giới Hoa kiều Chợ Lớn, đã biết. Thái độ xem thường, vô hiệu hóa của ông này với Hồ Chí Minh cho đến cuối đời thể hiện một động thái bất thường mà nhìn từ con mắt văn nghệ, chỉ có thể đặt câu hỏi như kiểu Sơn Tùng và “chuyện kể rằng...” của Trần Hoàn. Và v.v..Nếu tất cả những cái ấy được giải mật, được công khai, ngôi nhà “cách mạng” Việt Nam sẽ đổ sụp. Chính vì vậy mà phải tiếp tục kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chuyên chế độc quyền lãnh đạo, định hướng qụy lụy vào Trung Quốc để cam chịu số phận như một nghiệp chướng của dân tộc. Dù thế nào đi nữa, khi trình bày những nghi vấn này, quan sát kỹ những khuôn mặt nghiêm trang đến buồn thảm của các vị lãnh đạo vào Lăng viếng Chủ tịch dịp 2/9 năm nay, tôi thấy lại một lần, cũng rất buồn thảm cho đất nước. Xích Tử
......

VN sẽ cắt làm đôi nếu có sự cố hạt nhân

Thảm họa hạt nhân ở Fukhushima để lại hậu quả lâu dài cho Nhật Bản Việt Nam có thể sẽ bị chia cắt ra làm đôi, trong khi xuất khẩu, kinh tế bị tê liệt ngay tức khắc và toàn bộ dải đất miền Trung sẽ bị ô nhiễm phóng xạ bao trùm trong nhiều năm nếu xảy ra một thảm họa hạt nhân như vụ Tchernobyl hay Fukushima, theo cảnh báo của một chuyên gia điện hạt nhân từ Pháp. Trao đổi với BBC Việt ngữ hôm 05/9/2013 từ Paris, Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn chiến lược Tập đoàn Điện quốc gia Pháp (EDF) cũng cảnh báo Việt Nam có thể sẽ phung phí hàng chục, hàng trăm tỷ đô-la mà không đem lợi ích gì cho đất nước trong khi sẽ để lại cho hàng chục thế hệ con cháu nguồn chất thải phóng xạ mà theo ông 'ngàn đời vẫn còn nguy hiểm.' Cựu Giáo sư về điện và năng lượng hạt nhân ở Đại học Grenoble của Pháp đưa ra lời kêu gọi chính quyền Việt Nam khẩn trương tổ chức trưng cầu dân ý về các dự án phát triển điện hạt nhân và các lò phản ứng mà ông cho là quá tham vọng, lãng phí và đầy rủi ro trong khi Chính phủ cho rằng đây là lời giải cho khan hiếm năng lượng điện. Việt Nam đang trong lộ trình thực hiệnBấm Định hướng Quy hoạch phát triển điện hạt nhân giai đoạn đến năm 2030 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt hồi tháng 6/2010, theo đó 14 lò phản ứng hạt nhân được dự kiến bố trí chủ yếu ở miền Trung Việt Nam, gồm các tỉnh Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Hà Tĩnh, với các khoản kinh phí khổng lồ từ nguồn vốn ngân sách và vay nợ. Bình luận của Giáo sư Nhẫn, người có trên 30 năm nghiên cứu về điện hạt nhân, được đưa ra sau khi Ban quản lý điện hạt nhân Ninh Thuận cho truyền thông Việt Nam hay họ đã tổ chức tập huấn, tham quan một lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt cho hơn 15 đoàn đến từ Ninh Thuận để học tập kinh nghiệm, tìm hiểu năng lượng hạt nhân và an toàn phóng xạ. Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Việc tỉnh Ninh Thuận đưa các đoàn đi tham quan Lò phản ứng Đà Lạt, như báo Bấm Đất Việt đưa tin, có tính chất tuyên truyền nhiều hơn là để cho dân chúng hiểu rõ về mức độ nguy hiểm của phóng xạ. Lò nghiên cứu Đà Lạt (có công suất) 0,500 MW nhiệt, không nguy hiểm bằng lò Điện hạt nhân ở Ninh thuận 3000 MW nhiệt. BBC: Theo ông, Ninh Thuận đang đứng trước nguy cơ gì khi nhận đặt 2 nhà máy điện hạt nhân trên địa bàn tỉnh của mình? Ninh Thuận cũng như các tỉnh Quảng Ngải, Bình Định, Phú Yên, Hà Tĩnh đều sẽ gặp nguy cơ lớn nếu có biến cố xảy ra, vì theo chương trình Điện hạt nhân của Việt Nam, cả thảy 14 lò phản ứng (1000 MW đến 1500 MW điện) sẽ được xây cất ở 5 tỉnh miền Trung này từ 2014-30. Nguy cơ bất cứ năm tỉnh đó (gặp phải) là lúc có một tai biến xảy ra, như thảm họa Fukushima chẳng hạn, phóng xạ sẽ lan toàn tỉnh và xung quanh vùng miền Trung. Vì vậy, dân chúng phải di tản. Tôi không biết chính phủ làm thế nào để dân phòng chất thải phóng xạ rất nguy hiểm cho tính mạng. Môi trường sẽ bị ô nhiễm trầm trọng. 'Thao túng thông tin?' BBC:Theo ông người dân đã được hỏi ‎ ý kiến đầy đủ chưa, hay họ thiếu cung cấp thông tin hoặc bị thao túng? Theo tôi người dân không thể nào được hỏi ý kiến đầy đủ vì thiếu thì giờ và trình độ hiểu biết về hiện tượng vật lý và hạt nhân. Lẽ cố nhiên họ bị thao túng vì không được cung cấp thông tin chính xác và đầy đủ. BBC: Một nhà khoa học Việt Kiều từ châu Âu, Tiến sỹ Bấm Trần Đại Phúc từng được báo Hà Nội Mới trích ý kiến nói ở Việt Nam "từ nay đến năm 2050, không gì thay thế được năng lượng hạt nhân." Giáo sư bình luận gì về nhận định này? Nói rằng từ đây đến 2050, không gì thay thế được Điện hạt nhân thì hoàn toàn không đúng sự thật. Các nước trên thế giới, năm 2013, đã đầu tư 250 tỷ đô-la vào lĩnh vực năng lượng tái tạo nhất là điện gió và mặt trời. Đan Mạch đến 2050 sẽ sử dụng 100% điện mặt trời, Đức đang dẫn đầu về điện gió và điện mặt trời. Thử hói tại sao Đức đã hy sinh hàng trăm tỷ đô-la, can đảm từ bỏ điện hạt nhân năm 2022 tới? "Vì sự sống còn của đất nước, tôi thiết tha đề nghị Chính Phủ VN cấp tốc tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về chương trình Điện hạt nhân quá tham vọng, không kinh tế và vô cùng nguy hiểm cho đồng bào vô tội" GS Nguyễn Khắc Nhẫn (đứng) Các cuộc lobby (vận động hành lang) hạt nhân tuyên truyền 'láo', đề cao điện hạt nhân đã lỗi thời thay vì khuyến khích việc khai thác triệt để năng lượng tái tạo. Hiện nay ở Pháp và ở Âu Châu, điện gió trên đất liền đã cạnh tranh được với điện cổ điển và hạt nhân. BBC: Ý kiến chuyên gia nói các thảm họa hạt nhân từng biết đã xảy ra ở Ukraina, Mỹ, hay Nhật Bản đều xuất phát từ thiếu sót của con người, theo ông có khả năng nào con người sẽ kiểm soát được hết các sự cố? Tất cả các biến cố đã xảy ra như Tchernobyl, Three Miles Island và Fukushima đều do con người mà ra, do sai lầm, do thiếu trình độ. Những rủi ro ấy, không phải vì thiết bị hay thiết kế, những thảm họa xảy ra hoàn toàn là do con người. Lẽ cố nhiên, có sơ suất về trang bị, về thiết kế, nhưng vấn đề nhân sự là chính. Nếu Việt Nam chưa có đủ nhân tài, chưa có đủ chuyên gia, chưa đủ kỹ sư để xây cất, để khai thác, theo tôi, không nên làm điện hạt nhân, vô cùng nguy hiểm. 'Bàn tay nhóm lợi ích?' BBC: Ông có nghĩ là có nhóm lợi ích trong và ngoài nước nào đã thao túng quyết định đặt "bằng được" các dự án hạt nhân ở Ninh Thuận? Có vấn đề gì từ những người buôn bán lò phản ứng cho Việt Nam như từ Nhật, từ Nga? Ta có thể đặt câu hỏi vì lý do gì Việt Nam không chịu thay đổi chiến lược. Áp lực từ đâu đến? Vấn đề chính trị hay các tay buôn ngoại quốc lợi dụng chúng ta, một hai họ quyết tâm phải bán lò cho Viêt Nam mà sự thật là các lò phản ứng tồn kho. BBC: Có thể biết các công ty trung gian nào có vai trò quyết định trong việc móc nối mua bán lò phản ứng cho Việt Nam? Sự thật tôi không biết công ty ngoại quốc trung gian nào, ai có ảnh hưởng và quyền lợi lớn trong các lobby này, ai có cơ hội làm giàu trên đầu dân ta, bất kể sự nguy hiểm cho tính mạng con người. BBC: Ông tư vấn gì cho người dân và chính quyền Ninh Thuận hiện nay và có lời khuyên gì với Việt Nam trong vấn đề điện hạt nhân nói chung và các tỉnh khác có liên quan nói riêng, nhất là trong tình huống xảy ra sự cố? Nếu một thảm họa như Tchernobyl hay Fukushima xảy ra thì cả miền Trung sẽ bị phóng xạ bao trùm và đất nước ta sẽ bị chia đôi lâu dài, du lịch, xuất khẩu, kinh tế sẽ bị tê liệt trong chớp nhoáng. Ta sẽ phung phí hàng chục rồi hàng trăm tỷ đô-la mà không đem lợi ích gì cho đất nước. Ta sẽ để lại cho hàng chục thế hệ con cháu chất thải phóng xạ ngàn đời vẫn còn nguy hiểm. Vì sự sống còn của đất nước, tôi thiết tha đề nghị Chính Phủ Việt Nam nên cấp tốc tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về chương trình Điện hạt nhân quá tham vọng, không kinh tế và vô cùng nguy hiểm cho đồng bào vô tội. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese
......

Lương tâm dân Nhật về việc bán kỹ thuật điện hạt nhân cho Việt Nam

1. Lại rò rỉ nước nhiễm phóng xạ ở Fukushima Sau khi tai nạn nhà máy điện hạt nhân Fukushima xảy ra (11/03/2011) thì vùng biển ở tỉnh này cũng như các tỉnh lân cận bị nhiễm phóng xạ trên mức quy định nên ngư dân ở đó không hành nghề được. Tổng công ty điện lực Tokyo cũng như chính phủ Nhật đều cam kết sẽ dồn nỗ lực giải quyết vấn đề. Sau gần hai năm, mức độ nhiễm phóng xạ ở vùng biển Đông Bắc Nhật dần dần sạch phóng xạ và khi đến mức an toàn theo quy định thì ngư phủ ở tỉnh Ibaragi kế bên Fukushima bắt đầu hành nghề, nhưng cá đánh lên phải qua khâu kiểm phóng xạ mới được đem bán. Ngành Ngư nghiệp tỉnh Fukushima tuy còn phải chờ thêm một thời gian nữa, nhưng ai nấy đều đầy hy vọng vì mức độ nhiễm phóng xạ của nước biển ngày một giảm. Tuy chưa đánh cá được, nhưng với mức độ phóng xạ đo được trong nước biển vào ngày 26/06/2012, thì ngư dân có thể bắt đầu thả bào ngư xuống biển để nuôi (và chờ 4 năm sau thu hoạch). Ngư phủ ở Fukushima tái khởi nghiệp bằng việc thả xuống biển nuôi 2 vạn con bào ngư. Mọi chuyện đang tiến hành khá tốt đẹp thì vào giữa tháng 8/2013, nồng độ phóng xạ đo được trong nước biển ở Fukushima bỗng nhiên tăng lên đến mức báo động. Ai cũng biết tác nhân gây ra không ai khác hơn là nhà máy điện hạt nhân Fukushima nên dân chúng kéo đến hỏi cho ra lẽ. Lúc đầu Ban Giám đốc điều hành tổng công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) phủ nhận chuyện nước nhiễm phóng xạ chứa trong các bồn chứa lớn tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima rò rỉ ra biển, và chỉ hứa là sẽ gởi chuyên gia đến hiện trường kiểm chứng ngay. Tưởng nên nhắc lại là trong khi nhà máy điện hạt nhân Fukushima Dai ichi bị tai nạn sóng thần vào tháng 3/2011, giới thẩm quyền đã phải sử dụng một lượng lớn nước biển, chừng 300 ngàn tấn, để làm giảm nhiệt lò phản ứng. Lượng nước khổng lồ này sau đó được chứa trong khoảng 1000 bồn chứa lớn dựng ngay trong khuôn viên nhà máy. Thật ra TEPCO đã biết về hiện tượng rò rỉ từ tháng 7/2013. Theo các dữ kiện mới được tiết lộ thì vào khoảng thời gian đó, TEPCO đã phát hiện một số bồn chứa nước bị nghiêng do độ lún của mặt đất. Hậu quả là có một số nước nhiễm phóng xạ bị rò rỉ ra bên ngoài. TEPCO tuy đã tức tốc cho xây thêm một số bồn mới để chuyển số nước trong các bồn bị nghiêng đi. Tuy nhiên, nay họ vẫn bị phê phán là "vô trách nhiệm" vì đã không cho người đi kiểm tra toàn bộ 1000 bồn chứa, mà chỉ tìm cách bít lại tạm thời những bồn đã nghiêng quá rõ cho đến lúc xây thêm bồn mới. Tổng giám đốc TEPCO lại một lần nữa phải cúi đầu xin lỗi dân chúng và hứa sẽ tìm cách khắc phục. Bộ trưởng Kinh tế & Công nghiệp đã tức tốc bay đến hiện trường thị sát và chỉ thị cho các giới chức hữu trách phải tìm cách chận đứng tình trạng rò rỉ này ngay. Và tiền thuế của dân lại phải đổ thêm nữa vào cho nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Cùng lúc Ủy ban Quy chế Nguyên tử lực Nhật Bản gởi chuyên gia đến thẩm định nồng độ nhiễm phóng xạ của nước biển quanh vùng Fukushima. Kết quả được công bố là đã lên tới mức nguy hiểm cho con người — cấp 3 trong tổng số 7 cấp. Các chuyên gia quốc tế còn lo ngại rằng nếu nước nhiễm phóng xạ trong các bồn chứa rò rỉ thấm vào lòng đất rồi sau đó từ từ chảy ra biển thì không có cách nào ngăn chận lại được. Đó là chưa kể mối đe dọa của một cơn động đất khác làm nghiêng đổ hay tan vỡ các bồn chứa nước này. 2. Dân Nhật làm phim báo động và phản đối việc bán kỹ thuật điện hạt nhân cho VN Càng ngày, dân Nhật càng chán ngán các nhà máy nguyên tử, đặc biệt là các nhà máy gần bờ biển. Họ gọi đây là các "của nợ". Và chính trong tình cảnh chưa biết giải quyết các "của nợ" này thế nào - cứ bịt chỗ này lại thủng chỗ khác - mà ngày càng nhiều tổ chức NGO tại Nhật phản đối mạnh mẽ việc xuất cảng kỹ nghệ điện hạt nhân của Nhật sang Việt Nam. Đáng chú ý nhất gần đây là sự ra đời của cuốn phim Shinobiyoru Genpatsu, tạm dịch là Điện hạt nhân âm thầm đến của đạo diễn Nakai. (Xem xong cuốn phim thì ai cũng biết Điện hạt nhân đang âm thầm đến đâu). Cuốn phim được trình chiếu tại Liên hoan Điện ảnh Á châu ở Fukuoka vào tháng 7/2013 và đã thu hút sự chú ý của nhiều giới. Chủ điểm của phim là sự kiện chính phủ Nhật đang "xuất cảng những nguy hiểm và khổ đau của người dân Fukushima sang Việt Nam". Dù với trình độ kỹ thuật cao và đông đảo như lực lượng chuyên gia điện hạt nhân của Nhật, các hiểm họa vẫn quá lớn và vượt quá khả năng chống đỡ của trình độ công nghệ hiện nay. Hậu quả là cái giá kinh khủng cho dân chúng quanh các nhà máy điện hạt nhân, cho cả nước, và cho toàn vùng lân cận. Đoàn quay phim của đạo diễn Nakai đã sang Việt Nam phỏng vấn một số người dân tại Ninh Thuận, Phan Rang, nơi đang có kế hoạch xây 2 lò nguyên tử và cũng rất gần bờ biển. Ông Nakai muốn biết người dân Ninh Thuận nghĩ gì về điện hạt nhân để so sánh với người dân Fukushima. Các câu trả lời mang những ý chính sau đây: "Nghe nhà nước nói thiếu điện nên cần phải xây nhà máy phát điện hạt nhân"; "Nhà nước nói Nhật xây thì an toàn tuyệt đối"; "Nhà nước hứa sẽ đền bù thỏa đáng và sẽ cho công ăn việc làm tại nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận khi xây xong"; "Nhà nước đã ra lệnh giải tỏa mặt bằng thì chẳng ai dám phản đối"; .... Trong số những người được phỏng vấn, chỉ có một cụ già thuộc gia đình liệt sĩ nhất quyết không chịu di dời vì bảo rằng đây là đất đai của dòng họ để lại nên phải ở để gìn giữ. Đạo diễn Nakai cũng nhắc lại những công trình xây dựng của Nhật tại Việt Nam trong quá khứ đã bị rút ruột và để lại hậu quả nghiêm trọng như vụ xập cầu Cần Thơ, vụ hối lộ ông Huỳnh Ngọc Sĩ trong dự án đại lộ Đông Tây ở Sài Gòn, v.v... Từ những kinh nghiệm thực tế đó, cuốn phim kết luận với tình trạng tham nhũng như hiện nay, xây nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận là một việc làm quá nguy hiểm. Phản ứng đầu tiên của nhà cầm quyền Hà Nội sau khi phim Điện hạt nhân âm thầm đến ra mắt ở Fukuoka là cấm đạo diễn Nakai và những chuyên gia cộng tác với ông không được đến Việt Nam nữa. Hình hái nho ở Ninh Thuận trên bìa dĩa DVD có tên Shinobi Yoru Genpatsu, tức Điện hạt nhân âm thầm đến.Trong thời gian ngắn trước mặt, phim này sẽ có phụ đề Việt ngữ.
......

Nghệ An: Nhà cầm quyền đã nuốt lời hứa còn sai CA đàn áp dã man người dân

Liên quan đến việc giáo dân giáo xứ Mỹ Yên, xã Nghi Phương, Nghệ An đã tập trung trước trụ sở UBND xã để đòi giải quyết vụ bắt người trái phép. Và theo như lời hứa của nhà cầm quyền xã Nghi Phương, thì họ sẽ trả tự do cho 2 giáo dân Nguyễn Văn Hải và Ngô Văn khởi lúc 14h chiều ngày 04/09. Hai giáo dân này đang bị giam giử vì bị cáo buộc “Gây rối mất trật tự công cộng” Các giáo dân giáo xứ Mỹ Yên đã có mặt tại trụ sở UBND xã Nghi Phương để nhận người thân của họ. Tuy nhiên thay vì thả người như đã hứa, nhà cầm quyền xã Nghi Phương đã dùng một lực lượng CSGT, CSCĐ, chó nghiệp vụ, và đông đảo dân quân tự vệ để trấn áp người dân. Lực lượng công an, cảnh sát đã trực tiếp xả hơi cay và dùng dùi cui để đánh đập người dân, làm nhiều người bị thương trầm trọng. Đặc biệt, họ còn đánh đập trọng thương nhiều phụ nữ và cả trẻ em. Đã có rất nhiều người dân bị đánh và bắt lên xe thùng mang đi. Tin cho biết có hơn 20 người, trong đó có em học sinh lớp 12 Nguyễn Văn Được, bị chấn thương sọ não và đang cấp cứu tại Bệnh viện Xã Đoài. GM. Nguyễn Thái Hợp lên tiếng vụ Mỹ Yên Mặc Lâm, biên tập viên RFA 2013-09-05 Công an bao vây, dùng côn đồ tấn công giáo dân thuộc xứ Mỹ Yên, Huyện Nghi Lộc, Nghệ An đã bước sang ngày thứ ba. Hàng chục giáo dân bị thương nặng và ít nhất 4 người có thương tích trầm trọng đã được cấp cứu tại Phòng khám Đa khoa Tòa Giám Mục Vinh. Mặc Lâm phỏng vấn Giám mục Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa Bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng là Giám mục chính tòa của Địa phận Vinh nơi đang xảy ra những vụ đàn áp thô bạo này. Mặc Lâm: Xin Đức cha cho biết hiện tình của các giáo dân đang đựơc chữa trị tại Phòng khám của Giáo phận cũng như giải pháp nào mà Giáo phận Vinh sẽ đưa ra về việc công an tiếp tục đàn áp giáo dân một cách thô bạo trong những ngày vừa qua? GM. Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi sẽ có những phản đối và cũng có những lá thư cho giáo dân để phản đối quyết liệt hành động bạo lực đó. Gíao hội chúng tôi chủ trương đối thoại, không chủ trương dùng bạo lực. Tuy nhiên chúng tôi vẫn can đảm để bênh vực cho những nạn nhân, những người bị đàn áp; Những nạn nhân của bạo quyền cũng như là của thế lực mà dùng quyền lực của mình để đàn áp dân đen. Mặc Lâm: Thưa Đức cha, cho tới giờ phút này, dĩ nhiên là giáo phận đã có những lên tiếng cụ thể rồi nhưng về phía chính quyền thì họ có phản hồi nào hay nói chuyện với giáo phận chưa, thưa Đức cha? GM. Nguyễn Thái Hợp: Hành động của họ như là tạm cắt đứt đối thoại, đó là hành động mà chúng tôi không thể chấp nhận. Như vậy có lẽ trong vụ kiện vừa rồi, nhiều giáo dân bị tổn thương về thể lý. Có 3 người bị nặng nhất: một em 18 tuổi, học sinh bị tụ máu não, có thể phải đi mổ một thời gian. Gia đình họ đang muốn đưa đi Sài Gòn hay ra Hà Nội. Hai người nữa cũng bị não, sọ não. Những vết tích chứng tỏ là công an đã dùng bạo lực một cách thô bạo để đánh phá những người dân thường đến vì tin vào lời của nhà cầm quyền sẽ có giải pháp. Trước 4 giờ họ đến có sự ngụy tạo, dàn cảnh để dẫn người dân vào. Một số người đã lấy đá và ném công an. Những người đó, theo giáo dân cho biết thì không phải là người công giáo. Họ nhìn ra thì không phải mà hình như là có một nhóm nào đó được gài vào để ném, để tạo cơ hội cho công an trấn áp giáo dân. Đó là điều mà chúng tôi thấy. Mặc Lâm: Thưa Đức cha, như Đức cha vừa nói là chính quyền đã cắt đứt đối thoại với giáo phận Vinh, vậy Đức cha có được thông tin gì về Hội đồng Gíam mục Việt Nam trước sự việc xảy ra cho giáo phận Vinh hay không, thưa cha? GM. Nguyễn Thái Hợp: Các giám mục vẫn hợp thông và rất hiểu hoàn cảnh này nhưng đây là những chuyện nhỏ thì mỗi giám mục cũng có thể giải quyết được, không cần đến Hội đồng Giám mục. Hôm qua  các Đức cha đến thì rất băn khoăn và cảm thông về những gì mà giáo phận Vinh đang phải trải qua. Mặc Lâm: Vâng con xin được hỏi Đức cha một câu cuối là trước hiện tình như vậy thì Đức cha có thấy một hướng nào đó để giải quyết một cách ổn thỏa: vừa giữ an toàn cho giáo dân và chính quyền bớt đi những chuyện đàn áp. Có một giải pháp nào hiện nay mà Đức cha cho rằng có thể giải quyết được tình trạng này hay không ạ? GM. Nguyễn Thái Hợp: Chúng tôi tin là một xã hội càng ngày càng văn minh hơn; Một xã hội càng ngày càng tôn trọng quyền con người hơn; Một xã hội mang tính cách pháp trị hơn; Một xã hội dùng đối thoại chứ không dùng đối thủ hay dùng dùi cui để đàn áp và để đánh đập những con người bị thương tích như vậy. Bài học rút ra trong vụ việc này thì tất cả những người bị thương là giáo dân của công giáo, bị thương nặng. Bây giờ có 4 người bị thương nặng và có 15-16 người bị thương vẫn còn đang nằm điều trị. Gíáo dân bị nỗi đau thể lý, nỗi thất vọng đối với nhà cầm quyền hôm nay. Không hiểu câu nói “Công an là bạn dân” trong hoàn cảnh này thì công an có là bạn dân không. Trong thời gian ít lâu nay chúng ta thấy hành động của công an là quá bạo tàn đối với người dân không chỉ ở đây mà nhiều chuyện đã xảy ra. Con đường mà mọi người mong đợi là đi đến một nhà nước pháp trị, một nhà nước dân chủ, một nhà nước đối thoại, một nhà nước văn minh nhân ái, có lẽ đang bị giật lùi chăng. Tôi thấy hình ảnh của nhà nước bị mất, bị thiệt hại chứ không phải nỗi đau về thể xác của một số nạn nhân đó. Mặc Lâm: Xin cảm ơn Đức cha. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bishop-raise-voice-beaten-b-polic... Thông cáo của Tòa Giám mục Xã Đoài về việc chính quyền Nghệ An tổ chức dùng vũ lực trấn áp giáo dân 05.09.2013 GPVO - "Tòa Giám mục Xã Đoài cực lực lên án việc chính quyền tỉnh Nghệ An dùng bạo lực đàn áp quần chúng nhân dân, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng của người dân, xúc phạm niềm tin tôn giáo. Chúng tôi mạnh mẽ phản đối việc chính quyền không tôn trọng sự thật trong vụ việc ngày 22/5/2013, xuyên tạc và phủ nhận thiện chí đối thoại của Tòa Giám mục giáo phận Vinh trong việc bênh vực quyền lợi người dân, bảo vệ công lý xã hội... Tòa Giám mục Xã Đoài khẩn thiết kêu gọi mọi tín hữu giáo phận Vinh và những người yêu chuộng hòa bình hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân của vụ đàn áp này và lên tiếng bênh vực cho công lý."
......

Trần Trung Đạo: Bài thơ cho Đỗ Thị Minh Hạnh

Em ra đời Mười năm sau cuộc chiến Bom đạn đã thôi rơi, sao tiếng khóc chưa ngừng Câu hát hòa bình, sao nước mắt rưng rưng Từng đoàn người vẫn lần lượt ra đi Xuống biển, lên non, băng rừng, vượt suối Tự do ! tự do ! Dù đổi bằng mạng sống Dù phải chết ở quê người hơn ở lại quê hương. Tuổi thơ em Được nuôi bằng những giọt tình thương Mẹ vắt ra từ bầu sữa cạn Bằng giọt mồ hôi cha trong sớm chiều lận đận Cõng cuộc đời trên chiếc lưng cong. Những nỗi nhọc nhằn đã làm em khôn lớn thêm nhanh Để biết thương yêu đồng bào lao động Để biết lắng nghe tiếng thở dài của núi sông và lời thì thầm của tình yêu mơ mộng Để biết mỉm cười trong cả lúc khổ đau. Đất nước mình không có hôm nay Nếu hai ngàn năm trước không có bà Trưng, bà Triệu Và sẽ tiếp tục sống trong độc tài nô lệ Nếu không có những người con gái như em Dòng sông dài và phiến đá chông chênh Nhưng nếu tất cả đều co ro, sợ hãi Nếu tất cả đều đứng nhìn, e ngại Dân tộc này rồi sẽ ra sao? Em bước vào tù khi tuổi mới hai mươi Tuổi đẹp nhất của thời con gái Bên ngoài trại giam, mùa xuân đang qua và không trở lại Nhưng trong trái tim em, xuân mãi mãi không tàn Hạnh phúc của em là hạnh phúc của dân oan Của những con người không có quyền được nói Niềm vui của em là niềm vui của đàn em thơ mới lớn Của những mái đầu bị xóa mất màu xanh. Đảng xô em vào vũng bùn đen lọc lừa, giả dối, gian manh Em lọc ra những giọt nước ngọt ngào, tinh khiết Đảng trồng trong nhận thức em cây hận thù chém giết Em chăm sóc cây để trổ trái tình người Đảng đốt cuộc đời em bằng ngọn lửa bạo tàn rực đỏ khắp nơi Em thổi tắt để thành nguồn sưởi ấm Đảng biến em làm con sâu đo uốn mình quanh bốn vòng cửa cấm Em thoát thân thành cánh bướm vàng. Hôm nay Lịch sử đang chờ em để bước sang trang Dân tộc vịn vai em để đi cùng nhân loại Những người chết đang bắt đầu sống lại Những người đi đang lần lượt quay về. Giữa quê người còn một bài thơ Viết cho em bằng những dòng hy vọng Đừng gục xuống, đừng than thân trách phận Hãy mỉm cười như một chuyến đi xa Mẹ sẽ chờ em dù năm tháng trôi qua Sông núi chờ em trong ngày hội lớn. Những uất hận ngày nào chảy theo dòng sông Hát Đang trở thành những lớp phù sa. Trần Trung Đạo Nguồn: trantrungdao.com
......

Canh tân cứu nước

Đã 3 lần quyết định từ bỏ facebook nhưng rốt cuộc vẫn quay lại, nói lời mà không giữ lấy lời, liệu có còn ai tin tưởng nữa không ? Một lần mất tin là vạn lần mất tín. Hằng ngày phải chứng kiến những bất công và trái ngang trong xã hội nên không thể nào im lặng được. Những người ở xung quanh họ vẫn lặng lẽ sống như không có chuyện gì, sao họ giỏi thế ? Hay là cứ ngậm miệng mà sống như họ ? Cách đây hơn một tuần, Thùy Linh cùng mẹ ra chợ mua thịt heo. Ở quầy thịt có chia làm hai loại, trong đó có một loại màu sẫm, lấy ngón tay ấn vào thì để lại nguyên hình dấu ngón tay. Nhìn qua ai cũng biết đó là thịt từ ngày hôm qua, thế mà vẫn có nhiều người mua. Thấy một chị còn mặc nguyên bộ đồ bảo hộ lao động lại mua loại thịt ấy, hỏi tại sao chị lại mua loại đó thì chị cười và trả lời: "Vì nó rẻ hơn em à !" Mới sáng hôm qua đi ăn bún bò Huế với em trai ở gần nhà, có một bà cụ bước vào quán. Trong lúc ông khách đang lựa vé số, bà cụ cứ nhìn chằm chằm vào tô bún và nuốt nước miếng liên tục. Đoán bà chưa ăn sáng nên có nhã ý mời bà một tô, vì hôm nay có tiền rủng rỉnh trong túi. Tuy nhiên bà cụ nhanh chóng từ chối và bước vội ra khỏi quán, thế là một thoáng sơ ý đã làm bà cụ buồn. Mọi người trong quán vẫn cặm cụi ăn, chẳng ai để ý gì cả... Rõ ràng khoảng cách giàu nghèo đang ngày một tăng và người nghèo luôn phải chịu thiệt thòi đủ thứ, nhất là về chất lượng bữa ăn, y tế, giáo dục và các quyền lợi xã hội. Trong xã hội Việt Nam, nơi mà "đầu tiên - tiền đâu ?" thì điều này càng được thể hiện rõ nét. Thuở còn nhỏ đi học nghe thầy cô giảng về sự ưu việt của CNXH so với CNTB, cứ đinh ninh rằng việc phân biệt giàu nghèo và thói vô cảm trước những người nghèo khổ chỉ tồn tại ở các nước tư bản. Nhưng lớn lên mới thấy ở Việt Nam cũng chẳng khác gì, thậm chí còn tồi tệ hơn nhiều. Bởi vậy nên mỗi khi lên internet đọc những comment của các bạn, rằng cuộc sống ở Việt Nam đang rất tốt đẹp và công bằng mà cảm thấy ức chế. Có thể gia đình các bạn có điều kiện nên các bạn không cảm nhận được cuộc sống khó khăn của những người nghèo vốn chiếm phần đông trong xã hội này. Dù cố ý hay vô tình thì các bạn cũng đang thể hiện sự yếu kém của mình về mặt ý thức cộng đồng và xã hội. Mà ở nước ta, chẳng phải chỉ có người nghèo mới phải đối mặt với những nguy hiểm đâu, những người giàu có cũng vậy, điển hình là nạn trộm cướp và thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ ngày nghe tin người ta dùng hóa chất để tẩy trắng bún, mỗi lần đi ăn là cứ thấy lo sợ, nên phải giảm tối đa. Bây giờ ăn uống thứ gì cũng có cảm giác không yên tâm cho dù là mua ở trong siêu thị. Con người có hai thứ tài sản quan trọng nhất đó là sức khỏe và trí tuệ. Về sức khỏe, việc ăn uống thiếu dinh dưỡng và sử dụng thường xuyên các loại thức ăn độc hại, điều kiện về y tế và chăm sóc sức khỏe thì vừa thiếu lại vừa yếu. Xét về mặt lâu dài sẽ ảnh hưởng tới thể chất của người Việt, mà vấn đề dễ thấy nhất là bệnh tật ngày càng nhiều và chiều cao của thanh niên Việt Nam không được cải thiện là bao sau nhiều năm qua. Nhìn cái cách người ta quan tâm đến ngành thể dục thể thao nhất là trong các trường học mà thấy buồn. Còn về giáo dục thì vừa lạc hậu lại vừa mang nặng bệnh thành tích. Nói chung một nền giáo dục mang đậm chất XHCN đã làm cho nhân dân ta bị "lùn" về trí tuệ, làm giảm khả năng sáng tạo của con người. Một đất nước có hàng ngàn giáo sư tiến sĩ nhưng lâu lâu chỉ thấy báo đưa tin "hai lúa chế tạo máy bay", "hai lúa chế tạo tàu ngầm". Còn nhớ cách đây không lâu các nhà khoa học hàng đầu ở nước ta họp lên rồi họp xuống về hạt lúa 3000 năm vẫn nảy mầm. Nhưng sau khi đưa qua Nhật Bản thì họ bảo đó chỉ là hạt lúa khang dân bình thường. Các vị giáo sư tiến sĩ ở Hà Nội tổ chức rầm rộ các cuộc họp, tìm giải pháp cứu cụ rùa Hồ Gươm, cứ như người Việt Nam yêu động vật lắm. Trong khi người dân bị đánh chết chỉ vì ăn trộm mấy con chó thì chẳng ai quan tâm. Vậy nên cho dù bây giờ có một chính đảng mới lên lãnh đạo và quy tụ được rất nhiều nhân tài của đất nước thì ít nhất cũng phải mất thêm 20 năm nữa đất nước mới thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển như hiện nay. Với trình độ dân trí thấp như vậy thì cho dù lãnh đạo tài giỏi đến mấy cũng bó tay. Cho nên sau khi có một sự thay đổi mạnh mẽ trong chính trị, việc đầu tiên phải làm là cải cách toàn diện nền giáo dục và đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học. ĐCS tin rằng ổn định về chính trị là điều kiện cần và đủ để phát triển kinh tế nhưng thực sự họ đã nhầm. Ổn định về chính trị chỉ là điều kiện cần mà thôi. Thùy Linh tin rằng nếu tình trạng này kéo dài thêm 10 năm nữa, Việt Nam sẽ bị Lào và Cambodia vượt mặt. Lúc đó đất nước chúng ta sẽ sánh vai với Triều Tiên như mong ước của những kẻ đang âm thầm tìm cách bán nước cho Trung Quốc. Nguồn: Bloger Nguyễn Thùy Linh
......

Không trung thực trong điều 4 Hiến pháp

Lời thưa,   Khi bắt đầu viết, bài này có tựa Đảng Cộng Sản Việt Nam Với Lợi Ích Dân Tộc Việt Nam. Mới gõ phím được hơn trang, người viết được đọc bài Uẩn Khúc Trong Điều 4 Hiến Pháp, thấy giáo sư Hoàng Xuân Phú đã soi rọi rất tinh tế, chính xác xảo thuật ngôn từ mà những người soạn thảo HP (Hiến pháp) đã sử dụng giúp ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt Nam) không bị ràng buộc vào bất kì điều nào của HP để ĐCSVN điềm nhiên đứng ngoài và đứng trên HP.   Bài viết của tôi, tập trung chỉ ra điều 4 HP ghi: ĐCSVN... đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam là hoàn toàn không đúng sự thật. Trong lịch sử hoạt động, ĐCSVN luôn luôn thí bỏ lợi ích dân tộc thiết thực để theo đuổi lợi ích giai cấp hư vô của đảng. Bài viết của giáo sư Hoàng Xuân Phú chỉ ra sự khuất tất trong xảo thuật ngôn từ của điều 4 và trong toàn HP. Bài viết của tôi chỉ ra sự thiếu trung thực của điều 4 HP. Hai bài là hai vế đối về sự bất minh của điều 4 HP. Vì thế tôi thấy cần thay đổi tựa bài để là một vế song hành về ý tứ với bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú. Điều 4 Dự thảo Hiến pháp 2013 viết: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Viết gọn lại là: Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Một đảng chính trị của chính trường Việt Nam mà coi thường và khinh bỉ Nhân Dân Việt Nam đến mức nghiễm nhiên giành quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không cần có lá phiếu của người Dân, không cần biết người Dân Việt Nam có chấp thuận sự lãnh đạo đó hay không, không đếm xỉa đến quyền lợi hiển nhiên, sơ đẳng, bình thường và thiết thực của người Dân là quyền Công Dân, quyền bầu cử chọn ra người lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đối xử với Dân kẻ cả, quyền uy và tệ bạc như vậy mà lại bảo rằng đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam thì đúng là viết lấy được, nói lấy được, một lối nói, một cách làm của quyền uy độc tài, quen thói áp đặt! Thực tế đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng đảng không những không vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà đảng còn hi sinh lợi ích dân tộc Việt Nam cho lợi ích của đảng, cho những mục tiêu viển vông, siêu thực của đảng, cho cuộc cách mạng vô sản thế giới hão huyền, chỉ đẩy Dân vào chiến tranh hận thù, chỉ lấy Dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô! 1. Đưa dân tộc Việt nam vào con đường máu lửa. Dân tộc Việt Nam đã phải trả giá máu quá đắt cho sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam Khi đất nước Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược là khi thế giới đã bước vào thời công nghiệp hóa. Những nước đi đầu trong công nghiệp hóa trở nên giàu mạnh, văn minh liền mang sức mạnh công nghiệp đi xâm lược các nước còn đang tăm tối trong nền sản xuất nông nghiệp cổ lỗ. Công nghiệp hóa là thời của toàn cầu. Mọi vấn đề của thế giới, của con người, từ cuộc sống của mỗi con người đến số phận các dân tộc đều mang tính toàn cầu. Các sĩ phu Việt Nam yêu nước chỉ quanh quẩn trong nước, sử dụng lực lượng tại chỗ, lòng yêu nước chỉ được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác đứng lên khởi nghĩa chống Pháp đều đơn độc, lẻ loi và cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dìm trong máu. Những người Việt Nam yêu nước từ thế hệ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu đều đã biết hướng ra thế giới tìm kiếm, học hỏi thế giới, nắm bắt xu thế thời đại, khai thác sức mạnh thời đại vào sự nghiệp cứu nước.     Chỉ biết còn đảng còn mình. Đi ra thế giới tìm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam, với trái tim yêu nước nồng nàn và tầm nhìn thấu đáo, sâu xa, Phan Châu Trinh thấy trước hết phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”: Thức tỉnh ý thức tự lập, tự cường, chấn hưng đất nước. Lập phường hội phát triển công thương, phát huy nghề tinh. Tiếp nhận công nghệ mới, bước theo các nước công nghiệp, công nghiệp hóa, tư bản hóa xã hội Việt Nam. Dân giàu nước mới mạnh, số đông người Dân giàu có về đời sống văn hóa và đời sống kinh tế, từ đó mới có ý thức về quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc, có tư thế bình đẳng và có lực lượng cần thiết đấu tranh chính trị và chỉ đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc. Con đường Phan Châu Trinh đã chọn cho dân tộc Việt Nam cũng là con đường Mahatma Gandhi đã chọn cho dân tộc Ấn Độ và Ấn Độ đã giành được độc lập dân tộc không phải trải qua cuộc chiến tranh đẫm máu với đế quốc Anh. Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản. Và dân tộc Việt Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa và chứa chất hận thù đến tận hôm nay vẫn chưa thôi bạo lực, chưa trút bỏ hận thù! Đi ra thế giới, những người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam. Đọc luận cương của V. Lê nin về cách mạng bạo lực và hận thù của vô sản thế giới, Hồ Chí Minh, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, sung sướng đến ứa nước mắt reo lên: Đây rồi! Đây chính là cái mà chúng ta cần! Từ đây, dân tộc Việt Nam chỉ có thể tồn tại bằng yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” bị cuốn vào thời bạo lực và hận thù giai cấp, “lá rách” đấu tố, thù hận “lá lành”, loại bỏ “lá lành”, dân tộc bị chia rẽ sâu sắc, bị suy yếu rệu rã và bị lệ thuộc chặt chẽ vào nước lớn cùng ý thức hệ! Phan Châu Trinh làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng những cải cách nâng tầm đất nước, nâng tầm dân tộc, đưa đất nước đi vào con đường công nghiệp hóa làm cho Dân giầu nước mạnh và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải dựa vào những người Dân giàu có trí tuệ, giàu có của cải đó. Nhưng cách mạng vô sản thì ngược lại. Coi làm giàu là bóc lột, là bất công xã hội, đứng về phía những người nghèo khổ bị bóc lột, cách mạng vô sản đưa giai cấp công nông, giai cấp nghèo khổ, không có của cải, không có tri thức, chỉ có xiềng xích và hai bàn tay trắng lên lãnh đạo cách mạng, coi người giàu tri thức và giàu của cải đều là kẻ thù của cách mạng, là đối tượng cần chuyên chính, loại bỏ! Đó là một thảm họa lớn kéo dài mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam và biến động bi thảm tháng chín năm 1930, những người Cộng sản phát động Dân nghèo Nghệ Tĩnh nổi dậy chém giết trí, phú, địa, hào, “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là một cảnh báo nghiêm khắc. Sau gần một thế kỉ bị thực dân Pháp đô hộ, gần một thế kỉ nước mất, thân nô lệ, những tâm hồn Việt Nam chân chính đang khao khát cháy bỏng giải phóng dân tộc. Những người Cộng sản Việt Nam giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã khai thác, tập hợp được sức mạnh dân tộc Việt Nam làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi những đội quân xâm lược hùng mạnh của thời đại. Chiến thắng những đội quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản, không phải là chiến thắng của học thuyết hận thù, đấu tranh giai cấp. Giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã thu hút được một số quan lại, trí thức, tư sản, chủ đất..., những người thuộc giai cấp tư sản với lòng yêu nước hồn nhiên đã tập hợp trong đội ngũ những người kháng chiến giành độc lập. Nhưng lí tưởng Cộng sản, học thuyết đấu tranh bạo lực, hận thù giai cấp đã đẩy số đông người Việt Nam yêu nước tỉnh táo, sáng suốt, không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản sang phía kẻ thù không đội trời chung. Ngay cả với những trí thức, tư sản, những trí tuệ và tài năng ở tầng lớp trên đi với những người Cộng sản, có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng bị những người Cộng sản ngộ độc học thuyết đấu tranh giai cấp, đố kị, khinh rẻ, bạc đãi, đày ải điêu đứng. Những thân phận ngậm ngùi, ê chề, đau khổ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,... vì sự đố kị, bạc đãi, đày ải đó không phải là cá biệt. Chủ nghĩa Cộng sản với học thuyết bạo lực, hận thù, đấu tranh giai cấp đã gây quá nhiều đau khổ cho nhiều thế hệ, cho hàng triệu người Việt Nam yêu nước thương nòi, gây chia rẽ, li tán sâu sắc cả dân tộc Việt Nam. Cộng sản đấu tố...con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng Chiến thắng bằng bạo lực và hận thù của những người Cộng sản đã buộc dân tộc Việt Nam phải trả bằng giá máu và giá đạo lí quá đắt: Giá phải trả bằng máu của cả chục triệu người, gần một phần ba dân số Việt Nam phơi thây ngoài mặt trận, chết gục trong đấu tố, chết thảm trên pháp trường, chết mòn trong tù ngục, chết mất xác trong thủ tiêu âm thầm! Xã nào, huyện nào tỉnh nào cũng có những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông, trắng xóa những nấm mồ người chết trẻ, tuổi mười tám, đôi mươi. Rồi còn những người chết trong thù hận không nấm mồ, không dấu tích cũng nhiều không kém, tính không xuể! Hãy đến nghĩa trang liệt sĩ một xã như xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hãy đến nghĩa trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn để thấy bằng hình ảnh, bằng chứng cứ món nợ máu đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam lớn như thế nào, để thấy giá máu dân tộc Việt Nam đã phải trả lớn như thế nào khi đi trên con đường đấu tranh giành độc lập bằng bạo lực do những người Cộng sản lãnh đạo! Càng đau xót hơn khi người Dân phải trả giá máu đắt như vậy nhưng đất nước vẫn chưa có nền độc lập thật sự, đất đai biển trời không còn được nguyên vẹn và người Dân vẫn chưa thật sự có tự do, chưa được thực sự làm Người, vẫn mang ách nô lệ của một Nhà nước độc tài đảng trị! Giá của cuộc nội chiến tương tàn chia rẽ sâu sắc một dân tộc vốn chỉ có thể tồn tại bằng đoàn kết dân tộc, bằng yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách! Giá của đất nước gấm vóc bị 30 năm chiến tranh hiện đại, chiến tranh điện tử, chiến tranh siêu âm, chiến tranh bấm nút, chiến tranh hủy diệt tàn phá! Giá của văn hóa dân tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ. Nhà nước cướp đất của Dân bằng bạo lực cưỡng chế. Nhà nước trả lời những chính kiến khác biệt của người Dân bằng bạo lực công an, tòa án, nhà tù. Bỏ tù người Dân có chính kiến khác biệt bằng những tội danh hình sự áp đặt, giả tạo. Công an ngang nhiên đánh Dân, bắn Dân trên đường phố. Công an ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, tùy tiện bắt bớ Dân. Công an đánh chết Dân trong nhà tạm giam, trong trụ sở công an diễn ra hàng ngày ở khắp nơi trên cả nước. Nhà nước Cộng sản dùng bạo lực gây hận thù rộng khắp đất nước và gieo rắc hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam. Tất cả sử sách của đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều thú nhận rằng cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền của những người Cộng sản. Cướp là bất chính, là bạo lực. Một Nhà nước ra đời trong bạo lực, tồn tại bằng bạo lực không thể là Nhà nước lương thiện, tử tế! Nhà nước không lương thiện, tử tế tất yếu tạo ra xã hội không lương thiện, tử tế. Xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội như vậy, xã hội lừa đảo, bạo lực và hận thù! Bạo lực và hận thù biến con người thành con thú! Bạo lực và hận thù man rợ như xã hội thời hồng hoang chưa có luật pháp! 2. Vì lợi ích giai cấp hư vô từ bỏ lợi ích dân tộc thiết thực. Đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến tương tàn Năm 1954, phần lớn lực lượng của đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ. Cả hệ thống phòng thủ của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã bị vô hiệu, bị nhấn chìm trong biển lửa chiến tranh du kích. Binh đoàn chủ lực mạnh của Pháp ở miền Trung bị đánh tan tác ở đèo An Khê. Cả hệ thống đồn bốt của Pháp ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ đã tự tan rã từng mảng lớn. Hai phần ba lãnh thổ Việt Nam đã được giải phóng khỏi đội quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược chỉ còn giữ được những thành phố, thị xã ở đồng bằng nhưng phần lớn người Dân trong những thành phố, thị xã đó cũng là những người Việt Nam yêu nước, chống Pháp. Trong khi đội quân xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng giặc ngoại xâm. Nhưng những người Cộng sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ. Với ý thức hệ giai cấp, những người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới, coi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi đất nước, dân tộc chỉ là “tiểu cục” trong cái “đại cục” cách mạng vô sản thế giới. Ngạo ngược và hợm hĩnh đưa lá cờ búa liềm của chỉ một giai cấp, giai cấp công nông bần cùng, lá cờ vay mượn từ xứ người và chung chạ với xứ người lên ngang với lá cờ Tổ quốc Việt Nam, những người Cộng sản Việt Nam thẳng thừng tuyên bố rằng với họ, Tổ quốc Việt Nam không phải là trên hết! Vì lá cờ vay mượn và chung chạ đó, những người Cộng sản đã chuyển hướng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giai cấp. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang băng băng đi đến thắng lợi hoàn toàn bị buộc phải dừng lại để làm nhiệm vụ giai cấp. Đặt trên đôi vai dân tộc Việt Nam nghèo khổ, gày guộc cuộc chiến tranh ý thức hệ khốc liệt của cách mạng vô sản thế giới, những người Cộng sản lạnh lùng chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương thành hai trận địa, hai tiền đồn chĩa súng vào nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi thành hai đội quân xung kích của hai phe ý thức hệ quyết liệt lăn xả vào nhau chém giết, tiêu diệt nhau, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam đẫm máu suốt hai mươi năm trời! Trong khi những người Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thì những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng lại núp dưới lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ đó để vụ lợi, để mưu lợi ích cho Tàu Cộng. Họ mượn máu của dân tộc Việt Nam làm vốn liếng chính trị cho Tàu Cộng, để Nhà nước công nông Tàu Cộng từ bóng tối nội chiến, nghèo đói, lạc hậu bước ra ánh sáng thế giới. Ép Việt Nam chấp nhận tham gia hội nghị Geneve năm 1954 chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương để Tàu Cộng có cơ hội lần đầu tiên được bước lên vũ đài chính trị thế giới, giành được vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Lấy máu của dân tộc Việt Nam mặc cả với tư bản thế giới kiếm chác lợi ích cho Tàu Cộng, những người Cộng sản Tàu còn lấy đấu tranh giai cấp để chia rẽ dân tộc Việt Nam, đánh tan rã khối đoàn kết dân tộc, lấy chiến tranh ý thức hệ khoét vết thương nhức nhối trong lòng dân tộc Việt Nam, làm suy yếu dân tộc Việt Nam, buộc Việt Nam mãi mãi phụ thuộc vào Tàu Cộng, mãi mãi là chư hầu của Tàu Cộng để Tàu Cộng thực hiện giấc mộng thôn tính, bành trướng mà tổ tiên họ ôm ấp từ ngàn đời vẫn chưa thực hiện được. Nông cạn, không xứng tầm lịch sử, không mang hồn dân tộc, không đau đáu với lợi ích dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã không thấy được mưu đồ Đại Hán Tàu Cộng, răm rắp chấp nhận sự áp đặt của Tàu Cộng, cúi đầu kí hiệp định Geneve năm 1954 chấp nhận ngừng cuộc chiến giải phóng hoàn toàn đất nước, chấp nhận chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương, chia đôi dân tộc Việt Nam ruột thịt thành hai nửa đối kháng một mất một còn với nhau! Ngăn chặn cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, chia cắt đất nước, chia cắt dân tộc Việt Nam thành hai nửa thù địch nhau, Hiệp định Geneve năm 1954 là thất bại ê chề, đau đớn mà những người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam. Từ đây dân tộc Việt Nam có lịch sử hào hùng bốn ngàn năm kiêu hãnh là dân tộc độc lập tự chủ trở thành dân tộc tội nghiệp bị cột chặt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa của thế giới Cộng sản, phải đổ máu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ vay mượn của cách mạng vô sản thế giới. Từ đây, độc lập dân tộc đã thực sự bị mất! Bà bán hàng rong trên đường phố Sài Gòn những năm gần đây. AFP Ngày 20 tháng bảy năm 1954 ở Geneve, Thụy Sĩ, những người Cộng sản Việt Nam kí kết Hiệp đinh đình chiến, chia cắt đất nước thì ngay hôm sau, ngày 21 tháng bảy, ở những vùng đất Việt Nam ngoài vòng kiểm soát của những người Cộng sản, người dân đồng loạt treo cờ rủ để tang cho nền độc lập dân tộc bị giết chết, để tang đất nước chia cắt thành hai quốc gia đối kháng, để tang dân tộc Việt Nam bị chia cắt thành hai thế lực thù địch nhau, để tang cho nhiều gia đình bị chia đôi thành hai trận tuyến bắn giết nhau, để tang cuộc nội chiến không tránh khỏi, để tang cho những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam bị thiêu hủy trong ngọn lửa chiến tranh, để tang sớm cho hàng triệu người Việt thiệt mạng trong cuộc nội chiến ý thức hệ vô nghĩa đó! Đưa giá trị giai cấp hư vô lên trên giá trị dân tộc thiết thực, những người Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc Việt Nam đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này đến cuộc chiến tranh khốc liệt khác. Cuộc nội chiến Bắc – Nam 20 năm. Cuộc chiến tranh Campuchia hơn 10 năm. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 10 năm. Đi từ cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo này đến cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo khác. Những cuộc đấu tố thanh trừng trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong vụ Nhân văn Giai phẩm, trong vụ xét lại chống đảng đã bắn giết, đày ải, loại bỏ hàng triệu người Việt Nam tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, những người đã làm nên niềm tự hào Việt Nam thời xã hội Việt Nam giã từ nền sản xuất nông nghiệp cơ bắp tăm tối đi tới xã hội công nghiệp ánh sáng cùng loài người văn minh. Những người Việt Nam yêu nước thương nòi, những người Việt Nam chân chính hôm nay nói tiếng nói của lịch sử, của đạo lí, của văn hóa Việt Nam đòi vất bỏ gông cùm chủ nghĩa Mác Lê nin sai lầm tội lỗi, vất bỏ gông cùm ý thức hệ giai cấp phản dân tộc để thoát khỏi thân phận nô lệ Bắc thuộc đều bị Nhà nước Cộng sản coi là thế lực thù địch, bị bộ máy chuyên chính của Nhà nước Cộng sản giám sát, theo dõi như những người tù ngay tại nhà mình. Nhiều người Việt Nam chân chính bất hạnh hơn, người trước người sau đang lần lượt vào những nhà tù khắc nghiệt, những địa ngục trần gian được Nhà nước Cộng sản xây dựng, mở rộng trên khắp đất nước Việt Nam. Dùng ngục tù phân loại người Dân. Những người Dân khảng khái, trung thực đều bị tống vào ngục tù để xã hội Việt Nam chỉ còn bầy cừu cam chịu dưới sự chăn dắt của bạo lực Cộng sản, để dân tộc Việt Nam chỉ còn là sắc tộc Việt thiểu số của Đại Hán, chỉ còn là những thân phận nô lệ của Nhà nước độc tài đảng trị. 3. Kiên trì chủ nghĩa Mác Lê Nin, kiên trì đấu tranh hận thù giai cấp, dù đất nước thống nhất đã bao lâu thì dân tộc Việt Nam vẫn mãi li tán Khi những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng, Nga Cộng ép những người Cộng sản Việt Nam phải kí hiệp định Geneve chia đôi đất nước Việt Nam là họ đã chọn dải đất Việt Nam làm bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ và chọn dân tộc Việt Nam làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó để đất nước họ yên ổn xây dựng, phát triển. Chính chủ nghĩa Mác Lê nin đã tạo ra không gian lịch sử, yếu tố xã hội và phát động cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu và vô nghĩa. Xã hội tư bản đưa giới chủ, đưa những người giàu có của cải, giầu có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Với xã hội tư bản, Cái Tôi của người Dân được nhìn nhận, cá nhân được khẳng định, quyền con người được luật pháp bảo đảm. Mỗi người tồn tại trong cuộc đời là một cá nhân, phải đến xã hội tư bản công nghiệp mới có được điều bình thường mà vĩ đại đó. Từ bầy đàn đi đến cá nhân, đó là một bước tiến vĩ đại của tiến trình lịch sử loài người. Cá nhân được giải phóng, những con người khổng lồ xuất hiện đưa xã hội loài người thực sự bước vào thời ánh sáng văn minh và phát triển huy hoàng. Xã hội Cộng sản đưa giai cấp công nông, những người lao động làm thuê, lao động cơ bắp, không có của cải, không có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Cộng sản chỉ những người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng sản mới có Cái Tôi, mới có cá nhân, còn người dân chỉ là đám đông, là bầy đàn, không có cá nhân. Đó là xã hội mông muội, tối tăm, là một bước thụt lùi thảm hại của lịch sử, một nỗi đau nhân loại. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho giai cấp công nhân, những người lao động cơ bắp làm thuê không của cải, không tri thức phải quyết đào mồ chôn những ông chủ tư bản giầu có của cải và trí tuệ. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho chế độ Cộng sản kéo lùi lịch sử phát triển loài người về thời tối tăm phải quyết tiêu diệt chế dộ Tư bản đã đưa xã hội loài người tới ánh sáng văn minh. Nhiệm vụ lịch sử đó của những người Cộng sản, của giai cấp vô sản thế giới đã tạo ra chiến tranh ý thức hệ, đẩy nhân dân vào những cuộc đấu tố, thanh trừng, thảm sát, đẩy loài người vào những cuộc chiến tranh liên miên. Vì thế, về thực chất cuộc chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến tranh bóng tối mông muội quyết tiêu diệt ánh sáng văn minh và ánh sáng văn minh quyết đẩy lùi bóng tối mông muội! Vì là cuộc chiến tranh ý thức hệ nên nước Mĩ hùng mạnh của thế giới tư bản phải tham chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn bóng tối Cộng sản lan ra thế giới. Có sức mạnh kinh tế và quân sự không nước nào sánh được nhưng nước Mĩ vẫn phải chuốc lấy thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì chiến thắng của cuộc chiến tranh nào xét cho cùng cũng là chiến thắng của văn hóa, của đạo lí. Những người Cộng sản Việt Nam đã giấu kín cuộc chiến tranh ý thức hệ dưới danh nghĩa cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người Dân Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh ý thức hệ là những nạn nhân, những vật hi sinh nhưng với tư thế những anh hùng xả thân chống Mĩ cứu nước và chiến thắng đã thuộc về những người anh hùng đó. Đó là chiến thắng của văn hóa, của lẽ sống Việt Nam. Đó là chiến thắng của những người mẹ lần lượt tiễn đến đứa con cuối cùng ra trận và những đứa con ấy đã lần lượt bỏ mình trên những ngả đường chiến trận để làm nên chiến thắng dâng lên người mẹ nghèo khổ mà giầu lòng yêu nước thương nòi, dâng lên Mẹ Tổ quốc Việt Nam. Sau chiến thắng đó, sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cuộc chiến tranh Nam – Bắc núi xương, sông máu chấm dứt, một thời cơ phát triển, chấn hưng đất nước vô cùng thuận lợi đã mở ra. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển thuận lợi như lúc đó. Nhưng với tầm văn hóa thấp kém, không vượt được lên trên các chủ nghĩa, làm chủ các chủ nghĩa nên chỉ giáo điều, dập khuôn, làm nô lệ của chủ nghĩa Mác Lê nin lầm lạc, phản dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích dân tộc, vẫn nhìn thế giới và nhìn dân tộc mình bằng con mắt hận thù giai cấp, vẫn mê muội lấy đấu tranh giai cấp ứng xử với thế giới và lấy đấu tranh giai cấp chống phá, nô dịch chính dân tộc mình, tù đày chính Nhân Dân mình, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ lịch sử để Việt Nam bước lên đường phát triển, hòa nhập cùng loài người văn minh. Không vì lợi ích dân tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam Dân tộc Việt Nam bé nhỏ, nghèo khổ phải chịu những đau thương mất mát quá lớn để chiến thắng một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính chào Việt Nam, vui mừng mở vòng tay đón Việt Nam hòa nhập với cuộc sống thanh bình của thế giới. Cả thế giới động lòng trắc ẩn trước hi sinh mất mát đau thương của Việt Nam, muốn bù đắp, chia sẻ với Việt Nam, muốn giúp Việt Nam xây dựng lại đất nước. Cả nước Mỹ thua trận cũng muốn làm lành với Việt Nam bằng việc chủ động đề nghị bình thường hóa quan hệ hai nước để nước Mỹ có trách nhiệm với Việt Nam sau chiến tranh. Nếu đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam như họ vẫn xưng xưng tự nhận, thực sự vì lợi ích dân tộc thì họ phải ý thức được trách nhiệm về nỗi đau mất mát quá lớn mà dân tộc Việt Nam phải nhận khi là công cụ, là vật hi sinh của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nhận trách nhiệm để thấy việc phải làm là nhanh chóng thoát ra khỏi thân phận công cụ của ý thức hệ, trở về với dân tộc, vì lợi ích dân tộc mà bình thường hóa quan hệ với Mỹ, mở ra thời kì mới hòa nhập với thế giới, đón nhận thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới và quan trọng nhất là khoa học kĩ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn từ nước Mỹ để xây dựng cuộc sống mới cho Nhân Dân. Không bận tâm đến lợi ích dân tộc, vẫn trói mình trong chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ biết có giai cấp, lạc lõng trong tình cảm vay mượn hận thù giai cấp, đánh tráo chiến thắng bằng giá máu quá đắt của dân tộc Việt Nam là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, lại sẵn thói kiêu ngạo Cộng sản, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vênh váo đưa ra cớ đòi Mĩ bồi thường chiến tranh để từ chối bình thường hóa quan hệ với nước Mĩ thua trận. Cùng với những sai lầm tệ hại khác, vênh váo không bình thường hóa quan hệ với Mỹ dẫn đến cuộc cấm vận của Mỹ kéo dài suốt hai mươi năm. Lệnh cấm vận của Mỹ đã dựng bức tường sừng sững ngăn cách Việt Nam với thế giới, chặn đứng dòng vốn đầu tư, dòng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại của thế giới chảy vào Việt Nam làm cho đất nước Việt Nam chìm sâu trong nghèo đói, khủng hoảng, kinh tế kiệt quệ, người Dân khổ cực, thiếu thốn đủ bề. Vài tỉ tiền Mỹ bồi thường chiến tranh ném vào cái túi thủng của Nhà nước tham nhũng nào có thấm tháp gì so với hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ đô la mà các nước phát triển đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Không vì lợi ích dân tộc, vẫn lấy đấu tranh giai cấp chống phá dân tộc, đánh mất cả nội lực to lớn, đánh mất cả sức sống mạnh mẽ và sức sáng tạo vô tận của dân tộc Việt Nam Năm 1954, những người Cộng sản nhẫn tâm chia đôi đất nước Việt Nam đã tạo ra hai dòng chảy Nam – Bắc ngược chiều nhau. Dòng chảy nhỏ bé, ngắn ngủi của gần hai trăm ngàn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc và dòng chảy ồ ạt, mạnh mẽ, kéo dài của hai triệu người Dân miền Bắc di cư vào Nam. Năm 1975 kết thúc cuộc chiến tranh Nam Bắc, lại có hai dòng chảy Nam Bắc ngược chiều nhau. Một dòng chảy của những người thân trong những gia đình bị trận tuyến ý thức hệ chia cắt hai mươi năm tìm về với nhau. Nhưng chỉ có người từ miền Bắc ào ào đổ vào miền Nam. Người thắng cuộc hồ hởi tìm đến người mặc cảm thua cuộc. Dòng chảy Bắc - Nam. Đó là dòng chảy tự nhiên. Nhưng còn có dòng chảy do những người say máu đấu tranh giai cấp tạo ra, những người chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân tộc, những người cuồng tín, nô lệ của học thuyết đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực giai cấp vô sản quyết tiêu diệt dân tộc Việt Nam đến cùng. Dòng chảy của hàng trăm ngàn người đã tham gia bộ máy quân sự và bộ máy Nhà nước của chính quyền Sài Gòn thua cuộc bị dẫn giải ra miền Bắc tống vào các nhà tù được mang tên là các trại cải tạo. Dòng chảy Nam – Bắc. Không biết nhận ra đường về với dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản vẫn lấy giai cấp vay mượn đánh phá dân tộc ruột thịt của mình. Bài bản đấu tranh giai cấp đã làm kiệt quệ miền Bắc là cải tạo tư sản lại được áp dụng ở miền Nam làm kiệt quệ cả miền Nam. Tư sản dân tộc miền Nam đông đảo và giàu có đã tạo ra cả một nền công nghiệp hiện đại và thương nghiệp phát triển hòa nhập với thị trường thế giới. Tước đoạt quyền làm chủ của những người biết làm chủ. Giao cơ sở sản xuất kinh doanh của họ cho những người không biết sản xuất kinh doanh, không có mối quan hệ giao thương với thế giới đã phá hủy cả một nền công thương nghiệp dân tộc phát triển, cắt đứt mối quan hệ giao thương với thị trường thế giới. Việt Nam tự cô lập trong nghèo đói. Bài bản đấu tranh giai cấp là duy trì và khoét sâu mãi trận tuyến giai cấp, trận tuyến địch – ta trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa súng đạn, thuốc nổ và những tay súng AK vào miền Nam thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh người Việt giết người Việt. Chiến tranh kết thúc, những họng súng AK lại gom hàng trăm ngàn người trong bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam vào những nhà tù rải rác ở vùng rừng núi khắc nghiệt miền Bắc. Những người làm nên bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam là lực lượng tinh hoa, ưu tú nhất của xã hội miền Nam và cũng là nguồn lực con người lớn lao và quí giá của dân tộc Việt Nam. Tù đày họ không những hủy bỏ một nguồn lực lao động cao cấp mà còn tiếp tục nuôi dưỡng hận thù trong lòng dân tộc, li tán dân tộc. Những đòn đấu tranh giai cấp khốc liệt đó liên tiếp đánh những đòn chí tử vào dân tộc Việt Nam. Đánh vào nội lực, đánh vào lực lượng sản xuất tạo ra của cải xã hội làm cho đất nước đã nghèo càng nghèo thêm. Đánh vào lòng tin làm cho người dân thấy bế tắc, không còn lòng tin vào ngày mai. Đánh vào tình cảm dân tộc, đánh vào lòng yêu nước làm cho người dân dù nặng lòng với nước cũng không tìm thấy chỗ đứng trên đất nước thân yêu phải bỏ nước ra đi tạo ra dòng người đổ ra biển vượt biên kéo dài trong nhiều năm, ồ ạt vào những năm từ 1975 đến 1990 và rải rác đến tận hôm nay. Dòng thác người trên biển đi tìm cái sống trong cái chết đã tạo ra hình ảnh một Việt Nam đau thương, tủi nhục trước con mắt thế giới và thế giới đã phải tạo ra một từ mới Boat People - Thuyền Người để gọi những người Việt Nam khốn khổ này. Chạy trốn đòn đấu tranh giai cấp tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, hơn ba triệu người Việt Nam tìm đến vòng tay nhân hậu cưu mang của các dân tộc trên thế giới, khoét sâu sự li tán trong lòng dân tộc Việt Nam đến nay vẫn chưa thể hàn gắn. Nửa triệu người vùi xác dưới biển trong cuộc chạy trốn những người lãnh đạo Cộng sản lấy giai cấp tiêu diệt dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể trốn trách trách nhiệm về cái chết mất xác của nửa triệu người Việt Nam này. Lấy giai cấp thống trị dân tộc. Lấy đấu tranh giai cấp đánh tan tác, li tán dân tộc. Mang gia sản thiêng liêng vô giá của dân tộc ra đánh đổi lấy liên minh giai cấp, liên minh ý thức hệ như chia đôi đất nước, chia dân tộc Việt Nam ra làm hai nửa đối kháng chém giết nhau. Vạch trận tuyến chiến tranh ý thức hệ trong lòng dân tộc Việt Nam. Đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó. Cắt đất đai thiêng liêng của tổ tiên cho Tàu Cộng để duy trì liên minh ý thức hệ với Tàu Cộng, để duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam... Còn vô vàn dẫn chứng không thể kể xiết về lịch sử tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam là lịch sử thí bỏ lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam vì lợi ích nhỏ bé của đảng. Những dẫn chứng này, lịch sử sẽ không bỏ sót và lịch sử sẽ phán xét công bằng, sòng phẳng. Không thể nhắm mắt trước lịch sử và không thể lừa dối nhân dân khi cố tình ghi trong điều 4 Hiến Pháp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích cả dân tộc Việt Nam! Nguồn: RFA
......

Các nhà bảo vệ nhân quyền Vi Đức Hồi, Paulus Lê Sơn và Nguyễn Văn Oai bị ngược đãi trong tù

Bản dịch của Hành Nhân (Defend the Defenders) Dựa trên những thông tin được cung cấp cho Front Line Defenders vào ngày 24/08/2013, những nhà bảo vệ nhân quyền Vi Đức Hồi và Nguyễn Văn Oai được lệnh phải chịu biệt giam trong 6 tháng từ 20/07/2013 nhằm trả đũa việc phản đối của họ đối với việc ngược đãi người bạn cùng bảo vệ nhân quyền Paulus Lê Sơn. Những nhà bảo vệ nhân quyền này hiện đang bị giam giữ tại nhà tù Nam Hà. Từ trái sang phải: ông Vi Đức Hồi, anh Paulus Lê Sơn, anh Nguyễn Văn Oai Ông Vi Đức Hồi là một nhà hoạt động dân chủ và thành viên của Khối 8406, một mạng lưới ủng hộ dân chủ của những nhà bảo vệ nhân quyền và các tổ chức nhân quyền. Ông cũng là một người lãnh nhận giải thưởng nhân quyền Hellman/Hammett năm 2009. Năm 2011, ông bị kết án 8 năm tù giam. Vào ngày 26/04/2011, phiên tòa phúc thẩm đã giảm án xuống còn 5 năm và 3 năm quản chế. Ông Paulus Lê Sơn là một blogger, một nhà hoạt động cho người bị nhiễm HIV và là một nhà báo viết những vấn đề về công bằng xã hội ở Việt Nam, đã bị bắt vào ngày 03/08/2011. Ông đã bị kết án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế. Vào ngày 23/05/2013, bản án đó được tòa phúc thẩm giảm xuống còn 4 năm tù giam và 4 năm quản chế. Ông Nguyễn Văn Oai là một thành viên của một tổ chức Công giáo Dòng Chúa Cứu Thế và tích cực tham gia vào việc thăng tiến và bảo vệ các quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt Nam. Cả hai người (Sơn và Oai) đều bị kết án them điều 79 của BLHS liên quan đến “tiến hành những hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Vào ngày 18/07/2013, Paulus Lê Sơn bị cai ngục đánh đập dã man vì ông không chào họ. Mặc dù chân ông bị gãy và cần được chăm sóc y tế, nhưng ông đã bị đưa vào biệt giam. Khi thăm viếng ông vào ngày 21/08/2013, gia đình Paulus Lê Sơn nhận thấy rằng ông vẫn còn đau đớn và đi lại khó khăn. Không chấp nhận sự đối xử hà khắc này của các cai ngục, Vi Đức Hồi, Nguyễn Văn Oai và nhà hoạt động về quyền lợi đất đai Đỗ Văn Hòa đã đệ đơn khiếu nại các cai ngục và, như một dấu hiệu phản đối, họ cũng từ chối lao động. Ngoài ra, Vi Đức Hồi đã gởi một thỉnh nguyện thư đến Chủ tịch nước Việt Nam yêu cầu ông xem xét những điều kiện giam giữ ở nhà tù Nam Hà. Như một sự trả đũa cho những hành động này, cả ba người đàn ông đã bị biệt giam trong 6 tháng. Mặc dù họ được phép cho gia đình thăm gặp mỗi tháng một lần, nhưng họ không được tiếp cận với luật sư hoặc bác sĩ. Để biết thêm thông tin về các trường hợp của Paulus Lê Sơn và Nguyễn Văn Oai, xin vui lòng xem Lời kêu gọi khẩn cấp do Front Line Defenders công bố vào ngày 14/11/2011 và 16/05/2013, và bản cập nhật vào ngày 24/05/2013. * Nguồn: Front Line Defenders
......

Đảng Cộng sản Việt Nam thiếu chính danh

Giáo sư Hoàng Xuân Phú là một nhà toán học lớn. Ông tốt nghiệp Tiến sỹ Toán học ở Viện đại học Humboldt của CH Liên bang Đức, hiện là Tổng Thư ký Viện Toán VN kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Toán của Viện.   Gs Hoàng Xuân Phú cũng là một nhà báo đặc sắc, có Blog riêng mang tên ông. Ông dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước, từng có mặt trong một số cuộc «Chủ nhật xuống đường» chống bành trướng. Ông từng có luận văn sắc sảo phản đối việc khai phá bauxite ở vùng Tây Nguyên, chỉ rõ hiểm họa xây dựng điện hạt nhân ở nước ta, và gần đây tích cực tham gia cuộc thảo luận về việc thành lập một đảng mới để cạnh tranh lành mạnh với đảng CS do luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận nêu lên. Là giáo sư toán học, ông có nếp lập luận chặt chẽ, luôn chứng minh từ thực tế, truy tìm tận nguồn ngọn của vấn đề. Ông nghiên cứu kỹ các văn bản, hồ sơ lưu trữ, các đạo luật, nghị định liên quan đến việc lập hội, như Luật về Mặt trận Tổ quốc, Luật về Đoàn thanh niên, về Tổng liên đoàn Lao động... Từ đó ông phát hiện ra một vấn đề có thể nói là kinh thiên động địa: đó là Nhà nước đã quy định bất cứ tổ chức chính trị - xã hội nào hoạt động trên lãnh thổ VN đều phải làm đơn xin phép, khai lý lịch, tôn chỉ mục đích và chỉ được hoạt động khi có quyết định của chính quyền xét duyệt điều lệ, tôn chỉ mục đích và quy định rõ phạm vi, thể thức hoạt động, các mối quan hệ với chính quyền và các tổ chức khác trong xã hội. Vậy mà ông không tìm ra một lưu trữ nào nói rằng đảng CS Việt Nam đã tuân theo các thủ tục vừa kể. Đảng CS Đông Dương, rồi đảng Lao động VN, rồi đảng CS Việt Nam chưa hề nộp một giấy xin phép nào cho cơ quan hành chính, nhà nước, cũng chưa nhận được giấy phép hợp lệ nào. Nhà toán học cả đời làm vô vàn chứng minh cho các bài toán gai góc nhất của mình, bỗng đứng trước một kết luận rất đáng buồn cho đảng CS, cũng rất buồn cười cho toàn xã hội, là đảng CS Việt Nam trên thực tế là một đảng bất hợp pháp, là một đảng … chui, nghĩa là hoạt động không có giấy phép. Vậy mà trong Điều lệ Đảng CS ghi rõ: «Đảng CS VN hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật». Nó nói vậy nhưng không hề làm. Giáo sư Hoàng Xuân Phú cho rằng xét về thủ tục hành chính, đảng CS đã tự cho mình đặc quyền hành chính, không ghi danh, cũng không làm đơn xin phép hoạt động. Đây là một lỗ hổng hành chính đáng trách. Theo ông, về mặt thực thi Hiến pháp, mỗi điều khoản Hiến pháp đều có một đạo luật tương ứng hướng dẫn thể thức, phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn áp dụng trong cuộc sống. Thiếu một đạo luật như thế, một điều khoản Hiến pháp như Điều 4 quy định vai trò lãnh đạo của đảng CS trong xã hội không thể, chưa thể đưa ra thực hiện được. Lẽ ra việc thực hiện phải bị treo lại cho đến khi có luật về đảng CS, hay luật về các đảng chính trị nói chung, trong đó có đảng CS. Gs Hoàng Xuân Phú chỉ ra rằng trong một phiên họp quốc hội, từng có ý kiến của lãnh đạo là Hiến pháp tuy có quy định quyền biểu tình, nhưng vì chưa có Luật về biểu tình nên quyền đó phải bị treo lại để chờ luật; vậy chưa có Luật về đảng CS thì mọi hoạt động của đảng CS lẽ ra cũng phải bị treo lại. Giữa cuộc tranh luận trên, ông Nguyễn Ngọc Già trên mạng Dân Làm Báo chất vấn ông Vũ Minh Giang, từng là phó giám đốc Đại học Quốc gia, rằng Điều 4 Hiến pháp do đảng CS tự mình đề ra có giá trị gì không, người dân công nhận điều đó bằng cách nào? Không có thảo luận, không có trưng cầu dân ý. Tất cả chỉ là tự vỗ ngực mình rồi bảo là toàn dân công nhận, qua một cái gọi là Quốc hội, thật ra là đảng hội, vì đảng viên CS chiếm 90% số ghế. Dân không hề có ý kiến. Rõ ràng lại một kiểu ăn gian, phi pháp, thiếu đạo đức được chứng minh. Vẫn chưa hết. Gs Hoàng Xuân Phú muốn đưa cuộc tranh luận đến tận cùng chân lý. Ông đặt vấn đề đảng CS khẳng định trong điều lệ là đảng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, mang bản chất của giai cấp công nhân, trung thành với quyền lợi của công nhân, lao động và dân tộc, hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và luật pháp, tất cả 4 vấn đề then chốt ấy đều không hề được chứng minh trong thực tế, trong cuộc sống. Chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn đã bị lịch sử lên án với đấu tranh giai cấp tàn khốc và chuyên chính vô sản đẫm máu; đảng CS không cho công dân được lập công đoàn tự do của mình, chuyên bênh các chủ đầu tư tư bản; đảng CS xóa bỏ quyền người cày có ruộng của nông dân; tự đặt mình trên Hiến pháp và ngoài luật pháp; tất cả đều chứng minh đảng CS đã sai lầm tận gốc trong cả 4 vấn đề then chốt. Nó nói một đằng làm một nẻo, chuyên đi ngược lòng dân, chiều lòng bọn bành trướng; tính thiếu chính đáng, tính bất hợp hiến và bất hợp pháp của nó, tính thiếu đạo lý đạo đức lương thiện của nó cùng với tệ nhũng lạm nặng nề không sao ngăn chặn, đang hiện rõ. Trong tháng 10 Quốc hội sẽ họp để thông qua bản sửa đổi Hiến pháp cuối cùng. Chẳng lẽ cả 500 vị đại biểu Quốc hội – mà 90% là đảng viên CS cấp cao - đã mất hoàn toàn mối liên hệ với nhân dân, với cử tri, với những trí thức trung thực, thức tỉnh, như giáo sư Hoàng Xuân Phú và hàng vạn trí thức ký tên bác bỏ bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Quốc hội từng thông qua hồi đầu năm hay sao? Đảng CS như một lâu đài được xây dựng trên cát lỏng, đang có nguy cơ chìm nghỉm. Nguồn: VOA
......

Bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi

Trong bài phỏng vấn do Trà Mi thực hiện, Nguyễn Phương Uyên, cô gái 21 tuổi được nhiều người xem như một “biểu tượng” của lòng can đảm và của tuổi trẻ, nêu lên một ý nguyện, đồng thời cũng là một tham vọng của em: “Tôi không muốn mắc phải căn bệnh rất khó trị ở các thanh niên cùng tuổi tôi. Tôi muốn làm một bài thuốc để thanh niên Việt Nam nhìn thấy mà làm hết mình, ‘cháy’ hết mình, không còn bị vô cảm và sợ hãi vốn đã bị tiêm nhiễm ngay từ bé.” Tôi không biết hiệu quả của “bài thuốc” ấy thế nào. Nhưng tôi nghĩ Phương Uyên đã bắt đúng căn bệnh kép không phải chỉ của giới trẻ mà còn của người Việt Nam nói chung lâu nay: bệnh vô cảm và bệnh sợ hãi. Bệnh sợ hãi, thật ra, là một bệnh lâu đời. Chế độ phong kiến, ở đâu cũng vậy, bao giờ cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng chính: sự sùng bái và sự sợ hãi. Sự sùng bái được xây dựng trên hai nền tảng chính: tư tưởng thần quyền (nòng cốt là tư tưởng thiên mệnh) và các nghi lễ đầy tính đẳng cấp trong xã hội. Sự sợ hãi được tạo thành và được duy trì chủ yếu bằng một biện pháp chính: khủng bố. Trong các tội trạng, tội nặng nhất là tội phản nghịch. Hình phạt dành cho tội này thường là tử hình, có khi không phải tử hình một cá nhân mà còn tử hình nguyên cả một dòng họ (tru di tam tộc). Tử hình không phải chỉ nhắm đến việc giết chết tội nhân. Mà còn nhắm đến việc giết chết mọi ý đồ phản nghịch của những người còn sống bằng cách khiến họ phải sợ hãi. Do đó, người ta bày ra đủ thứ kiểu giết người, từ kiểu chặt đầu, treo cổ đến kiểu cho voi giày, ngựa xé, ném vào vạc dầu sôi, tùng xẻo, v.v.. Bởi vậy, chuyện ngày xưa dân chúng thường xuyên sống trong sợ hãi là điều dễ hiểu. Sau này, chế độ cộng sản tiếp tục duy trì sự sợ hãi ấy bằng các trại cải tạo và nhà tù, hơn nữa, bằng chế độ lý lịch: Con cháu những người bị xem là phản động trở thành một thứ con ghẻ, thường xuyên bị nghi kị và kỳ thị, có thời gian, lại là thời gian khá dài, còn không được nhận vào đại học. Bây giờ, do sự phát triển của kinh tế thị trường, chế độ lý lịch ấy đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, hệ thống nhà tù thì vẫn dày đặc. Mà không cần nhà tù, chỉ cần sự hiện diện của công an, mọi người đã khiếp sợ. Tất cả những sự khủng bố và đe dọa ấy khiến mọi người nếu không run sợ thì ít nhất cũng thu mình lại, né tránh mọi đụng chạm đến công an hoặc rộng hơn, đến chính trị, từ đó, làm nảy sinh ra một thứ bệnh khác: bệnh vô cảm. Nếu sợ hãi là một căn bệnh lâu đời, vô cảm lại là một căn bệnh rất mới. Trước, hầu như không ai nói người Việt vô cảm bao giờ. Thậm chí, ngược lại, hầu như ai cũng cho người Việt sống bằng tình cảm nhiều hơn lý trí. Với tư cách cá nhân, người ta quan tâm đến nhau; láng giềng quan tâm đến nhau; cả làng quan tâm đến nhau. Chuyện một người biến thành chuyện của cả tập thể. Sự quan tâm lớn đến độ lấn át cả sự riêng tư của từng cá nhân một. Vậy mà, những năm gần đây, hầu như bất cứ người nào để ý đến xã hội Việt Nam một chút, cũng đều nhận thấy ngay một hiện tượng: người ta đối xử với nhau thật vô cảm. Ngoài đường, nhìn người khác bị cướp giật, hầu như mọi người đều dửng dưng; thấy có ai đó bị tai nạn nằm giãy đành đạch, phần lớn vẫn đứng trố mắt nhìn. Trồng trọt hay buôn bán thực phẩm, biết việc sử dụng nhiều hóa chất có thể gây nhiễm độc hay bệnh hoạn cho xã hội, người ta vẫn mặc kệ. Làm các dịch vụ du lịch, biết việc chụp giật hay lừa đảo có thể gây ấn tượng xấu cho cả đất nước, khiến du khách ngoại quốc khinh bỉ và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, người ta vẫn bất chấp. Chưa hết. Hiện tượng con cái đánh đập hoặc đuổi bố mẹ già ra khỏi nhà càng lúc càng phổ biến. Chỉ giận hờn hay cãi cọ nhau một chút là học sinh, có khi là nữ sinh, đã đánh nhau một cách tàn nhẫn. Để cướp một chiếc nhẫn, thay vì trấn lột, người ta nghĩ ra một biện pháp cực nhanh: chặt đứt nguyên cả cánh tay. Ăn trộm một con chó cũng bị cả làng xúm vào đánh chết. Dù sao, ở trên cũng là những chuyện… nhỏ. Lớn hơn là những chuyện liên quan đến số phận của cả đất nước. Việt Nam bị ô nhiễm trầm trọng ư? Người ta nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Nạn tham nhũng hoành hành, các công ty quốc doanh thi nhau phá sản để lại những núi nợ nần không những cho thế hệ hiện tại mà cả các thế hệ sau này nữa ư? Người ta cũng nhún vai: “Cái nước mình nó thế, biết làm sao được!” Quan trọng nhất là chuyện chủ quyền. Hầu như ai cũng biết Trung Quốc đang toan tính cướp biển và cướp đảo Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng đến mạng sống của nhiều ngư dân Việt Nam, chi phối tình hình chính trị nội bộ của Việt Nam. Ai cũng biết vậy. Nhưng phần lớn đều nhún vai: “Làm gì được?”. Rồi thôi. Người Việt vẫn thường tự hào về truyền thống yêu nước, bất khuất và anh dũng của mình. Nhưng thời gian gần đây, nhìn đâu cũng thấy những cái nhún vai bất cần, kiểu sống chết mặc bay như thế. Tại sao? Lý do, thật ra, khá đơn giản. Một phần vì sợ, như đã nói ở trên. Phần khác, vì đó là chính sách của nhà cầm quyền. Dưới mọi hình thức tuyên truyền, nhà cầm quyền chỉ muốn mọi người vô cảm. Bày tỏ sự quan tâm của mình đối với chủ quyền của đất nước dưới hình thức biểu tình thì bị đạp vào mặt hay bắt thảy vào các nhà tù; dưới hình thức bài viết trên các blog thì bị vu cho tội… trốn thuế. Trước, mọi nhà độc tài đều duy trì chế độ của mình trên sự sợ hãi của người dân; sau này, ngoài sự sợ hãi, người ta sử dụng một biện pháp nữa: làm cho mọi người trở thành vô cảm. Tôi không biết hiệu quả của bài thuốc trị sự vô cảm và sự sợ hãi của Phương Uyên như thế nào. Nhưng ít nhất, nhìn ánh mắt, dáng dứng và những câu phát biểu của em trước tòa, cả tòa sơ thẩm lẫn tòa phúc thẩm, và đặc biệt, nhìn cả trăm người từ khắp nơi đến tham dự phiên tòa phúc thẩm của em, tôi nghĩ, ít nhất cũng có nhiều người đã vượt qua được hai căn bệnh hiểm nghèo ấy. Nguồn: VOA
......

Oan hồn tướng Nguyễn Chí Thanh

LÀM TƯỚNG MÀ THÙ NHÀ CŨNG CHẲNG BIẾT - NỢ NƯỚC CŨNG KHÔNG HAY THÌ VỀ ĐẠP XÍCH LÔ KIẾM ĂN KHỎI NHỤC, *OAN HỒN CỐ ĐẠI TƯỚNG NGUYỂN CHÍ THANH* Một số sỹ quan CS hồi hưu ở Hà nội kể về ông Tướng Việt Cộng Nguyển chí Vịnh, Ông Vịnh là con trai của ông Đại Tướng Nguyển chí Thanh quê ở làng Niêm Phồ, Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông Nguyển chí Thanh gia nhập bộ đội Việt Minh thời kỳ Pháp thuộc, cho đến cuối thập niên 60 được thăng lên tới đại Tướng và được Tướng Võ nguyên Giáp tin cậy ủy thác công tác tham mưu chiến trường Nam Bộ. Đại Tướng Nguyến chí Thanh luôn có quan điểm không đồng tình với quan điểm và đường lối của Ông Hồ chí Minh, nhứt là trong giai đoạn chiến tranh xâm nhập vào Nam chủ mưu cướp chính quyền và vơ vét tài nguyên miền Nam phì nhiêu, có lẽ cũng vì ý kiến độc tài mà ông Hồ độc đoán quyết định mọi sự, điển hình như đánh trận Mậu Thân, bị thất bại thê thảm. Giữa năm 1968 bắt đầu lùa vào miền Nam 32 sư đoàn Bộ đội, sau tết Mậu thân thất bại rút về BẮC chỉ còn chưa đầy một nửa. Năm Mậu Thân ông Hồ đã giết chết cả hai miền gần một triệu sinh mạng, không đạt được một tí thành công nào, rồi mang bệnh trằn trọc nhiều tháng không nước nào giúp chữa được, diêm Vương phải lên mang ông ta về. Do vì bất đồng ý kiến trong nhửng năm cuối thập niên 60 ông Hồ chí Minh thấy khó mà kín đáo tìm cách loại trừ Tướng Nguyển chí Thanh ra khỏi Đảng và tước lột hết chức vụ lon lá, mà không tránh được hàng ngủ quân đội khỏi đánh giá ông ta, để rồi suy nhược lòng tin và tinh thần chiến đấu, nên ông Hồ chỉ thị cho đàn em lập mưu giết ông Đại Tướng Thanh một cách khôn khéo. Ttrong một cuộc hành trình của ông thanh đi vào thị sát chiến trường miền Nam trước Mậu Thân, trên đường mòn Hồ chí Minh khi vào đến đèo Ngang - Quảng Bình - nữa đêm một chiếc thiết giáp hộ tống theo sau đâm thẳng vào xe ông Tướng Thanh lật xuống đèo. Ông Thanh bị thương nặng nhưng chưa chết, đoàn tùy tùng báo cáo về trung ương, ông Hồ ra lịnh chở nạn nhân trở về Hà Nội để lo chửa trị, đi hai ngày đường về đến Hà Nội thì ông Thanh đuối sức và chết trong bệnh viện trung ương Hà Nội. Ngày hôm sau, ông Hồ cho đài phát thanh Hà nội loan tin với lí do là bị B-52 của Mỹ dội bom, và được ông Hồ cho tuyên dương là chiến sĩ anh hùng. Để che đậy tội ác ông Hồ cho làm đám tang linh đình. để thâu thập nhân tâm của đám còn lại. Nay thì Đảng CSVN ân huệ với con trai của nạn nhân là trung Tướng Nguyển chí Vịnh để xoa dịu món nợ máu do ông Hồ chủ mưu giết cha mình, cũng để đánh lãng trí nhớ của ông Vịnh vì lúc đó ông Vịnh còn ngây thơ, để may ra ông ta cũng tin cuội với Đảng mà nguôi lòng chăng, Tướng thì có quyền mang sao trên cổ áo nhưng quyền lực thì chắc không bao giờ có với ông Vịnh, vì đảng sợ ông ta sẽ tìm cách trả thù cho cha mình. Nguyển chí Vịnh nay là trung Tướng dưới tay không có thằng lính què nào, luôn có xu hướng bán lảnh thổ cho Tầu Cộng với giá bèo để cầu an, Tướng Vịnh cũng đã từng tuyên bố với báo chí rằng chuyện Biển đảo là chuyện của tương lai con cháu, (ý nói ta đang sống an thân với 16 chử vàng dưới hai cặp búa liềm hổ trợ tinh thần là đủ, lãnh thổ còn hay mất về sau con cháu chúng bây tự lo lấy) Trong giai đoạn này Tướng Vịnh tìm cách cúi theo chiều gió để “sống còn”, và chờ thời, cũng nhờ còn chút ảnh hưởng từ cha của ông, nhờ ông Hồ muốn phi tang “tội ác” nên phải tuyên dương cho Tướng Thanh là anh hùng, do đó Đảng cũng khó mà loại ông Nguyển chí Vịnh ra khỏi Đảng dù biết để tránh hậu họa. Ông Nguyển chí Vịnh biết vậy nên tối ngày cứ ôm chặt chân kẻ thù phương Bắc để tạo lá bùa cầu an, đợi cơ hội thời thế tạo anh hùng ông Vịnh sẽ đào mồ ông Hồ lên để hỏi tội. Đảng CSVN hiện nay nhìn bề ngoài thì hùng hổ nhưng thật chất bên trong thì rối như cái tổ vò vò, thù trong giặc ngoài, bởi hằng triệu sinh linh oan gia nghiệp báo do ông Hồ chí Minh chủ mưu sát hại từ năm 1945 đến năm 1969, sát hại giới trí thức yêu nước, hằng vạn Điền chủ tại miền Bắc, hằng trăm ngàn binh lính bị gạt gởi vào Nam hy sinh vô nghĩa cho cái thú tính cuả ông ta mà thôi. Trong số nạn nhân đó có cả ông Đại Tướng Nguyển chí Thanh, nay thì oan hồn của Tướng Nguyển chí Thanh chắc chắn là đang chỉ huy hằng ngàn Âm binh vây quanh Thủ Đô của Đảng để trả thù quậy phá làm cho Đảng lộn bại đầu óc không bao giờ tính toán được việc gì hết, buông nước nọ bám nước kia, xã hội như cái chợ trời cướp giựt nhau, chính Quyền thì sáng ra luật chiều rút lại.. Đảng CS muốn giải quyết đất nước ổn định thì chắc là phải mang cái tượng ông Hồ ra trước vành móng ngựa của một tòa án thật sự của dân để xử ông ta với tội diệt chủng, cố sát theo ác tính, và phải nhận bản án mười ngàn lần chung thân. Thì đất nước mới thật sự có hòa bình và ổn định, Cái tư tưởng của ông Hồ là cái tư tưởng độc ác che đậy bởi câu “không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhưng thật sự nó là: “không có gì quí bằng giết hết bất đồng chính kiến để còn ta độc tài thoải mái”. Thế mà nay Đảng CS vẩn còn ca tụng Hồ là vĩ nhân, tại sao không thật lòng mà nói cho đúng là kẻ sát nhân, và kẻ đi tìm đường bán nước, mà bằng chứng hẳn còn sờ sờ ra đó! Tờ biên bản bán nước từ phủ Thủ Tướng do Phạm văn Đồng ký ngày 14/8/1958 của nước Việt Nam Dân chủ cộng Hòa, chứ đâu có phải như Đảng cứ lợi dụng mà ca tụng mờ ám là “bác đi tìm đường cứu nước”, nếu bác mà biết tìm đường cứu nước thì nay đâu có mất nước gần hết như vậy. Cái nước Việt nam dân chủ Cộng Hòa đả dã mang bán nước cho giặc, đến sau 1975 đặc tên nước lại là nước Cộng hòa xả hội chủ nghĩa VN lại cũng tiếp tục bán nước, thì có phải chăng là phải đổi luôn cả cái đám lành đạo, dẹp bỏ cái ý thức hệ ngoại lai để trở về với dân Tộc mới mong còn nước không? Làm sao mà trách được người dân không đứng lên đấu tranh để giành quyền giữ nước và xây dựng lại cơ đồ cho mai hậu chứ… PHAM VAN TUNG * Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.  
......

Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam lên tiếng đòi thả tù nhân yêu nước

BẢN LÊN TIẾNG Của các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam Nhà cầm quyền Cộng sản đang dùng nhà tù ngược đãi những thanh niên yêu nước Yêu cầu đưa sinh viên tù nhân Đỗ Thị Minh Hạnh ra ngoài chữa bệnh Kính gởi: - Quý vị hữu trách trong Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. - Quý Chức sắc và Tín đồ Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và Tin Lành. - Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước. - Quý Chính phủ các Quốc gia dân chủ. - Quý Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Hội đồng nhân quyền Đông Nam Á - Quý Tổ chức Nhân quyền quốc tế. - Quý Cơ quan truyền thông quốc tế và quốc nội Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam - Xét rằng tại Việt Nam hiện nay có quá nhiều thanh niên yêu nước, bất đồng chính kiến bị nhà cầm quyền bắt giam và xử tù nặng bằng những lý cớ tùy tiện, những bản án oan sai, hoàn toàn trái ngược và vi phạm các Công ước quốc tế Nhân quyền, Hiến pháp và Luật hiện hành. Họ là 14 thanh niên sinh viên Công giáo và Tin Lành, là luật sư Lê Quốc Quân và doanh nhân Lê Đình Quản, là các blogger Đinh Nhật Uy và Đinh Nguyên Kha, là các nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, là những người đấu tranh cho công nhân Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương và Đỗ Thị Minh Hạnh, và còn nhiều thanh niên khác. - Xét rằng các thanh niên yêu nước này chỉ làm những gì Hiến pháp không cấm đoán như rải truyền đơn kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử trá hình, viết bài trên mạng cổ vũ dân chủ tự do, báo động tình trạng xâm chiếm lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam của Trung Cộng, tham gia các hội đoàn, đảng phái chính trị phi cộng sản cũng như bảo vệ quyền lợi công nhân và dân oan…. - Xét rằng các thanh niên yêu nước đang bị tù đầy đã đóng góp nhiều cho cộng đồng về truyền thông chân thực, bác ái từ thiện, bênh vực dân oan, bảo vệ quyền lợi cho các công nhân, góp phần xây dựng một nền chính trị đa nguyên đa đảng lành mạnh. - Xét rằng giám thị và quản giáo tại các nhà tù đã nhiều lần dùng uy quyền, bạo lực và gian dối để hành hạ các tù nhân lương tâm, ngõ hầu tàn hại thân thể họ và nhất là đánh gục tinh thần họ (buộc họ phải nhận tội cách vô lý vô luật), như những gì tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh đang phải chịu. Với ý thức trách nhiệm công dân trước tình trạng trên và trong vai trò hướng dẫn tinh thần cho tín đồ giáo dân, Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt Nam lên tiếng: 1. Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam thả ngay những người trẻ yêu nước, bất đồng chính kiến nói trên: 14 thanh niên Công giáo và Tin lành, Lê Quốc Quân, Lê Đình Quản, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh, và nhiều thanh niên khác đang bị giam trong các nhà tù Việt Nam. 2. Yêu cầu nhà cầm quyền không được dùng các phạm nhân hình sự để tấn công hành hạ các tù nhân lương tâm như đã xảy ra với nhiều thanh niên nói trên, nhất là không được dùng nhà tù với những biện pháp nhục hình, tra tấn để tiếp nối công việc của công tố là buộc họ phải nhận tội. Ngoài ra, phải đưa họ đi bệnh viện hay cho họ tại ngoại để chữa lành thương tích và bệnh tật. Trường hợp đáng quan tâm hiện nay là Đỗ Thị Minh Hạnh. 3. Thỉnh cầu các tổ chức nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Quốc tế và các quốc gia giám sát việc thực thi nhân quyền ở Việt Nam, nhất là kịp thời ngăn cản sự ngược đãi và tra tấn tù nhân dưới mọi hình thức đang diễn ra ở Việt Nam, đồng thời buộc nhà cầm quyền Việt Nam tuân thủ các tiêu chuẩn nhân đạo của Liên Hiệp Quốc về nhà tù. 4. Thỉnh cầu các hãng truyền thông, thông tấn quốc tế và quốc nội, thuộc chính phủ và tư nhân kịp thời đưa tin về những vi phạm nhân quyền tại các nhà tù ở Việt Nam, và chất vấn nhà cầm quyền về trách nhiệm đã cho phép hay để xảy ra tình trạng ngược đãi tù nhân dưới mọi hình thức. Làm tại Việt Nam, ngày 30.08.2013 CÁC CHỨC SẮC TÔN GIÁO VIỆT NAM Đồng ký tên - Cụ Lê Quang Liêm, Hội trưởng PGHH (đt: 0199.243.2593) - Hòa thượng Thích Không Tánh, Phật giáo (đt: 0165.6789.881) - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi, Công giáo (đt: 0984.236.371) - Linh mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Công giáo (đt: 0935.569.205) - Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Công giáo (đt: 0993.598.820) - Chánh trị sự Hứa Phi, Cao Đài giáo (đt: 0163.3273.240) - Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (đt: 0988.971.117) - Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (đt: 0988.477.719) - Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa (đt: 0949.275.827) - Mục sư Hồ Hữu Hoàng (đt: 0902.761.057) - Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng (đt: 0906.342.908) - Ông Phan Tấn Hòa, PGHH (đt: 0162.630.1082) - Ông Trần Nguyên Hưởn, PGHH (đt: 0167.341.0139) - Mục sư Lê Quang Du, Tin Lành (đt: 0121.2002.001) - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (đt: 0162.838. 7716)
......

Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Tuyên bố về Nghị định 72 của CSVN Vi Hiến

Tuyên bố về Nghị định 72 vi hiến vô luật của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam Kính gởi: - Quý Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước. - Quý Chính phủ các Quốc gia tự do dân chủ. - Quý Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. - Quý Tổ chức Nhân quyền hoàn vũ. - Quý Cơ quan truyền thông quốc tế và quốc nội. Chúng tôi, Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, những công dân nước Việt Nam, đồng thời là những chức sắc Công giáo, đang sử dụng Internet như một phương tiện thu thập và chia sẻ mọi điều hữu ích tốt đẹp có trên xa lộ thông tin toàn cầu, để hoàn thành vai trò lãnh đạo tinh thần của mình là công bố sự thật, bênh vực lẽ phải, cổ vũ tình thương. I- Chúng tôi nhận thấy Nghị định do nhà cầm quyền Việt Nam ban hành ngày 15-07-2013, hiệu lực ngày 01-09-2013, mang số 72/2013/NĐ-CP (gọi tắt là Nghị định 72)  nhằm “quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng” có nhiều nội dung trái ngược hoặc tạo cớ áp dụng trái ngược với Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, với Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam.           1- Trước hết, Điều 5 Nghị định trình bày các hành vi bị cấm gồm "chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo" cũng như "đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân". Như trong nhiều văn kiện pháp luật khác của CHXHCN Việt Nam, đây là những quy kết hết sức mơ hồ, giúp nhà cầm quyền có thể tùy nghi giải thích và dễ dàng trừng phạt các công dân mạng bị cho là nguy hại tới chế độ Cộng sản.             2- Điều 20 Nghị định -khởi từ kiểu phân loại không giống ai: trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện tử cá nhân và trang thông tin điện tử ứng dụng- đã định nghĩa “Trang thông tin điện tử cá nhân là trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch vụ mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông tin của chính cá nhân đó, không đại diện cho tổ chức hoặc cá nhân khác và không cung cấp thông tin tổng hợp”. Đây là một định nghĩa hết sức vô lý, tùy tiện và hàm hồ nhằm cấm cản các blogger và những người sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Twitter… (hiện tới hàng chục triệu tại Việt Nam) không được trích dẫn, bình luận, phổ biến các thông tin từ Nhà nước hay từ bất cứ của ai, nơi đâu.           3- Điều 25 Nghị định đòi buộc các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội phải “loại bỏ hoặc ngăn chặn thông tin có nội dung vi phạm quy định tại Điều 5…; Cung cấp thông tin cá nhân và thông tin riêng của người sử dụng khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước…; Có ít nhất 01 hệ thống máy chủ đặt tại Việt Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, lưu trữ, cung cấp thông tin…; Đăng ký, lưu trữ và quản lý thông tin cá nhân của người thiết lập trang thông tin điện tử cá nhân và người cung cấp thông tin khác trên mạng xã hội…; Báo cáo theo quy định và chịu sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền…” Đây là một biện pháp cưỡng bức các công ty Internet trên toàn cầu và tại Việt Nam phải hợp tác với chính sách tăng cường đàn áp tự do ngôn luận và tự do Internet của nhà cầm quyền CS.           4- Tất cả những điều trên đây đi ngược lại:           a- Điều 19 Tuyên ngôn Nhân quyền Liên Hiệp Quốc 1948 (mà Việt Nam chấp nhận khi trở nên thành viên của Tổ chức Quốc tế này năm 1977): “Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.           b- Điều 19 Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị 1966 (mà Việt Nam tham gia năm 1982): “Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”.           c- Điều 69 Hiến pháp 1992 (mà nhà cầm quyền đang kêu mời toàn dân góp ý sửa đổi để hoàn thiện vào năm 2013): “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình…”           Đó là chưa kể Nghị định còn trái với Luật Công nghệ Thông tin ngày 29 tháng 6 năm 2006.           II- Chúng tôi tuyên bố:           1- Phản đối Nghị định 72, vì nó cấm cản và giới hạn quyền tự do ngôn luận lẫn tự do internet, khôi phục bức tường bưng bít thông tin, củng cố cây kéo kiểm duyệt của chế độ độc tài, nhằm thực hiện chính sách “ngu dân để dễ trị” của nhà cầm quyền Cộng sản.           Nghị định cũng có mưu đồ ngăn chận sự hình thành (trên mạng rồi trong xã hội) các tổ chức dân sự, các chính đảng, khối nhóm, đoàn thể hiện rất cần thiết để liên kết đấu tranh chống lại vô thần áp bức, độc đảng toàn trị, chống lại việc đảng hóa Tân Hiến pháp.           Nguy hiểm hơn hết, Nghị định nhắm đánh sụt dân trí, tiêu diệt dân khí và tàn hại dân sinh, vì khiến người dân hoàn toàn mù mờ và bất động trước những sai trái và tội ác của nhà cầm quyền cũng như trước những lộng hành và xâm lấn của lân bang Bắc phương, đồng thời khiến cho nền kinh tế quốc dân -dựa trên sự trao đổi thông tin tự do- không thể phát triển.           2- Yêu cầu Quốc hội -theo nguyên tắc là quyền lực tối cao- đòi buộc Chính phủ phải lập tức hủy bỏ các điều trong Nghị định vi phạm các Tuyên ngôn và Công ước Quốc tế Nhân quyền cũng như vi phạm Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.           3- Đòi hỏi nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do lập tức và vô điều kiện cho những tù nhân lương tâm cũng như phải chấm dứt áp bức sách nhiễu những công dân yêu nước đã và đang hành xử quyền tự do ngôn luận và tự do internet.           4- Kêu mời mọi công dân Việt Nam và mọi tín hữu tôn giáo hãy mạnh mẽ thực thi quyền tự do ngôn luận và quyền tự do internet, trở thành những nhà báo độc lập trên mạng, để truyền bá những tư tưởng dân chủ, những giáo lý xây đời, để hình thành những tổ chức/xã hội dân sự rất cần thiết cho đất nước hiện nay.           5- Kêu mời Liên hiệp quốc hãy ngăn cản Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền năm tới, chính phủ Hoa Kỳ hãy tiếp tục đặt nhân quyền như điều kiện để Việt Nam gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương, các Cơ quan Nhân quyền quốc tế hãy tiếp tục chất vấn và áp lực lên nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội.           Làm tại Việt Nam, ngày 29 tháng 08 năm 2013, lễ Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết vì lên tiếng cho công lý, đạo đức và sự thật.           Đại diện Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền:           - Linh mục Phêrô Nguyễn Hữu Giải           - Linh mục Phêrô Phan Văn Lợi           - với sự hiệp thông của Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý đang ở trong lao tù Cộng sản.  
......

Từ một cậu bé đánh giày đã trở thành một vị tổng thống của quốc gia Ba tây (brazil) nhờ giàu lòng nhân ái.

Mẫu chuyện đáng để chúng ta suy gẫm trong cuộc sống.Xin mời các bạn theo dõi. Cách chia hai đồng bạc... Chú bé Lula ,sinh ra vào tháng 10 năm 1945, tại 1 gia đình nông dân ở Ba-Tây ( Brazil ) . Luiz Inácio Lula da Silva  tổng thống Brazil ( 2002 - 2010 ) Vì nhà nghèo, nên từ lúc mới 4 tuổi, thằng nhỏ đã phải đi bán đâu phụng ngoài đường, nhưng vẫn quần áo tả tơi, và thiếu ăn . Sau khi được lên tiểu học, lúc đó đã dọn lên thủ đô Rio de Janeiro, sau buổi học chú bé thường hay cùng với 2 người bạn cùng lứa đi đánh giầy ở đâu đường, hôm nào không có khách, thì coi như là nhịn đói. Năm 12 tuổi, vào 1 buổi xế chiều, có 1 người khách, là chủ 1 tiệm giặt ủi và nhuộm áo quần đến chiếu cố, 3 đứa trẻ chạy lại chào hàng. Ông chủ tiệm nhin vào 3 cặp mắt van xin khẩn khoản đó, không biết quyết định chọn đứa nào. Cuối cùng ông ta nói : Đứa nào cần tiền nhất, thì tôi cho nó đánh giầy, và sẽ trả công 2 đồng. Công đánh 1 đôi giầy chỉ có 20 xu, 2 đồng đúng là 1 món tiền rất lớn. 3 cặp mắt đều sáng lên.   Một đứa nhỏ nói : từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì cả, nếu không kiếm được tiền hôm nay, cháu sẽ chết đói ! Đứa khác nói : "Nhà cháu đã hết thức ăn từ 3 ngày nay, mẹ cháu lại đang bệnh, cháu phải mua thức ăn cho cả nhà tối nay, nếu không thì lại bị ăn đòn…“ . Cậu Lula nhìn vào 2 đồng bạc trong tay ông chủ tiệm, nghĩ ngợi 1 lúc, rồi nói : “Nếu cháu được ông cho kiếm 2 đồng này, thì cháu sẽ chia cho 2 đưá đó mỗi đứa 1 đồng !!”Câu nói của Lula làm Ông chủ Tiệm và 2 đứa nhỏ kia rất là ngạc nhiên. Cậu giải thích thêm: “Tụi nó là bạn thân nhất của cháu, đã nhịn đói hết 1 ngày rồi, còn cháu thì hồi trưa còn ăn được ít đậu phụng, nên có sức đánh giầy hơn chúng nó, Ông cứ để cháu đánh đi, chắc chắn Ông sẽ hài lòng” Cảm động trước câu nói của thằng nhỏ, Ông chủ tiệm đã trả cho hắn 2 đồng bạc, sau khi được hắn đánh bóng đôi giầy. Và thằng nhỏ Lula giữ đúng lời, đã đưa ngay cho 2 đứa bạn mỗi đứa 1 đồng. Vài ngày sau, Ông chủ Tiệm đã tìm đến thằng nhỏ Lula, nhận chú bé cứ sau buổi tan học là đến học nghề ở tiệm giặt nhuộm của ông ta, và bao cả bữa cơm tối. Tiền lương lúc học nghề tuy là rất thấp, nhưng so với đánh giầy thì khá hơn rất nhiều. Thằng bé hiểu rằng : Chính vì mình đã đưa tay giúp đỡ những người khốn đốn, nên mới đem đến cho mình cơ hội làm thay đổi cuộc đời. Từ đó, miễn là có khả năng, chú bé Lula không ngần ngại giúp đỡ những người sống khốn khổ hơn mình. Sau, Lula nghỉ học đi làm thợ trong 1 nhà máy, để bênh vực cho quyền lợi của những người thợ, cậu ta tham gia vào công-đoàn, năm 45 tuổi, Lula lập ra đảng Lao-Công. Năm 2002, trong cuộc ứng cử tổng-thống, khẩu hiệu của Lula là : Ba bữa cơm no cho tất cả những người trong quốc gia này. Và đắc cử làm Tổng Thống xứ Brazil. Năm 2006 đắc cử nhiệm kỳ 2, cho 4 năm tới. Trong 8 năm tại chức, Ông ta đã thực hiện đúng lời mình đã hứa : -93% trẻ em và 83% người lớn ở nước này được no ấm. Thực hành đúng tâm niệm : giúp đời !! Và nước Ba-tây dưới sự lãnh đạo của Ông đã không còn là "con khủng long nhai cỏ" mà đã trở nên "Con mãnh sư Mỹ Châu". Và xây nên nền kinh tế đứng thứ 10 trên thế giới. Luiz Inácio Lula da Silva : đó là tên của vị tổng thống Brazil ( 2002 - 2010 ) Nguồn: facebook.com/radiochantroimoi
......

Hành trình của Tuyên bố 258

Là một trong những người ký vào bản tuyên bố 258, đương nhiên tôi nhận lời tham gia  trao tuyên bố này cho sứ quán Đức, vào sáng ngày 28/8. Thú thực, tuy các cuộc trao tuyên bố 258 trước đó cho các sứ quán Thụy Điển, Úc, Mỹ đều diễn ra bình thường, nhưng tôi vẫn khá hồi hộp. Tôi chỉ nghĩ duy nhất về một điều: làm thế nào để đến được đó? Blogger Phương Bích và Hiền Giang trao Tuyên bố 258 cho đại diện ĐSQ Đức - ông Felix Schwarz và Jonas Koll   Sáng 28/8, tôi vẫn vào mạng bình thường. Vừa vào facebook đăng một status xong thì đọc được một tin khác, rằng quanh sứ quán Đức hiện có rất nhiều công an, an ninh, dân phòng.   Tim tôi đập thình thịch một cách vô thức. Chứng kiến hôm sứ quán Mỹ cho xe đến đón luật sư Nguyễn Văn Đài bất thành, tôi nghĩ chẳng có gì đảm bảo là họ sẽ không chặn chúng tôi ngay từ vòng ngoài. Tôi bắt đầu tính toán xem đi bằng phương tiện gì? Mặc thế nào để che được cái áo có logo 258? Rốt cuộc, tôi chọn phương án đi taxi, và mặc trùm ra ngoài cái áo 258 bằng một cái áo khác. Mở cửa ra, thấy hành lang trống trơn, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Đi nhanh xuống dưới nhà, bắt taxi và ngồi trên xe rồi, tim tôi mới đập trở lại bình thường. Vì quá hồi hộp, tôi đến chỗ hẹn sớm mất nửa tiếng. Chui vào một hàng quần áo giảm giá, mua 2 cái và xin ngồi nhờ để nhìn ra ngoài quan sát. Gần đến giờ, tôi mới lò dò ra chỗ hẹn. Chưa kịp uống cốc nước thì đã có tin, người của sứ quán đang chờ chúng tôi ngoài cổng, thế là lên taxi đi ngay. Nói thế nhưng đến được đây rồi mà vẫn còn hồi hộp lắm. Đến gần sứ quán, từ xa đã thấy mấy người đàn ông cả tây lẫn ta đang đứng trên vỉa hè, ngay trước cổng sứ quán. Cuống quá, chúng tôi bảo xe tạt vào gần chỗ họ. Chiếc xe vừa láng vào bên trái đường thì lái xe lại bảo không được, đỗ thế này công an phạt chết. Thế là chiếc xe lại phải đi quá lên trên để tạt vào bên lề phải. Thấy chiếc xe láng vào rồi lại láng ra, mấy người Đức tưởng có vấn đề gì, nên vội đi sang đường để đón chúng tôi. Nhưng chúng tôi xuống xe rất nhanh và đi sang đường. Lúc đó lưu lượng xe trên đường rất đông, những người Đức đã sang đến nửa đường, thấy vậy cũng quay trở lại. Ngay lúc đó, tôi đã cảm thấy được che trở, mặc dù mình đang đứng ngay trên đất nước mình. Một cái gì đó ấm áp, tin cậy khiến tôi rất xúc động. Những lính gác người Việt tiến đến, yêu cầu chúng tôi xuất trình giấy tờ. Nhưng những người Đức ngăn lại, lắc đầu ra hiệu không cần và đưa 5 người phụ nữ chúng tôi vào bên trong. Những người anh em đi theo chúng tôi đứng đợi ở bên ngoài, cùng với tất cả các lực lượng an ninh chìm nổi. Vào đến phòng, qua giới thiệu, chúng tôi mới biết những người Đức đứng đợi chúng tôi ngoài cổng chính là các ngài tham tán và trưởng phòng văn hóa chính trị của sứ quán Đức. Thực sự tôi rất ngạc nhiên. Họ là đại diện cho một trong những đất nước được coi là văn minh hàng đầu thế giới, nhưng lại sẵn sàng đứng đợi những người dân thường như chúng tôi, để đón tiếp và lắng nghe những nguyện vọng tâm tư của những người chẳng có một chút địa vị nào trong xã hội. Đến bao giờ, quan chức Việt Nam mới đón tiếp người dân của mình được như thế này? Ngài tham tán nói, ông và các đồng sự sẵn sàng dành thời gian còn lại trong ngày để tiếp chúng tôi. Đương nhiên, mục đích chính của chúng tôi đến đây là chỉ để trao cho sứ quán Đức tuyên bố 258 của mạng lưới blogger, đề nghị chính phủ Đức bằng con đường ngoại giao, yêu cầu chính phủ Việt Nam thực hiện các cam kết về nhân quyền mà luật pháp Việt Nam và Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đang hướng tới vị trí trong HĐNQ nhiệm kỳ 2014-2016... Việc trao tuyên bố thì đơn giản. Ngài tham tán hỏi chúng tôi đến đây bằng cách nào? Có gặp khó khăn gì không? Việc chúng tôi bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội như thế nào? Có đề nghị gì thêm không? Ngay từ đầu, ngài tham tán đã giới thiệu về mình và các đồng sự. Bây giờ đến lượt chúng tôi giới thiệu về mình. Bốn trong năm người chúng tôi thì đơn giản, nhưng đến lượt Hoàng Vi kể về mình, mắt tôi bỗng nhòe đi, vì thực ra có những điều đến bây giờ tôi mới biết. Cổ họng tôi nghẹn lại khi hình dung ra những gì mà cô gái nhỏ bé nhưng kiên cường này đã phải chịu đựng, suốt từ năm 2006 đến nay. Giọng Hoàng Vi nghẹn lại, run rẩy, những giọt nước mắt lăn trên má Vi. Một người Đức trẻ vội đứng dậy, đặt trước mặt chúng tôi một hộp khăn giấy. Bỗng nhiên tôi thấy tủi thân ghê gớm. Đất nước mình lúc nào cũng tự hào có 4000 năm lịch sử, vậy mà hôm nay con cháu Người vẫn nghèo khổ, vẫn thua xa thiên hạ một trời một vực. Bên cạnh họ, năm người phụ nữ chúng tôi đủ lứa tuổi, thật nhỏ bé và yếu đuối. Có lẽ những điều đang xảy ra với chúng tôi và những người dân Việt Nam đang phải chịu đựng, thật xa lạ và khó hiểu đối với họ. Chúng tôi không đề nghị gì thêm, chỉ nói rằng mặc dù muốn có một xã hội tốt đẹp hơn, phải do chính người dân chúng tôi đấu tranh để giành lấy. Nhưng việc giúp đỡ từ quốc tế là rất cần thiết và quan trọng (chiến tranh ở Việt Nam có thể kết thúc được, là nhờ rất nhiều sự giúp đỡ từ bên ngoài, chứ đâu chỉ bằng tinh thần không thôi?). Chúng tôi cũng thật sự vui mừng, khi ngài tham tán nói, chính phủ Đức và liên minh Châu Âu tỏ ra rất quan ngại và đã gửi một thư yêu cầu tới chính phủ Việt Nam, về những vấn đề trong nghị định 72/NĐ-CP của chính phủ Việt Nam, hạn chế quyền tự do thông tin (internet) của người dân. Ngài tham tán cũng nói, Liên Hiệp Quốc có các cuộc họp thường niên tại Genever, để giám sát việc thực hiện nhân quyền của các nước thành viên, và chúng tôi hoàn toàn có thể gửi thư kiến nghị tới hội nghị về việc trên. Mặc dù chúng tôi có thời gian là cả buổi chiều, nhưng chúng tôi không muốn làm mất thời gian quý báu của ngài tham tán và các đồng sự của ông. Thêm nữa, hẳn bạn bè chúng tôi đang rất sốt ruột ở bên ngoài, nên chúng tôi xin cáo từ. Mọi người ra chụp ảnh làm kỷ niệm, nhờ máy tính của sứ quán để gửi những hình ảnh lên mạng, vì e rằng sẽ có thể bị an ninh trấn lột máy ảnh, máy tính. Chúng tôi rất cảm động khi thấy các quan chức và nhân viên sứ quán đã lo lắng cho chúng tôi khi đề nghị đưa chúng tôi về bằng xe của sứ quán. Thậm chí ngài tham tán còn hỏi, có cần họ đi cùng không. Nhưng sứ mệnh của chúng tôi đã hoàn thành. Chúng tôi cảm ơn thịnh tình của các ngài và lên xe ra về. Bạn bè của chúng tôi vẫn đợi ở bên ngoài, và trước mắt các lực lượng an ninh, họ đi xe máy hộ tống chúng tôi tới cafe Highland ở cạnh Nhà hát lớn. Lúc đó là 1 giờ chiều. Xin lỗi, tất cả chúng tôi đều đói lắm rồi. Có thể ai đó cười mỉa mai, rằng sao phải cầu tới ngoại bang? Nếu vậy, xin hầu các quý vị vào dịp khác. bloger Phương Bích Nguồn: chimkiwi.blogspot.de
......

Đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam gặp gỡ với Tòa Đại Sứ Đức tại Hà Nội

Vào sáng nay, thứ tư, 28/8, một số đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) sẽ có một buổi tiếp xúc và trao đổi với Đại sứ quán Đức. Đây là tiếp nối nỗ lực của MLBVN trong việc vận động quốc tế quan tâm đến bản Tuyên bố 258, yêu cầu nhà nước Việt Nam hủy Điều 258 BLHS, trong bối cảnh Việt Nam đang tranh cử để trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc. MLBVN sẽ cập nhật tin tức đến các bạn từ giờ cho đến chấm dứt buổi tiếp xúc. Được biết vào 7h sáng hôm nay an ninh TP. Hà Nội đã trao giấy mời và yêu cầu blogger Nguyễn Chí Đức lên đồn công an làm việc liên quan đến vấn đề công dân Việt Nam Nguyễn Chí Đức đã cùng với các blogger Trịnh Anh Tuấn, Đào Trang Loan, Nguyễn Hoàng Vi, và Nguyễn Đình Hà trao Tuyên bố 258 cho Đại sứ quán Australia vào ngày 23 tháng 8 vừa qua. Anh Nguyễn Chí Đức đã từ chối yêu cầu này của công an. Xin nhắc lại trong thời gian qua, nhiều đại diện khác nhau từ khắp ba miền đất nước của MLBVN đã tiếp xúc với các đại diện của Cao uỷ Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền (OHCHR), Liên minh Báo chí Đông Nam Á (SEAPA), Tổ chức Giám sát Nhân quyền (HRW), Ủy ban Luật gia quốc tế (ICJ), Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ), Tổ chức Người Bảo vệ Tuyến đầu (Front Line Defenders), Đại sứ quán các nước Mỹ, Thụy Điển và Australia. Bên cạnh đó, hôm Chủ nhật vừa rồi các thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam cũng đã tổ chức gặp mặt "Cafe 258" tại Hà Nội và Sài Gòn. * 10h20: Các đại diện cho Mạng lưới Blogger Việt Nam đến ĐSQ: Chị Đặng Bích Phượng (Phương Bích), Nguyễn Hoàng Vi, chị Lê Hiền Giang, Lê Thị Phương Lan  và Đào Trang Loan Vào lúc 10h28 các bạn đã vào bên trong ĐSQ Đức, 2 phút trước giờ hẹn chính thức. Ra tận ngoài cổng tiếp phái đoàn đại diện blogger Việt Nam là hai quan chức cao cấp của ĐSQ. * Được biết, Đại sứ quán Đức tỏ ra rất quan tâm đến bản Tuyên bố 258. Cuộc gặp được chuẩn bị chu đáo. Trước giờ gặp, hai quan chức cấp cao của Sứ quán đã ra tận cổng, chờ ở ngoài đường để đón các blogger vào - đề phòng trường hợp họ bị lực lượng công an cản trở. Điểm đặc biệt của buổi gặp hôm nay là các blogger đến Sứ quán gồm toàn phụ nữ. Đó là các blogger Đặng Bích Phượng (blog Phương Bích), Lê Hiền Giang (Sông Quê), Lê Thị Phương Lan (Lan Lê), Đào Trang Loan (Hư Vô), và Nguyễn Hoàng Vi (An Đổ Nguyễn). Blogger Phương Bích được biết đến qua nhiều bài viết về các vấn đề chính trị-xã hội và cả đời sống thường nhật, với giọng văn trong sáng, dung dị, chân thật và rất nữ tính. Ngày 21/8/2011, chị là một trong 47 blogger ở Hà Nội bị bắt vì tham gia biểu tình chống Trung Quốc. Chị bị giam 6 ngày trong Hỏa Lò, và khi được tự do, đã viết loạt bài nổi tiếng“Bước chân vào chốn ngục tù” gây xúc động cho nhiều độc giả mạng. Hai blogger Lan Lê và Sông Quê đều là thành viên tích cực của câu lạc bộ No-U và phong trào biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội. Sinh năm 1991, blogger Hư Vô còn rất trẻ nhưng đã tham gia tích cực trong các hoạt động xã hội như làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo, và biểu tình chống chính sách gây hấn của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đầu năm nay, dịp trước Tết Nguyên đán, Hư Vô đi phân phát quà Tết cho dân oan vô gia cư, và bị công an Hà Đông bắt giam vô cớ trong đồn. Chỉ cho đến khuya, sau khi các blogger kéo đến và phản đối quyết liệt, công an mới thả cô gái trẻ. An Đổ Nguyễn, sinh năm 1987, cũng là một blogger rất nhiệt tình, năng nổ trong các hoạt động đấu tranh và vận động cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô từng tham gia phân phát Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền trong ngày dã ngoại 5/5 vừa qua, sau đó có xô xát với công an và bị sách nhiễu thường xuyên từ đó tới nay. * Tường trình buổi gặp gỡ: ĐSQ Đức nhiệt tình lắng nghe và chia sẻ với blogger Cuộc gặp của 5 thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam với Đại sứ quán Đức tại Việt Nam đã diễn ra rất tốt đẹp ngay từ đầu, với việc quan chức cấp cao của Sứ quán đích thân ra tận cổng đón các blogger trước sự chứng kiến của ít nhất 30 nhân viên công an. Theo dự kiến, cuộc gặp diễn ra vào lúc 10h sáng nay, 28/8. Tuy nhiên, từ sáng sớm, người của sứ quán đã xác nhận có tới 25 công an đứng ngồi rải rác quanh khu vực. 10h, khi taxi chở nhóm blogger dừng lại trước cổng tòa nhà, các nhân viên công quyền này lập tức đổ xô tới, chĩa máy quay phim, máy ảnh vào mọi người. Hai quan chức (người Đức) của Đại sứ quán cũng đã chờ sẵn để đón các blogger, nhưng khi họ đưa blogger qua cổng thì có hai người mặc sắc phục trong lực lượng an ninh chặn nhóm blogger lại, buộc phía sứ quán phải can thiệp. Cuối cùng, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam cũng vào được bên trong, nhờ sự giúp đỡ tận tình của Sứ quán. Như MLBVN đã đưa tin, cuộc gặp hôm nay có 5 blogger và đều là các gương mặt nữ, đó là: Đặng Bích Phượng (tức blogger Phương Bích), Lê Hiền Giang (facebooker Sông Quê), Lê Thị Phương Lan (Lan Lê), Nguyễn Hoàng Vi (An Đổ Nguyễn) và Đào Trang Loan (Hư Vô). Phía Đại sứ quán Đức, có ông Felix Schwarz, Lãnh sự và tham tán chính trị, và ông Jonas Koll, Bí thư thứ nhất phụ trách Văn hóa, Báo chí và Chính trị. “Chúng tôi ở bên các bạn” Hai tiếng của cuộc trò chuyện đã diễn ra trong không khí ấm áp và đầy chia sẻ, với nhiều chi tiết xúc động. Blogger Nguyễn Hoàng Vi kể lại, trong lúc vội vàng ra khỏi taxi để tìm cách vào trong Đại sứ quán, các blogger đã để quên bản Tuyên bố 258 trên xe. Tuy nhiên, khi biết việc này, “bên sứ quán Đức không hề giận mà họ lại rất cảm thông, vì họ cảm nhận được sự nguy hiểm, khi mà bên ngoài cổng, trên vỉa hè, có rất nhiều an ninh trang bị camera, máy chụp hình. Họ nói họ đã in sẵn Tuyên bố 258 và blogger có thể dùng bản in sẵn đó để trao cho họ”. Các blogger bắt đầu làm việc với đại diện sứ quán Đức Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll cũng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến tình trạng bị đàn áp của từng cá nhân blogger có mặt, kể cả những nguy hiểm, trục trặc về an ninh trên đường tới Sứ quán dự buổi gặp. Cả hai ông đều cảm thấy “không thể tưởng tượng nổi” khi nghe các blogger trình bày sơ qua về tình hình vi phạm nhân quyền – vốn diễn ra tràn lan ở Việt Nam những năm qua. Phía các blogger cũng khá ngạc nhiên khi biết rằng, Đại sứ quán Đức không đánh giá cao sự cải thiện nhân quyền ở Việt Nam qua phiên tòa phúc thẩm xét xử Phương Uyên hôm 16/8 vừa qua. Đức nhìn nhận rằng Việt Nam chỉ muốn làm đẹp hình ảnh bề nổi với dư luận quốc tế, trong khi ở bề chìm, tình hình đàn áp và bắt bớ vẫn tiếp tục. Về bản Tuyên bố 258, ra ngày 18/7/2013, của Mạng lưới Blogger Việt Nam, Đại sứ quán Đức cho rằng sự khách quan, đầy đủ và súc tích của Tuyên bố 258 sẽ giúp Mạng lưới thành công trong việc thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế; và Đức sẽ vận động để đưa Tuyên bố này ra phiên họp UPR tháng 1-2 năm tới tại Geneva (phiên họp tổng kết bản đánh giá định kỳ phổ quát – Universal Periodic Review – của Việt Nam với tư cách ứng viên vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc). Các blogger Việt Nam bày tỏ cảm ơn và trân trọng đối với thiện ý của Đại sứ quán Đức. Tuy nhiên, blogger Hoàng Vi phát biểu rằng: “Việc tự do thông tin, báo chí, ngôn luận ở Việt Nam bị xếp ở mức thấp nhất thế giới thực sự là điều khiến chính người Việt Nam phải trăn trở, suy nghĩ, bởi vì đó phần lớn là do ý thức của chính người dân Việt Nam chúng tôi.  Chỉ những nỗ lực của chính người dân Việt Nam mới có thể thay đổi, cải thiện được tình hình. Nhưng chúng tôi mong với vị thế và sức mạnh ngoại giao của các nước, cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ chúng tôi, trước mắt là giúp để Điều 258 vi phạm tự do ngôn luận phải bị bãi bỏ” – Hoàng Vi khẳng định. Cả 5 blogger nữ đều cảm nhận được sự cảm thông và chia sẻ rất lớn từ Đại sứ quán Đức. Không ai nói thành lời nhưng dường như mọi cử chỉ, mọi hành động của hai nhà ngoại giao đại diện cho nước Đức đều toát lên một điều: Chúng tôi ở bên các bạn, những blogger đấu tranh cho nhân quyền của người dân Việt Nam. Buổi gặp kết thúc với việc Đại sứ quán Đức cho biết sẽ cùng Liên minh Châu Âu đặt vấn đề để Chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 258 Bộ luật Hình sự cũng như những điều luật vi phạm nhân quyền khác... ... Đã quá trưa. Trước cổng, rất đông an ninh Việt Nam vẫn đứng chờ các blogger. Đại sứ quán đề nghị dùng xe công vụ đưa mọi người về nhà, thậm chí bố trí người của sứ quán đi cùng để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, các blogger chỉ xin được hỗ trợ xe. Đôi bên bịn rịn chia tay. Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll tiễn cả nhóm ra tận xe, rồi mới quay trở vào. Blogger Hư Vô, Hiền Giang,  Felix Schwarz - Lãnh sự và Tham tán chính trị,  Jonas Koll - Bí thư thứ nhất phụ trách Văn hoá, Báo chí và Chính trị, Phương Bích, Hoàng Vi, và Phương Lan   Blogger Phương Bích và Hiền Giang trao Tuyên bố 258 cho đại diện ĐSQ Đức - ông Felix Schwarz và Jonas Koll Ông Felix Schwarz và blogger Hư Vô - Đào Trang Loan Ông Felix Schwarz và blogger Nguyễn Hoàng Vi Các nhân viên ĐSQ Đức đã tận tình cho xe đưa các bạn từ ĐSQ về tận Nhà hát lớn Mạng lưới Blogger Việt Nam tuyenbo258.blogspot.comtuyenbo258@gmail.comhttp://tuyenbo258.blogspot.de/
......

Người Việt phải đuổi kịp dân Campuchia

Từ ba bốn chục năm nay dân Việt Nam đã biết mình thua kém dân các nước Nam Hàn, Đài Loan, Thái Lan. Biết như vậy cũng thấy tủi, nhưng còn có thể đổ tại số mạng không may, đành chịu. Nhưng khi nhìn thấy dân mình không may mắn bằng dân Miến Điện, thì nhiều người đã nóng mặt. Năm ngoái, nước Miến Điện bắt đầu tiến trình dân chủ hóa, đảng đối lập thắng gần hết các đơn vị bầu cử bổ túc; cả thế giới theo dõi với con mắt ngưỡng mộ. Còn dân mình, chẳng biết bao giờ mới được bầu người đại diện thật sự vào Quốc Hội! Nay lại đến dân Campuchia. Trong cuộc bỏ phiếu tháng trước, đảng đối lập bỗng nhiên thắng lớn, đã thổi lên một luồng gió mới vào sinh hoạt chính trị. Lý do chính khiến chính quyền Hun Sen thất bại là vì dân đã chán ghét nạn tham nhũng, lạm quyền của đảng Nhân Dân của ông ta; cũng như tình trạng lệ thuộc Trung Cộng và Việt Cộng. Dân Campuchia đã có cơ hội bày tỏ thái độ bằng lá phiếu. Còn dân Việt, bao giờ mới có một cơ hội như thế? Campuchia bầu cử quốc hội ngày 28.7 Thua Đài Loan, Đại Hàn, Phi Luật Tân đã xấu hổ. Nay thấy mình thua cả dân Miến Điện, dân Campuchia, chắc người Việt phải thấy tủi nhục. Nhất là những người biết suy nghĩ, có học, và dám nói. Một người 45 tuổi đảng lên tiếng kêu gọi các đảng viên bỏ đảng Cộng sản để lập đảng mới, cũng nêu trường hợp Camphuchia ra làm thí dụ, cho thấy người ta đã tiến bộ hơn mình. Sau cú sốc Miến Điện, cú sốc Campuchia sẽ giúp nhiều đảng viên cộng sản Việt Nam tỉnh ngộ hơn. Chắc hẳn Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam cũng lo lắng khi nhìn kết quả cuộc bầu cử ở Campuchia ngày 28 Tháng Bảy năm 2013. Trước hết, nó cho thấy thực lực của đảng cầm quyền không mạnh như chính họ vẫn nghĩ. Đảng Nhân Dân Campuchia có gần 6 triệu đảng viên, trong dân số dưới 15 triệu người. Nhưng kết quả kiểm phiếu chính thức cho thấy đảng chỉ được 3 triệu 200 ngàn lá phiếu; phe đối lập, Đảng Cứu Quốc được 2 triệu 900 ngàn phiếu! Trước ngày dân đi bầu, chính quyền Hun Sen đã mua chuộc cử tri bằng cách tăng lương 40% cho các công chức cấp thấp, nâng lên bằng 80 đô la một tháng. Vậy mà gần một nửa số đảng viên Đảng Nhân Dân đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên đối lập! Cuộc bỏ phiếu được các cơ quan quốc tế theo dõi, giám sát; nhưng phe đối lập đang tố cáo nhiều vụ gian lận. Có những cử tri đến phòng phiếu khám phá ra mình đã bỏ phiếu rồi! Tức là đã có người đi bỏ phiếu thay cho mình. Có người thì thấy tên mình biến mất, không còn trên danh sách cử tri! Điều thứ nhì khiến đảng Cộng sản Việt Nam run sợ, là lòng dân chống đối âm ỷ đã có dịp bùng lên. Trước đây, người ta vẫn tưởng dân Campuchia hiền lành, bảo sao nghe vậy. Nhưng khi có cơ hội, họ chứng tỏ họ có thể hiền lành thật nhưng không ngu. Đảng Cứu Quốc tập hợp Đảng Sam Rainsy và Đảng Nhân Quyền, mới lập năm 2007. Trước cuộc bầu cử này, hai đảng lần lượt có 26 và 3 đại biểu trong Quốc Hội. Nay dân đã bầu lên 55 đại biểu Đảng Cứu Quốc; so với 68 ghế của Đảng Nhân Dân, so với 90 ghế họ đã có. Dân chúng Phnom Penh đã đi biểu tình ngày 24 Tháng Tư đòi chính phủ tổ chức bầu cử tự do, dân chủ và công bằng. Cuộc biểu tình lớn nhất từ trước đến nay, 4,000 người tham dự, đòi thay đổi thành phần trong Ủy Ban Bầu Cử quốc gia. Ngày 12 Tháng Bảy, Quốc Vương Sihamoni ký lệnh miễn tội cho ông Sam Rainsy theo đề nghị của Hun Sen, ngày 19 ông về nước, được hàng trăm ngàn người tiếp rước. Rainsy quốc tịch Pháp, nơi ông sống từ lâu trước khi về nước năm 1991, lên làm bộ trưởng tài chánh trong chính phủ liên hiệp. Năm 1994 ông mất chức, vì chống chính sách cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam phá rừng, theo lời ông giải thích. Ông lập một đảng chính trị lấy tên Rainsy, rồi ông bị tuyên án 11 năm tù sau khi lưu vong bên Pháp từ năm 2009. Chắc Hun Sen tự tin quyền hành của mình đã vững chắc sau 28 năm làm thủ tướng, cho nên cứ cho Rainsy trở về mà không có quyền bầu cử và ứng cử. Nhưng dân Campuchia đã phản ứng khác. Giới thanh niên có học là thành phần dẫn đầu phong trào đòi thay đổi. Dùng Internet và điện thoại lưu động, họ cổ động cho đảng Cứu Quốc, thanh thế của đảng lan rộng nhờ mạng lưới tuyên truyền mới vượt qua mặt các báo, đài “lề phải” do đảng Nhân Dân kiểm soát. Vợ ông Rainsy là bà Tioulong Saumura cũng đắc cử. Khí thế phe đối lập lên cao đến nỗi nhiều người có tiền trong đảng cầm quyền đã lo sợ rút tiền ra khỏi ngân hàng, dân chúng nghe tin đồn bảo nhau đi rút theo; trong ngày bầu cử họ rút ra số tiền tổng cộng bằng 4 triệu đô la, gấp đôi số tiền rút bình thường. Một chiêu bài tranh cử của đảng Cứu Quốc là chống Cộng sản Việt Nam, đã được dân Campuchia hoan nghênh. Hun Sen vốn là một cán bộ Khờ Me Đỏ, sợ mất mạng trong các cuộc thanh trừng đã bỏ theo Việt Cộng, rồi được bọn Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh đưa lên làm thủ tướng. Sau đó Việt Cộng tiếp tục thao túng chính trường Campuchia, cho đến năm 1997 Hun Sen sợ quá đã quay đầu sang nhờ Trung Cộng giúp. Sam Rainsy lợi dụng nỗi bất mãn của dân đối với Cộng sản Việt Nam cho nên dùng chiêu bài chống người Việt trong cuộc tranh cử. Trong ngày bỏ phiếu, có tin đồn rằng nhiều đoàn xe chở người Việt Nam qua biên giới đi bỏ phiếu cho đảng của Hun Sen! Trên các mạng Internet có những lời phản kháng: “Dân Khờ Me không được bỏ phiếu, dân 'Duồn' đi bỏ phiếu!” Người Campuchia gọi người Việt là “Duồn;” một tên gọi miệt thị cũng giống nhiều người Việt đang gọi người Trung Hoa là “Khựa” trước cảnh chính quyền Trung Cộng lấn áp cả nước Việt Nam. Sau cuộc bầu cử, trong lúc đảng Cứu Quốc còn đang thưa kiện về bàu cử gian lận thì lãnh tụ Sam Rainsy vẫn lên đường đi Boston dự đám cưới của cô con gái, cô Rachel Estée Sam lấy William Josiah Rubenstein, được một vị pháp sư Do Thái làm chủ lễ bằng ba thứ tiếng Hebrew, Pháp và Anh! Cộng sản Việt Nam phải lo lắng vì phong trào bài Việt ở Camphuchia đang được khơi động; dân Việt sẽ coi đây là hậu quả do chủ trương bành trướng và thao túng nước Campuchia từ thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ gây ra. Nhưng Trung Cộng còn lo lắng hơn nữa. Sau cuộc bầu cử, nhật báo Wall Street Journal ở Mỹ nhận xét rằng, “Trung Quốc thua nặng nhất.” Phong trào dân Campuchia ủng hộ đảng đối lập cho thấy tự ái dân tộc của họ đã bùng lên, sau khi thấy chính quyền Hun Sen hết bám lấy Việt Cộng lại dựa vào Trung Cộng. Người Hoa chiếm 5% trong dân số nhưng kiểm soát 80% nền kinh tế. Tiếng Hoa là ngoại ngữ được học hàng thứ nhì sau tiếng Anh. Trong số khoảng 70 đài truyền hình có 50 đài nói tiếng Trung Hoa. Trung Cộng sử dụng đồng tiền để mua chuộc Hun Sen; hiện nay đứng hàng đầu về vốn đầu tư vào Camphuchia; cao hơn tổng số đầu tư của tất cả các nước khác. Riêng năm 2011, Bắc Kinh bỏ vào Campuchia 1 tỷ 200 triệu đô la, gấp 10 lần số đầu tư của tất cả các công ty Mỹ. Ai cũng biết chính quyền cộng sản ở nước nào cũng rút ruột các công trình đầu tư. Trung Cộng không bao giờ đặt vấn đề đó, trong khi các công ty Mỹ bị trói buộc bởi các đạo luật cấm hối lộ chính quyền các nước khác. Trung Cộng đang thi hành một dự án xây dựng một tuyến đường sắt, một bến cảng và một nhà máy luyện thép trị giá 11 tỷ đô la; khiến ai cũng nghĩ tới dự án xây dựng đập Myitsone tại Miến Điện, trị giá 3 tỷ 6, đã bị chính quyền Miến cắt ngang trước khi khởi đầu chương trình dân chủ hóa. Người dân Camphuchia cũng nhìn thấy rõ chính quyền Hun Sen đang “bán nước.” Thế giới cũng nhìn thấy Trung Cộng đã “bỏ Campuchia vào túi!” Tháng Bảy năm ngoái, trong hội nghị ASEAN tại Phnom Penh, chính phủ Campuchia đóng vai chủ nhà đã ngăn cản khiến không đưa ra được một thông cáo chung, vì biết bản dự thảo nêu lên các hành động xâm lấn của Trung Cộng tại Biển Đông. Có lúc ông tổng thư ký ASEAN đang bắt đầu nói đến vấn đề này, ngoại trưởng Campuchia đã ngăn lại, cắt ngang lời. Đến Tháng Chín, Bắc Kinh loan báo cho Phnom Penh vay 500 triệu đô la với lãi suất nhẹ! Không biết các quan chức sẽ bỏ túi bao nhiêu trong số tiền này, nhưng dân cả nước sẽ mắc nợ! Lại còn nạn “bán rừng” cho các công ty Trung Quốc và Việt Nam nữa! Dân Campuchia ghét Cộng sản Việt Nam nhất vì nạn tham nhũng ở xứ này đã được các cán bộ người Việt truyền nghề cho đàn em bản xứ. Mà bây giờ thì đám đàn em còn tham nhũng vượt chỉ tiêu! Người ta đồn “trong đám cưới con ông Hunsen đám thuộc hạ dâng tặng nhiều xe hơi đắt tiền đến mức số chìa khóa xe không thôi đã đầy mấy rổ!” Đồng bào Việt Nam đang sinh sống ở Campuchia sẽ phải gánh chịu hậu quả! Dân Việt Nam chỉ mong người Khmer không khơi dậy mối thù hận lâu đời với người Việt. Họ sẽ phải thấy các chính sách lấn áp của đảng Cộng sản Việt Nam không được dân Việt ủng hộ. Hơn nữa, người Việt Nam sẽ tranh đấu để được sống trong một xã hội tự do dân chủ, ít nhất cũng bằng dân Campuchia. Dù nền dân chủ ở nước láng giềng còn trong cảnh sơ sinh nhưng đã đầy hứa hẹn. Chính quyền Hun Sen sẽ phải giảm bớt tham nhũng và bớt lệ thuộc Trung Cộng khi bị phe đối lập trong quốc hội theo dõi và phê phán. Khi nào cả hai dân tộc cùng sống trong các chế độ dân chủ tự do thì mọi bất đồng sẽ được giải quyết trên căn bản bình đẳng. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Đảng Cộng sản và ‘Quyền được chết’

«Quyền được chết» là một khái niệm luật học mới mẻ, chỉ rõ quyền được pháp luật công nhận cho công dân nước mình được tự do lựa chọn cái chết khi mắc bệnh hiểm nghèo chưa có cách chữa trị, muốn được chết để khỏi phải đau đớn kéo dài trong cơn tuyệt vọng.   Ở nước nào «Quyền được chết» cũng được tranh cãi quyết liệt, chia hẳn thành 2 phái, một phải ủng hộ, tán đồng, cho đó là quyền tự do thiêng liêng của mọi công dân, tư nguyện chấp nhận cái chết để thoát khỏi tình trạng đau khổ kéo dài, quá sức chịu đựng của bản thân, yêu cầu cơ quan y tế và người thân cùng giúp đỡ, hợp tác để thoát khỏi bế tắc, để thực hiện một cái chết an lạc. Theo chữ Hán, người Trung Quốc gọi đó là quyền «an tử». Theo tiếng Hy Lạp cổ, đó là quyền «euthanatos»; tiếng Anh là «euthanasia»; tiếng Pháp là «euthanasie» theo nghĩa từ điển là «cái chết không đau đớn». Tòa Thánh Vatican kiên quyết chống lại quyền này, viện cớ sống chết là do Thượng đế quyết định, thực hiện «euthanasia» là mang tội giết người. Hiện nay các nước Hà Lan, Bỉ, Áo…đã chính thức thực hiện quyền «an tử». Ở Hoa Kỳ, mới có các bang Oregon và Texas thực hiện. Các đảng Cộng sản có liên quan gì đến «quyền được chết»? Xin thưa rằng có. Cũng như mọi sự vât trên đời, đảng CS có khởi đầu và có kết thúc. Marx và Engels đã khai sinh ra đảng CS vào ngày 24 tháng 2 năm 1848 khi 2 ông công bố bản «Tuyên Ngôn của đảng CS». Thế kỷ 20 là thế kỷ cường thịnh nhất của các đảng CS trên toàn thế giới cũng như của các Đệ Nhất, Đệ Nhị và Đệ Tam Quốc tế CS. Đến nay tuổi thọ của đảng CS đã được 165 năm. Thoái trào của phong trào CS bắt đầu từ những năm 50 của Thế kỷ 20, đột biến đi xuống từ khi Bức tường Berlin sụp đổ vào cuối năm 1989, tan hoang từ sau khi đảng CS Liên Xô là đảng CS đầu đàn bị giải thể vào cuối năm 1991. Trong Thế kỷ 20, có lúc đảng CS toàn thế giới họp được những cuộc họp lớn, bao gồm 68 đảng CS vào năm 1957, và 87 đảng vào năm 1960 tại Moscow. Nếu tính cả các nhóm CS theo Mao Trạch Đông hay theo Che Guevra ở châu Á, Mỹ la tinh, có lúc toàn thế giới có đến gần 200 đảng phái theo học thuyết Cộng sản. Có thể nói đến nay chỉ còn lơ thơ vài đảng CS có thể đếm trên đầu ngón tay, lớn nhất là đảng CS Trung Quốc, rồi các đảng CS Việt Nam, Cuba và Bắc Triều Tiên. Hàng trăm đảng CS lớn mạnh trong thế kỷ trước ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ la tinh, châu Phi đã rã rời, ngừng hoạt động, nằm trong các nghĩa địa và bảo tàng. Nhiều đảng CS đã chết yên lặng bằng cách đổi tên. Nghị quyết 1481 của Quốc hội châu Âu đã đặt chủ nghĩa Cộng sản hiện thực ra ngoài vòng pháp luật, coi đó là tội ác chống nhân loại. Các đảng CS oanh liệt một thời như đảng CS Anh, đảng CS Đức, đảng CS Áo, đảng CS Ý đã gần như hoàn toàn biến mất trên sân khấu chính trị. Đảng CS Pháp một thời oanh liệt, tự nhận là đảng số một của nước Pháp, từng tham gia chính phủ với chức phó thủ tướng, bộ trưởng, được trên 30% số phiếu bầu, nay ở vào số cuối bảng, chỉ được chưa đến 3 % phiếu, chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của chính mình. Nó còn sống, nhưng thoi thóp, đang thở hắt ra, đã thuộc về quá khứ. Mới đây, nhân đại hội lần thứ 35 của đảng CS Pháp, một số đông hơn 300 giáo sư, trí thức, văn nghệ sỹ, uỷ viên Trung ương đảng, đại biểu Quốc hội có uy tín là đảng viên CS Pháp đã rủ nhau cùng một lúc ký tên, ra tuyên bố vĩnh biệt đảng CS để gia nhập tự do các đảng khác, với thái độ công khai minh bạch, sau khi nhận rõ chủ nghĩa CS không còn sức sống cả về lý luận và cả về thực tiễn. Họ tham gia khai tử đảng CS của mình, coi đó là việc làm có ý nghĩa tích cực, không có ích gì khi kéo dài thêm tuổi thọ của một học thuyết đã phá sản, của một đảng chính trị đang rơi tự do, bị nhân dân Pháp khước từ không tin cậy nữa. Đây là một hệ quả của sự kiện có ý nghĩa lịch sử, tháng 6 năm 2007, giữa thủ đô Hoa Kỳ đã dựng lên Đài tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, một sai lầm khủng khiếp của Thế kỷ 20, qua đó tên tuổi của các nhà lãnh đạo CS nhúng tay vào tội ác được ghi rõ không khoan nhượng vì là sự thật hiển nhiên: từ Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông, đến Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Tito, Fidel Castro, Céauçescu, Honecke…Không có lãnh tụ CS nào mà tay không đẫm máu nhân dân nước họ cả. Đảng CSVN có cùng chung số phận, chung vinh quang hão huyền giả tạo một thời, và chung mối ô nhục gây tội ác chống nhân loại cũng như chống nhân dân bản xứ, như tất cả các đảng Cộng sản khác, không có một ngoại lệ nào cả. Vì tất cả đều cùng chung một học thuyết đấu tranh giai cấp, cùng tôn sùng bạo lực hung hãn, đang cùng chung đà suy thoái tha hóa và tan vỡ không gì ngăn cản nổi, trừ phi thay đổi cả hệ thống chính trị từ độc đảng toàn trị sang dân chủ đa nguyên theo luật pháp. Việc đổi tên đảng, đổi danh xưng của nước Việt Nam, lập đảng mới, đổi quốc kỳ của nước Việt Nam mới, và tìm một liều thuốc «an tử», giúp đảng CS một kiểu chết thanh thản, chết an lạc, giải thoát khỏi những năm dài bế tắc, lắm bệnh hiểm nghèo vô phương cứu chữa, chỉ ngày càng ô nhục thêm, có lẽ là rất cần thiết, nhân đạo, có ích cho đất nước và nhân dân vậy. Cũng vì vậy, ý kiến về từ bỏ đảng CS, thoát đảng, lập đảng mới của một số trí thức am hiểu thời thế như luật gia Lê Hiếu Đằng, nhà báo Hồ Ngọc Nhuận được sự quan tâm bàn luận ngày càng sôi nổi của người Việt trong và ngoài nước. Nguồn: VOA
......

Muốn dân chủ cần có đảng phái

Trong bài trước, mục này trình bày một khác biệt trong quá trình chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ ở các nước Nam Âu, Nam Mỹ so với các nước cựu cộng sản Ðông Âu. Tại Tây Ban Nha hay Chile, các đảng phái trong “xã hội chính trị” đóng vai chính, còn ở Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, “xã hội công dân” dẫn đầu trong cuộc vận động dân chủ.   Nêu lên khác biệt này dễ gây hiểu lầm. Người ta có thể nghĩ rằng vì Việt Nam cũng sống dưới chế độ cộng sản cho nên đi theo con đường các nước Ðông Âu thì thích hợp hơn; do đó việc thành lập các đảng chính trị bây giờ không cần thiết. Nghĩ như vậy không đúng. Xã hội công dân và xã hội chính trị là hai hình thái sinh hoạt trong toàn thể xã hội dân sự, nằm ngoài các tổ chức quân sự và giữ cân bằng với guồng máy nhà nước. Nhưng hai hình thái đó đóng vai trò bổ túc cho nhau chứ không đối kháng hoặc loại trừ lẫn nhau. Tại Uruguay, Brazil hoặc Argentina tuy các đảng chính trị đi tiên phong trong cuộc vận động dân chủ thành công nhờ xã hội công dân ở đó đã được phát triển; gây ý thức tham dự, ý thức về quyền công dân trong dân chúng đã lên cao, chính quyền độc tài không thể nhắm mắt bỏ qua. Trong cuộc vận động xóa bỏ chế độ độc tài thì xã hội công dân có thể đóng vai trò tích cực. Nhưng sau đó, một nhóm trong xã hội công dân vẫn có thể muốn lấn áp những nhóm khác, ảnh hưởng đến cả việc thiết định các “luật chơi” mới. Những người muốn tham dự vào xã hội chính trị không thể nào cứ đứng trên các đảng phái mãi mãi. Tại sao xã hội dân chủ cần các đảng chính trị? Vì Dân Chủ không phải là một mô hình lý tưởng. Xã hội loài người không bao giờ hoàn hảo để xếp đặt cuộc sống chung lý tưởng. Dân Chủ chỉ gồm những quy luật của cuộc chơi trên sân banh chính trị, để mỗi người đều được tham dự bình đẳng. Trong bất cứ xã hội nào cũng có ý kiến khác nhau, nhiều nhóm có các quyền lợi riêng, bây giờ hay gọi là “nhóm lợi ích,” khó tránh được cảnh quyền lợi của nhóm này xung khắc với nhóm khác. Nhà nước dân chủ đóng vai trò trọng tài giữa các quyền lợi xung khắc; tôn trọng lựa chọn của đa số nhưng không bỏ qua các nhóm thiểu số. Guồng máy nhà nước, gồm cả chính quyền và Quốc Hội, đặt ra những “luật chơi” để giải quyết các xung khắc. Nhà nước cần đứng ngoài các xung đột mới đóng được vai trò đó. Trong một nước dân chủ không một nhóm công dân nào được phép lấn áp các nhóm công dân khác. Các đảng phái làm đại biểu cho quyền lợi của các nhóm công dân khi tranh luận về phương thức giải quyết các xung đột. Trong tiếng Anh có chữ “polity” chưa biết nên dịch thế nào ra tiếng Việt. Chữ này bao gồm tất cả các sinh hoạt có tính cách chính trị, các định chế, các tập hợp, các hành động, ảnh hưởng trên sinh hoạt chính trị. Một phạm vi có thể xác định rõ là hoạt động của các đảng phái, có thể gọi là xã hội chính trị (political society). Mọi công dân có quyền hành xử quyền của mình để gây ảnh hưởng trên việc sử dụng guồng máy nhà nước, chia sẻ quyền lực chính trị, trong vòng pháp luật. Họ tập họp trong các đảng chính trị. Nếu không có các đảng chính trị thì chế độ dân chủ khó chạy, và rất khó trở thành kiên cố, tức là lúc mọi người đều đồng ý “Dân Chủ là luật chơi duy nhất được sử dụng.” Dân Chủ thành kiên cố khi bảo đảm được chính quyền nằm trong tay những người do dân tự do bỏ phiếu bầu lên; và bảo đảm người dân lúc nào cũng có thể quan sát, phê phán guồng máy chính quyền. Muốn tiến tới tình trạng tối hảo này, cần những định chế cơ bản: Bầu cử tự do; Luật bầu cử bảo đảm cơ hội đồng đều cho mọi người dân; Các đảng chính trị cạnh tranh với nhau hoặc liên kết với nhau; Guồng máy hành chánh vô tư đứng ngoài các đảng phái; Quyền tư pháp và lập pháp độc lập với guồng máy đó. Ðể sống chung trong thể chế dân chủ, để giải quyết các xung khắc quyền lợi giữa nhiều nhóm dân chúng, mỗi nhóm lợi ích cần có đại diện tham dự trong quá trình thảo luận và quyết định chính sách chung của quốc gia trên các lãnh vực. Không thể nào chỉ có “một đảng của toàn dân” như nhiều người ao ước hay mơ tưởng. Trong một xã hội sống dân chủ, mỗi đảng chính trị thường chỉ tập hợp được một số nhóm lợi ích, không thể nào trùm lên cả xã hội. Ý tưởng đảng của mình cũng là “đảng của toàn dân” sẽ đưa tới khuynh hướng độc tài, rất khó tránh. Thí dụ ở nước Mỹ, đảng Cộng Hòa được sự ủng hộ của giới tư bản, họ cũng thu hút những người trung lưu hoặc nghèo nhưng tin tưởng phải bảo vệ các giá trị tôn giáo; lại được giới trí thức đề cao chủ trương tự do kinh tế tham gia. Ðảng Dân Chủ thu hút những người coi việc bảo vệ công bằng xã hội về lợi tức và tài sản; được các nhóm di dân mới ủng hộ; và thích hợp với những người có khuynh hướng mới về đạo đức, muốn thay đổi phong tục. Ðảng Cộng Hòa theo chủ trương giảm bớt vai trò guồng máy chính quyền ở mọi cấp, đảng Dân Chủ ngược lại. Ðảng Cộng Hòa bảo vệ quyền hạn của các tiểu bang so với liên bang, đảng Dân Chủ không thiết tha đến đề tài đó. Trong mỗi đảng cũng có những khuynh hướng khác nhau. Mỗi đảng quy tụ một số nhóm lợi ích có thể đồng ý với nhau về một số chủ trương; nhưng họ cũng không hoàn toàn thỏa thuận trên tất cả các vấn đề. Họ cùng ủng hộ một đảng vì đảng đó đề cao một số chủ trương, dù không đồng ý với tất cả các chính sách của đảng. Cần đảng chính trị vì họ đóng vai đại biểu cho một số nhóm lợi ích; mỗi đảng tập hợp một số nhóm lợi ích trong cuộc cạnh tranh gây ảnh hưởng trong việc ấn định đường lối chung của quốc gia. Cuối cùng, toàn thể dân chúng nắm quyền quyết định, lựa chọn đưa một đảng nào đó lên cầm quyền; khi cần thì lại thay đổi. Trong xã hội chính trị, đảng phái là những “cầu thủ” chính tham dự cuộc chơi trên sân banh dân chủ; vì họ có nhiệm vụ tập hợp và làm đại biểu cho các nhóm lợi ích. Mỗi đảng có thể thay đổi chương trình tranh cử để được đa số cử tri bỏ phiếu cho; nhưng họ không thể đi ngược lại quyền lợi và xu hướng của các nhóm thành viên. Xã hội luôn luôn thay đổi, chính các nhóm lợi ích cũng thay đổi khi chọn ủng hộ một đảng chính trị. Giới lao động ở Mỹ thường ủng hộ đảng Dân Chủ trong thế kỷ 19 và 20 khi các công đoàn rất mạnh. Nhưng đến giữa thế kỷ 20, vai trò các công đoàn đi xuống, nhiều công nhân gia nhập giai cấp trung lưu, họ quay sang đảng Cộng Hòa vì đảng này đề cao việc tự do cá nhân, muốn nhà nước bớt can thiệp, và bảo vệ các giá trị tôn giáo. Trong hai cuộc bầu cử gần đây, giai cấp trung lưu ở Mỹ lại nghiêng về đảng Dân Chủ vì thấy đảng Cộng Hòa đã đi quá xa trong các chủ trương cố hữu đó. Trong cuộc hơi chính trị dân chủ, các đảng phái đóng vai trò cầu thủ, không thể thiếu được. Kinh nghiệm ở Ðông Âu và Nga cho thấy thiếu các đảng chính trị và xã hội chính trị sinh động có thể khiến quá trình dân chủ hóa bị trì trệ, hoặc quay ngược lại trở về khuynh hướng độc tài. Vì trong các nước cộng sản thiếu một xã hội công dân năng động cho nên cuộc tranh đấu xây dựng dân chủ bắt đầu với phong trào hồi phục xã hội công dân. Xã hội công dân thúc đẩy việc xóa bỏ chế độ độc tài ở Nga và Ðông Âu; nhưng khi xây dựng nền móng dân chủ thì phải xây dựng xã hội chính trị mới tạo được các cơ chế hữu hiệu. Những người lãnh đạo trong thời gian chuyển tiếp như Walesa ở Ba Lan và Yeltsin tại Nga muốn “đứng trên đảng phái,” không quan tâm đến việc thành một lập đảng chính trị của chính họ, cho nên không thúc đẩy việc củng cố nền dân chủ. Yeltsin còn sai lầm nặng hơn khi ông không thay đổi Hiến Pháp nước Nga cho phù hợp với thể chế tự do dân chủ, lỡ một cơ hội mà sau này ông hối tiếc. Walesa không chịu đứng ra một lập đảng riêng, vì muốn đứng trên các đảng phái. Phong trào công nhân Ðoàn Kết tách thành nhiều đảng, mỗi đảng không tập hợp được những nhóm lợi ích rõ ràng, để phí mất nhiều năm trước khi nền dân chủ được củng cố. Việt Nam cần rút kinh nghiệm các giai đoạn chuyển tiếp từ độc tài sang dân chủ, ở các nước cộng sản cũng như không cộng sản. Vì tới một lúc chúng ta sẽ thấy việc xóa bỏ chế độ độc tài không khó, một trái cây đã quá chín thế nào cũng rụng. Khó khăn hơn, là xây dựng một thể chế dân chủ, với những thói quen suy nghĩ và hành động được mọi người hiểu và làm theo, gọi là nếp sống dân chủ. Nguồn: nguoi-viet.com
......

21 quốc gia đồng lên tiếng về NĐ 72

Freedom Online Coalition Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ Văn Phòng Phát Ngôn Nhân Ngày 26 tháng 8, 2013 Phát biểu của MARIE HARF, Phó Phát Ngôn Nhân Bản Lên Tiếng Chung của Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng về Nghị Định 72 của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng vô cùng quan ngại với thông báo của Việt Nam về Nghị Định 72 sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 9 tới đây. Nghị định này áp đặt thêm nhiều giới hạn về việc sử dụng và truy cập Internet tại Việt Nam. Lấy thí dụ, Nghị Định 72 hạn chế các luồng thông tin trên mạng và giới hạn việc chia sẻ một số loại tin tức và thông tin. Nghị Định 72 có vẻ như không phù hợp với nghĩa vụ của Việt Nam đối với Công Ước Quốc Tế về Quyền Chính Trị và Dân Sự, cũng như cam kết của Việt Nam với bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nghị Định 72 có thể gây nguy hại đến nền kinh tế Việt Nam vì trói buộc việc phát triển thương mại tại Việt Nam, giới hạn sáng kiến, cản trở đầu tư nước ngoài. Một mạng Internet tự do, mở rộng là điều kiện cần có cho một nền kinh tế hiện đại hoạt động toàn vẹn; các đạo luật như Nghị Định 72 giới hạn tự do sẽ không giúp cho giới kinh doanh và giới phát minh có được đầy đủ công cụ để cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng ghi nhận là nghị quyết 20/8, được biểu quyết bởi Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc vào tháng 7, 2012, khẳng định rằng nhân quyền áp dụng trên mạng cũng như ngoài đời. Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam điều chỉnh Nghị Định 72 để thay vào đó cổ xúy cho mọi cá nhân có điều kiện thực thi quyền tự do con người, luôn cả quyền tự do ngôn luận. Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng là một tổ chức xuyên vùng của 21 chính phủ cùng hợp tác để thúc đẩy tự do Internet trên toàn cầu. Liên Minh là diễn đàn để cho các chính phủ có cùng tư tưởng phối hợp các nỗ lực và làm việc chung với xã hội dân sự và giới tư doanh để hỗ trợ mọi cá nhân có điều kiện thực thi nhân quyền và các quyền tự do căn bản trên mạng. Liên Minh Về Quyền Tự Do Trên Mạng được thành lập tại một hội nghị do chính quyền Hòa Lan tổ chức vào năm 2011, và các hội nghị tiếp theo đó tại Kenya vào năm 2012, tại Tunisia vào năm 2013. Chính quyền Estonia, chủ tịch Liên Minh, sẽ tổ chức hội nghị kế tiếp vào mùa xuân năm 2014. BBT-WebVT chuyển ngữ # # # -------------------------------------------------------------------------------- August 26, 2013 2013/2034 Statement by MARIE HARF, DEPUTY SPOKESPERSON Freedom Online Coalition Joint Statement on the Socialist Republic of Vietnam’s Decree 72 The Freedom Online Coalition is deeply concerned by the announcement of Vietnam’s new Decree 72, which will impose further restrictions on the way the Internet is accessed and used in Vietnam when it comes into effect September 1. For example, Decree 72 restricts online information flow and limits the sharing of certain types of news and other speech. Decree 72 appears to be inconsistent with Vietnam’s obligations under the International Covenant on Civil and Political Rights, as well as its commitments under the Universal Declaration of Human Rights. Decree 72 risks harming Vietnam’s economy by constraining the development of businesses in Vietnam, limiting innovation, and deterring foreign investment. An open and free Internet is a necessity for a fully functioning modern economy; regulations such as Decree 72 that limit openness and freedom deprive innovators and businesses of the full set of tools required to compete in today’s global economy. The Freedom Online Coalition notes that resolution 20/8, adopted by consensus by the UN Human Rights Council in July 2012, confirms that human rights apply online as well as offline. The Freedom Online Coalition calls on the Vietnamese government to revise Decree 72 so that it promotes the ability of individuals to exercise their human rights, including the right to freedom of expression. The Freedom Online Coalition is a cross-regional group of 21 governments that collaborate to advance Internet freedom worldwide. The Coalition provides a forum for like-minded governments to coordinate efforts and work with civil society and the private sector to support the ability of individuals to exercise their human rights and fundamental freedoms online. The Freedom Online Coalition was formed at a conference hosted by the government of the Netherlands in 2011, and held further meetings hosted by Kenya in 2012, and Tunisia in 2013. The government of Estonia, chair of the Coalition, will host the next conference in spring 2014. # # # Nguồn: Viettan.org
......

Hãy đặt gánh nặng tư tưởng xuống

Gửi cho BBCVietnamese.com từ Quảng Nam Gần đây dư luận mạng quan tâm đáng kể đến các bài tiểu luận của tác giả Nguyễn Tùng Hiếu, một đảng viên cộng sản Việt Nam cao cấp. Không nên lẩn quẩn trong mớ bòng bong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội? Trong các luận đề rất dài của mình, với văn phong bị ảnh hưởng sâu đậm của kinh tế chính trị học Marx-Lenin, tác giả cổ vũ rất nhiệt tình cho cái mà ông gọi là "dân chủ xã hội". Ông đã dành nhiều phần để cổ vũ cho sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà theo ông, đó gần như là xu thế của thời đại. Ông cho rằng "dân chủ xã hội" có thể tận dụng cả ưu điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội để thiết lập một xã hội thịnh vượng và công bằng như các quốc gia Bắc Âu.   Một đặc điểm nổi bật của những người cộng sản Việt Nam là lối tư duy chưa thoát ra khỏi cái thiên kiến lệch lạc của Marx. Marx chỉ nhìn thấy CNTB trong mối quan hệ đối trọng với CNXH, chứ không thấy sự tồn tại và vai trò của chủ nghĩa tự do hợp hiến trong nỗ lực định hình nền móng của các xã hội tự do lúc bấy giờ. Ngày nay, khi nhận thấy chủ nghĩa Marx đã đi đến hồi mạt vận trong cả lý thuyết lẫn thực tiễn, các trí thức CNXH cố vớt vát bằng cách kêu gọi kết hợp CNTB với CNXH để tạo ra cái gọi là Dân chủ xã hội. Họ đã bỏ sót cái tinh thần tự do cá nhân và nền dân chủ chính trị mà chủ nghĩa tự do đã đưa vào thế giới hiện đại. Đó mới chính là cốt lõi của các xã hội dân chủ, chứ không phải chỉ là chủ nghĩa tư bản. Những người chưa bao giờ sống trong xã hội dân chủ và tư duy chưa bao giờ vượt ra ngoài một mớ lý thuyết cũ rích của chủ nghĩa Marx, chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản và nghĩ rằng chỉ cần kết hợp với các ưu điểm của chủ nghĩa tư bản là đủ để giải quyết tất cả những vấn đề của quốc gia. Các vấn đề của một quốc gia không chỉ là kinh tế và sự tái phân phối phúc lợi; mà phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều không gian lý luận khác như thể chế chính trị, Hiến pháp, pháp trị, văn hoá và phương cách đối phó với những nan đề liên quan đến Công lý và tự do...Họ trầm trồ khen các nước dân chủ tự do rằng: “Người ta như thế mới là chủ nghĩa xã hội chứ!” Nhưng họ không hề biết chỉ hai chủ thuyết này không đủ để thai nghén nên một xã hội dân chủ tự do, giàu mạnh và đạt được những tiến bộ đáng kể trong cố gắng cải thiện công bằng xã hội. Thị trường tự do cộng với sự tái phân phối các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế và các chương trình phúc lợi chưa thể thể hiện hết cái cốt lõi tinh thần của các nền dân chủ. Mô hình đó có một nền tảng đặc biệt của nó, vượt ra ngoài sự kết hợp miễn cưỡng đó. Sự lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH làm người ta quên mất rằng cần phải có thêm các chủ thuyết tự do làm bệ đỡ cho tinh thần tự do của một nền dân chủ hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước "tư bản" chứ không phải là "dân chủ tự do". Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá... "Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước "tư bản" chứ không phải là "dân chủ tự do". Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá..." Các chủ thuyết xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa Marx chỉ tập trung vào mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thực hiện công cuộc "cào bằng" đầy bạo lực và khiên cưỡng, đề xuất mô hình kinh tế tập trung bao cấp để thay thế chủ nghĩa tư bản... chứ chưa bao giờ thiết lập một nền tảng tư tưởng hữu lý cho việc kiến tạo các định chế quyền lực và xã hội nhằm bảo vệ tự do cá nhân, xây dựng một nhà nước dựa trên sự đồng thuận của người dân, xây dựng khế ước quyền lực...Đối với chủ thuyết này, Hiến pháp, pháp trị, tam quyền phân lập, cân bằng và kiểm soát, tự do, nhân quyền... chỉ là công cụ thống trị của nhà nước tư sản và họ cố tình gạt bỏ các giá trị này ra khỏi trung tâm lập thuyết của họ. Ngày nay, để tiếp tục tồn tại và biện minh cho sự tồn tại đó, các lý thuyết gia xã hội cố vay mượn các giá trị tự do (mà họ không xây dựng được) từ chủ nghĩa tự do hợp hiến để bù đắp cho sự thiếu hụt căn bản này. Trong khi đó, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do hợp hiến đã làm tất cả những công việc quan trọng nhằm đúc kết nên những nguyên tắc nền tảng mà từ đó các chế độ dân chủ hiện đại được xây dựng nên. Họ thiết lập và biện minh không mệt mỏi cho các giá trị tự do dân chủ mà ngày nay chúng ta đang cổ vũ. Bởi vậy, các nền dân chủ hiện đại thực ra được thai nghén trong tinh thần đề cao tự do, nhân quyền và nhân phẩm của chủ nghĩa tự do hợp hiến, chứ nó chưa bao giờ là con đẻ của chủ nghĩa xã hội, dù là chủ nghĩa xã hội bạo lực kiểu Marx hay chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nhìn nhận sự thành công của các nền dân chủ hiện đại như Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu như là kết quả của phiên bản mới - chủ nghĩa xã hội dân chủ - là một ngộ nhận lớn. Chủ nghĩa tự do hợp hiến Chủ nghĩa tự do có nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa TỰ DO KINH TẾ đề cao quyền tư hữu, tự do khế ước và do đó họ ủng hộ chủ nghĩa tư bản laissez-faire và một Nhà nước càng nhẹ càng tốt. Nhưng thực tế cho thấy, kiểu tự do này sẽ giúp duy trì những lợi thế vĩnh viễn của tầng lớp giàu có và quyền thế trong xã hội, còn những người bị gạt ra bên lề xã hội sẽ khó có cơ hội để vươn lên bởi đơn giản là họ có rất ít cơ hội. Tự do kinh tế chưa đủ để thúc đẩy tự do cá nhân và dân chủ thực sự, mà nó còn đào sâu các bất bình đẳng xã hội do khoảng cách quá lớn về tiềm lực kinh tế và cơ hội chính trị. Tình trạng các quốc gia phương Tây trong giai đoạn phát triển cao của cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ hai đã cho thấy nhược điểm của chủ thuyết tự do cổ điển này. Trước những bế tắc xã hội không giải quyết được của chủ nghĩa tự do kinh tế, các lý thuyết gia của chủ nghĩa TỰ DO XÃ HỘI đã đưa ra luận thuyết của mình để giải quyết các bất công và mâu thuẫn xã hội đồng thời đưa ra một số câu trả lời cho vấn đề Công lý. Với sự công nhận vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội bằng hệ thống luật pháp, tạo không gian pháp lý ổn định cho các hoạt động dân sự, làm trọng tài cho các thoả thuận tự do của người dân, tái phân phối một phần các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế, và tăng cường bình đẳng cơ hội cho những người ở tầng lớp dưới qua các chương trình phúc lợi xã hội...., chủ nghĩa tự do xã hội đã giúp các nền dân chủ hiện đại sửa sai các khiếm khuyết của chủ nghĩa tự do kinh tế. Trong khi đó, phương cách của chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tập trung, một nhà nước trung ương đầy quyền lực để áp đặt mô hình kinh tế này, kết quả là cho ra đời những Nhà nước toàn trị tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.   Độc tài hay Dân chủ mới là mấu chốt Ngày nay những người xã hội đã cải biến chủ thuyết của mình theo kiểu "đẽo chân cho vừa giày" để phù hợp với không gian chính trị dân chủ và xã hội tự do. Các đảng xã hội cũng thay đổi để tiếp tục tồn tại và tham gia lãnh đạo quốc gia cùng với các đảng cánh hữu. Tùy thuộc vào bối cảnh văn hoá, kinh tế và chính trị cũng như các định chế xã hội mà các đảng cánh tả ở những nền dân chủ lâu đời có thể dành được sự ủng hộ của người dân hay không. Nhưng điều quan trọng là đảng phái này chỉ mang cái danh "xã hội" nhưng thực chất họ đi gần với chủ nghĩa tự do xã hội hơn là chủ nghĩa xã hội (xin lưu ý sự khác biệt này) và mọi hoạt động đảng phái cũng như hoạt động quyền lực của họ đều phải nằm trong không gian chính trị do chủ nghĩa tự do hợp hiến thiết lập và quy định từ lâu. "Tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa? " Gán ghép các thành tựu chính trị-xã hội ngoạn mục ở các quốc gia dân chủ Bắc Âu cho chủ nghĩa xã hội (có sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản), mà bỏ qua dấu ấn sâu sắc của chủ nghĩa tự do hợp hiến ở các quốc gia này là quá gượng ép và thiển cận. Tiếp tục đề cao vai trò của một phiên bản chủ nghĩa xã hội mới trong không gian chính trị dân chủ tự do của các quốc gia phương Tây chỉ là một cách để các trí thức cộng sản ở Việt Nam giảm nhẹ những sai lầm, đổ vỡ và tội ác mà các nhà nước độc tài xã hội chủ nghĩa đã gây ra ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng; để tuyên truyền cho luận điệu rằng: chủ nghĩa xã hội không sai, chỉ là chúng ta chưa biết cách vận dụng... Thời đại ngày nay, thế giới đã đổi thay, nhu cầu dân chủ hoá của các dân tộc đang nằm dưới chế độ độc tài khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì thế thật không phù hợp khi tốn công sức để bàn về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay sự kết hợp của chúng. Trong khi cái thực sự cần bàn là dân chủ, tự do, nhân quyền và công lý...Thiết nghĩ, tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa? Trí thức là tầng lớp tinh hoa mở đầu cho mọi tiến bộ, đã đến lúc các trí thức cộng sản Việt Nam phải làm một cuộc cách mạng tư tưởng để nhận thức sinh động rằng cái gốc của vấn đề ở đây không chỉ là chủ nghĩa tư bản hay xã hội, mà chính là Tự do hay Nô lệ, Dân chủ hay Độc tài! Nếu không làm được điều này, họ sẽ tiếp tục đi bên lề những vận động tích cực trong tương lai của đất nước. Bài viết thể hiện cách hành văn và quan điểm riêng của tác giả. (BBC)Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese  
......

Biến Động Tượng Hình

Đây là lần đầu tiên Nguyễn Xuân Phúc đến Mỹ với cương vị Phó Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Phòng chống AIDS/Ma túy/Mại dâm. Mục tiêu của chuyến công du này, được loan báo chính thức trên trang http://baodientu.chinhphu.vn là: “Nhằm tăng cường hơn nữa sự hiểu biết, tin cậy và hợp tác trên tất cả các lĩnh vực với Hoa Kỳ”. (Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban QG Phòng chống HIV/AIDS, Phòng chống tệ Ma Túy Mại Dâm, kiêm Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Đặc xá VN năm 2013. Ảnh AFP)   Thế thì, trước khi nói tới tin cậy hay hợp tác, liệu Hoa Kỳ đã biết gì về VN, và sẽ biết thêm gì, qua Nguyễn Xuân Phúc?   Khó lòng kể hết những điều chính quyền Mỹ đã biết về đảng và nhà nước VN, cả những điều đã bị rò rỉ và chưa bị rò rỉ. Nhưng ít ra, trên mặt nổi, người ta chưa quên TT Barack Obama, từ lâu, đã công khai kêu gọi Hà Nội thả ngay Blogger Điếu Cày, đích danh Nguyễn Văn Hải.  Hoặc những khuyến thư của hàng chục nghị sĩ/dân biểu lưỡng viện Hoa Kỳ yêu cầu Hà Nội thả ngay những nhân vật bất đồng chính kiến ở VN bị bắt/bị tù… Gần nhất là cách tiếp đón lạnh nhạt và những mẩu đối thoại chiếu lệ giữa Barack Obama với Trương Tấn Sang hồi cuối tháng Bảy. Và một tuần ngay sau đó là con số áp đảo 405/3 của Hạ Viện Hoa Kỳ thông qua dự luật  nhân quyền cho VN năm 2013,  mang số hiệu H.R.1897. Rồi chỉ một tuần sau đó nữa, Đại sứ David Shear lại lên tiếng phản đối các bản tin chính quy của VN đã cố tình viết ngược nhận định của chính phủ Mỹ về vấn đề nhân quyền của Hà Nội, rằng “VN đã có những bước đi tích cực”;  đồng thời, yêu cầu Hà Nội phải đính chính và xin lỗi về lối tuyên truyền sai sự thật (ở tầm láu cá) đó. Một trong những điều mới nhất mà Mỹ biết thêm về VN, qua chuyến công du mới nhất và đang diễn ra này, có lẽ chính là chức vụ Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Đặc xá VN năm 2013 của Nguyễn Xuân Phúc, với bức ảnh đương sự vi hành “thăm hỏi” các tù nhân tinh tươm (như người mẫu thời trang) tại một trại tù ở Ninh Khánh, Ninh Bình, cũng cực kỳ sáng choang/lấp lánh (hơn cả giảng đường đại học). (Ảnh trên cổng điện tử chính phủ) Câu hỏi chốt: Như vậy, Nguyễn Xuân Phúc qua Mỹ chuyến này vốn liếng ra sao, để mua gì, và bán gì? Nếu vốn liếng của Trương Tấn Sang trong chuyến rồi là bản sao bức thư cầu cạnh ngày 28/02/1946 của Hồ Chí Minh gửi TT Harry Truman, mà phản ứng tiếp nhận của Obama không dấu vẻ hời hợt; thì, vốn liếng của Nguyễn Xuân Phúc chuyến này là bản án phúc thẩm dành cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên, cộng thêm món quà phụ trội (nặng tính biểu diễn mập mờ) là danh sách đặc xá tù nhân vào tuần tới. Cả hai món quà này đều dùng chung loại bao bì cao cấp “Lấy Tù Nhân Để Hét Giá”. Tức là ăn theo kiểu Miến Điện phóng thích tù nhân chính trị thì lập tức nhận được bết bao ưu đãi từ Mỹ nói riêng và cả thế giới tự do nói chung. Nhưng, ở đây, tiến trình thách giá này nằm trong cái tư duy không ít chủ quan đính kèm là nhà nước anh hùng CHXHCNVN có đủ điều kiện mặc cả với kẻ chiến bại thê thảm từ 40 năm trước, và “bọn nó ngu ngơ ngờ nghệch lắm, làm gì chẳng nghĩ là ta đang chuyển hướng!”. Thế thì liệu ngần đó những món quà cống nạp là đủ làm nền cho một chuyến du hành cúi đầu ngửa nón mà lắm người đặt nick cho là “Tiền Trạm Ngắm Tiền  Đô”, mở đường cho chuyến đi cạnh tranh kế tiếp của kẻ từng được biết đến như là tay quyền lực đứng đầu VN (mà toàn bộ BCT đều phải ngã mũ chào), ngay vào lúc nền kinh tế có định hướng rầm rộ, chi ly và cực kỳ “linh động” của VN đang rơi gia tốc? Ngay vào lúc cả đảng và chính phủ đều vô phương cứu vãn một ngân sách cạn kiệt để nuôi một guồng máy đang lâm sàng mà vẫn không quên giơ cao nắm đấm bạo lực? Rất tiếc là các viện nghiên cứu của Mỹ đã nhìn VN ở ngay góc rơi thẳng đứng đó. Wikileaks đã từng cho thấy là có khi chính dàn “lãnh đạo” VN cũng không nắm bắt được toàn cảnh kinh tế/chính trị/xã hội VN bằng chính quyền Mỹ. Và cũng chưa chắc là Ba Đình đã nắm bắt tình hình đa chiều/đầy đủ bằng giới dân báo VN. Chính đôi hia bảy dặm của dàn Blogger/Facebooker  VN đã tiến xa/bung rộng hơn điều mà nhà nước ở đây mường tượng, và đã từ lâu vượt khỏi hàng rào ngăn cấm hoàn toàn có tính theo đuôi/đối phó/tình thế/rượt bắt của nhà nước. Các bức màn sắt/màn tre đã sập. Cái ngỡ là thiên la địa võng đã tơi tả rách bươm. Giới dân báo VN không những đã tại chỗ và tức khắc lật mặt gian tà tráo trở của nhà nước “trên từng xăng-ti-mét” và chuyển tải thông tin ra khắp mặt địa cầu (bằng cả Anh ngữ), mà còn đáp lời mời gọi của thế giới tự do để trực tiếp trao đổi ý kiến/nhận định/tuyên bố… cả bên ngoài lẫn bên trong VN, thậm chí, ngay giữa lòng thủ đô ngập nước. Cho nên, nhà nước không thể che dấu được những toan tính và nỗ lực đằng sau hai món quà bằng sinh mạng tù nhân vừa nói. Từ những cuộc diễn tập quy mô chống biểu tình/nghị định 72/các điều luật 79-88-258/thông tư cấm chụp ảnh CA/khủng bố thân nhân các thanh niên yêu nước ở Vinh… cho tới những trò bẩn ăn lẻ: LS Nguyễn Bắc Truyển bị hàng chục an ninh thường phục bao vây sau cuộc gặp gỡ phái đoàn dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ; Giở võ lừa về nguồn tin úp mở LS Lê Công Định đi Mỹ; Thúy Nga bị CA Long An đánh đập tại đồn, bé Tài chưa thôi nôi bị phơi nắng; CA chận xe của Lê Quốc Quyết để mật vụ đánh người bằng gạch đá và phá xe, cướp tài sản; Dàn cảnh để bắt cóc Aduku Adk bằng thủ thuật nhớp nhúa hạ đẳng; Đổ keo ổ khóa và tạt mắm tôm/chất thải vào nhà Binh Nhì Nguyễn Tiến Nam; Lục soát và ăn cắp đồ đạc cá nhân rất riêng tư của Gió Lang Thang & Hư Vô; Bắt Chí Đức lúc lên đồn truy tìm tông tích Binh Nhì; … Mức độ trấn áp lên cao và lan rộng khắp VN ngay vào lúc Nguyễn Xuân Phúc còn đang loay hoay ở Mỹ và chuẩn bị tham dự khóa huấn luyện kỹ năng lãnh đạo quản lý cao cấp bên đó. Có lẽ không một huấn luyện viên nào có thể trang bị túi khôn cho một dàn hung thủ gian tham từng dìm cả một quốc gia xuống cuối bảng xếp hạng của thế giới, như Nguyễn Xuân Phúc và các đồng chí của hắn. Đường vào TPP và  Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc xem ra còn diệu vợi, trong lúc ngay tại quê nhà, dân oan lê mòn dép khắp các cơ quan nhà nước ở thủ đô để tìm công lý; ngư dân vẫn bị cướp/bị bắn ngoài khơi Biển Đông; người tốt dám nêu lên lẽ phải hay tố cáo việc xấu thì bị trả thù tàn tệ; tiến trình cưỡng chế chiếm đất tàn bạo đến mức đánh đập người già em bé trọng thương phải đưa vào viện cấp cứu, cả sách vở học trò đang luyện thi và thậm chí cái nồi đang nấu cơm cũng bị tịch biên; công an tùy tiện giết người ngay giữa đường phố ban ngày; người lớn tiếp tục tự thiêu;  trẻ con tự tử vì bị công an ép cung tội danh ăn cắp tiền; và hàng nghìn lẻ một vấn nạn xã hội tròng chéo lên nhau… Cùng lúc, nợ công và nợ xấu nhà băng thủng trần; lạm phát cao ngất;  chứng khoán chạm đáy; 30 nghìn tỷ giải vây trận động đất bất động sản thất bại; máy đúc tiền và vàng nhập khẩu được miễn thủ tục khai báo  hải quan và miễn kiểm tra thực tế; mặt hàng tôm xuất khẩu bị áp thuế và sắp tới phiên thép; tất cả nhu yếu phẩm đều đồng loạt thi đua tăng giá… Bản án phúc thẩm của Phương Uyên/Nguyên Kha/Nhật Uy đã lộ tẩy là một màn kịch vụng. Còn bản tin chuẩn bị đặc xá 2/9 mà Nguyễn xuân Phúc là Chủ tịch Hội đồng Tư vấn, người ta sẽ phải đọc như thế nào cho sát nghĩa? Một cách thả bớt tù hình sự cho trống chỗ để bắt giam thêm tù chính trị? Mấy ai còn đủ lòng tin chiến lược để nghĩ tới các nhân vật bất đồng chính kiến như Điếu Cày/Cù Huy Hà Vũ/Lê Quốc Quân/Anh Ba Sài Gòn/Tạ Phong Tần/Đỗ Thị Minh Hạnh/Đoàn Huy Chương/Nguyễn Hoàng Quốc Hùng/Vi Đức Hồi/Nguyễn Xuân Nghĩa/Dương Kim Khải/Trần Thị Thúy/các Thanh Niên Yêu Nước ở Vinh & Trà Vinh…? Mấy ai còn đủ lòng tin thực tiễn rằng dàn “lãnh đạo” ở Ba Đình thực tâm muốn đưa đất nước ra khỏi vũng lầy chủ nghĩa để cất cánh? Vậy thì, có gì là ngạc nhiên một khi Hoa Kỳ coi nhẹ hay rất nhẹ (và rất ngượng về) hai món quà “Ngã Giá Tù Nhân/Diễn Kịch Nhân Quyền” của Nguyễn Xuân Phúc? Nhẹ đến mức các nước không muốn viện trợ thậm chí bằng giấy tiền vàng mã (như Thụy Điển). Không một ai có thể cưỡng lại lương tâm nhân loại để hà hơi tiếp sức cho loại nhà nước nhân danh ổn định để tạo ra loạn lạc và kích động hận thù. Gút lại, người ta không cần theo dõi kết quả chuyến đi tiền trạm này của Phúc. Điều đáng quan tâm hơn cả là sự tích lũy bất mãn của nhân dân VN đang ở mức sẵn sàng bùng vỡ. Nếu cần theo dõi, người ta sẽ ghi nhận và sớm tổng kết những chỉ dấu Biến Động Tượng Hình. 24-08-2013  - Kỷ niệm tròn 22 năm ngày Mikhail Gorbachev từ chức Tổng bí thư đảng CSLX. Blogger Đinh Tấn Lực Nguồn: dinhtanluc.wordpress.com/
......

Đảng CS VN dưới mắt 2 nữ sinh, một giáo sư

Em sinh viên Nguyễn Phương Uyên có tư duy chính trị độc đáo. Em có lối suy nghĩ và cách nói không giống ai. Một nhân cách quý hiếm từ tuổi 20. Bước ra khỏi nhà tù, em chỉ có 3 từ : « We are One ! » - Chúng ta là Một.   Thật rõ, súc tích. Chúng ta là ai ? Đủ cả. Mẹ em, em em, bạn em, cũ và mới, đang có mặt. Cả những người vắng mặt ủng hộ em, khắp cả nước; rồi bạn bè, tổ chức quốc tế bênh vực em, cả tổng thống B. Obama nữa. Tất cả mọi người có lập trường tôn trọng quyền con người sống trên trái đất này là Một. Tách ra khỏi khối này là những kẻ chà đạp có hệ thống quyền con người. Có 3 từ mà em sinh viên nói lên đủ cả, ta thuộc khối vô tận, có chính nghĩa, có sức mạnh, tất thắng ! Với cách nói của riêng em, em lấy máu em làm mực, viết những dòng chẳng giống ai : « Tầu khựa cút khỏi biển Đông! », với đảng cộng sản, em cũng có cách nói rõ nhưng lạ: « Đi chết đi!», nghĩa là hãy biến đi cho dân nhờ. Như đảng CS Liên Xô đã chết không kịp giẫy vào cuối tháng 8 năm 1991, như một loạt đảng cộng sản ở Ba lan, Tiệp, Đức, Rumania, Bulgaria, Nam Tư, Albania, Latvia, Litva, Estonia một thời hét ra lửa, bỗng như chết dịch hàng loạt, theo chân nhau bò vào nghĩa địa sau khi bức tường Berlin sụp đổ do ý chí của nhân dân. Em không rủa đảng CS, em chỉ nói lên một mong mỏi, một nguyện vọng chính đáng thầm kín của số đông nhân dân rất mẫn cảm về chính trị lúc này. Thì ông Hồ Chí Minh chẳng nói rõ rằng:« Nếu chính phủ làm hại dân thì dân hãy đạp đổ chính phủ đó đi » trong cuốn Đường Cách Mệnh là gì ? « Chớ đánh đồng ! »,lại một cách nói riêng của Phương Uyên, đảng CS không được phép nhận vơ, ta là nhân dân, ta là dân tộc, ta là đất nước. Không được ăn gian. Tờ báo của đảng CS lại mang tên Nhân Dân. Ở Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Thảo Chi, Nguyễn Nữ Phương Dung, Nguyễn Thu Trang … chúng ta thấy cả một cuộc dấn thân mới mẻ hàng loạt của tuổi trẻ yêu nước, đang lên đường tiếp nhận bó đuốc sáng của thế hệ đàn anh, đàn chị. Phương Uyên dấn thân đúng ngày sinh nhật tuổi 20. Ra tù, em trả lời phỏng vấn nhanh gọn, súc tích, vẫn cách nói riêng của mình, không giống ai. Em nhẹ nhàng, khảng khái, không xin khoan hồng, không nhận một tội gì, không nhờ luật sư;  mặc cho án treo, em tuyên bố không ngừng nghỉ cuộc đấu tranh yêu nước. Thật là : «  với những con người mang đủ tố chất người, giá trị không hề chờ số tuổi » - « Aux âmes bien nées, la valeur n’attend point le nombre des années  » (Le Cid, Corneille).  Cũng là hậu sinh khả úy vậy. Ngay sau khi Phương Uyên được tự do, vấn đề lập những đảng mới để ganh đua, cạnh tranh hợp pháp với đảng CS đặt ra cấp bách, gây tranh luận sôi nổi, vang lên tiếng nói của một em sinh viên trường luật, cũng ở lứa tuổi đôi mươi, có nhiều ý tưởng xác đáng, già dặn, lập luận chặt chẽ. Đó là em Đỗ Thúy Hường, có bài trên mạng từ 4 năm trước với đầu đề là « Tôi nghiên cứu Luật đất đai ». Em phê phán mạnh dạn quan điểm không giống ai, « đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước của đảng thay mặt quản lý », thế là bao nhiêu đất đai chỉ một tích tắc thuộc tuốt về đảng CS, không qua một gịot mồ hôi khai phá, lao động nào. Từ đó sinh ra các khái niệm khủng khiếp với nông dân : thu hồi, đền bù, cưỡng chế, tai họa kinh hoàng mang nhãn hiệu Việt Nam. Hiện nay em là nhà luật học bảo vệ quyền sống của bà con nông dân ta mạnh mẽ nhất, hăng say có lý lẽ nhất, đòi việc sửa đổi luật đất đai sắp đến phải khôi phục nhiều hình thức sở hữu đất đai, từ sở hữu cá nhân, sở hữu tập thể, đến sở hữu công về ruộng đất, khôi phục các loại ruộng Công, ruộng Tư, ruộng Hợp tác xã, ruộng Nông trường quốc doanh, ruộng của gìòng họ, của hội Ái hữu, Từ thiện, Học điền (để khuyến khích học sinh giỏi), Tự điền (để cúng lễ)… như xưa kia vốn có. Trong bài «Đảng mới phải xuất hiện cái đã, nhưng thời cơ chín chưa ? », em Đỗ Thúy Hướng đưa ra một số ý tưởng già dặn. Lập đảng mới là cần, nhưng phải chuẩn bị tốt. Không để cho đảng CS bóp chết khi mới xuất hiện. Chuẩn bị để khi ra mắt có ngay từ 500 đến 1 ngàn đảng viên có tên tuổi, uy tín, những trí thức dân tộc, từng hay chưa là đảng viên CS. Đạt mức đó thì không thể bị đảng CS thủ tiêu. Trước mắt, qua các cuộc thảo luận về sửa Hiến pháp, sửa Luật Đất đai, thời cơ đang chín. Đảng mới ngoài cơ sở lý luận, học thuyết, cần chăm lo quyền lợi thực tế của các tầng lớp dân cư, từ dân nghèo thành thị, công nhân, lao động, tiểu thương, dân thất nghiệp, nhà kinh doanh vừa và nhỏ, tầng lớp trung lưu tiểu tư sản, phụ nữ, các tôn giáo … Em nêu ý  đảng mới không chống đảng CS, nhưng đảng CS buộc phải thay đổi căn bản, chịu ganh đua với đảng mới. «Nếu nó không chịu thay đổi, đó là nó muốn tự sát. Thế thì mặc … mẹ nó chết đi, ai mà cứu nổi nó ». Cũng như em Phương Uyên, em Thúy Hắng cùng mong « đảng CS chết đi », nếu nó vẫn tệ bạc với nông dân, nó vẫn ươn hèn với bọn bành trướng. Một cách nói bỗ bã, nhưng thẳng thắn thật lòng, với lập luận chặt chẽ. Giữa lúc 2 em nữ sinh viên tỏ rõ chính kiến đối với đảng CS, giáo sư toán học Hoàng Xuân Phú, nhà nghiên cứu cốt cán của Viện Toán học VN viết bài trên blog riêng của ông, chỉ rõ 2 tử huyệt của đảng CS là quyền lãnh đạo tự phong của đảng  - Điều 4 trong hiến pháp -  và cái quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai kỳ quặc đã nói trên đây, để cướp đất của nông dân, không thể nói khác được.. Mới đây nhất giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định đảng CS đã vi phạm  luật lệ do chính mình đề ra,  suốt 68 năm nắm chính quyền,  là một đảng chính trị, đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó. Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi, -  đảng CS Đông Dương, đảng Lao Động VN, rồi đảng CS VN -  nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh. Ngay Điều 4 của Hiến pháp, tự khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, cũng do quốc hội của đảng, hơn 90% đại biểu là đảng viên giơ tay thông qua, một kiểu ăn gian dân chủ, không hề qua trưng cầu dân ý, sau lưng xã hội, công dân không có tiếng nói, không một ai bàn luận, cũng là phi pháp, vô giá trị. Ông giải thích rằng mỗi điều khỏan trọng yếu của hiến pháp phải được hướng dẫn thi hành bằng một hay nhiều đạo Luật tương ứng. Điều 4 chưa hề được một đạo Luật nào hướng dẫn thi hành trong cuộc sống của xã hội. Nó vẫn chưa có giá trị vận hành trong cuộc sống. Vậy thì ngay lúc này ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải làm bản tường trình khai sinh ra đảng CS để tận tay mang nộp tại các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận : Tòa án Tối cao, Viện Kiểm Sát Tối Cao, Bộ Nội Vụ, Bộ Công An, Bộ Thông tin Truyền thông, Ban Thanh tra Chính phủ, Tòa soạn Công báo VN… để bổ xung hồ sơ của đảng CS VN cho hợp lệ. Xin nhớ lấy biên lai tiếp nhận. Một cụ già sanh ra từ năm 1930, nay đã hơn 83 tuổi, mang đủ thứ bệnh hiểm nghèo nhất, chống gậy đi xin làm giấy khai sinh. Có chuyện nào lạ kỳ, ngộ nghĩnh hơn. Bùi Tín
......

Xã hội Chính trị và Xã hội Công dân

Trên mạng Dân Làm Báo mới phổ biến bài viết ký tên Tam 8X tựa đề “Công khai thành lập Đảng đối lập - Tại sao? Khi nào?” Đây là một bài phân tích rất công phu và đầy đủ về việc lập đảng để công khai tranh đấu cho tự do dân chủ.   Đoạn cuối bài này viết: “...những nhà đấu tranh tự do, dân chủ hiện nay (người trẻ tuổi, trung niên, người cao tuổi) phải đọc lại quá trình đấu tranh và hình thành và sự giành thắng lợi của ĐCS Việt Nam từ trước khi các tổ chức cộng sản đầu tiên có mặt tại Việt Nam, đến khi hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam... để thấy rằng sự ra đời của một Đảng phái là một quá trình đấu tranh trước đó, chuẩn bị đầy đủ điều kiện CẦN và CÓ chứ không phải là thông qua một lời “tuyên bố, khởi xướng” nhất thời” (thí dụ, việc tuyên bố thành lập một đảng Dân Chủ Xã Hội mà các ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận đang hô hào). Lời khuyên trên đây rất hữu ích. Lập đảng không phải chỉ làm một việc “tuyên bố, khởi xướng” là đủ mà phải “chuẩn bị đầy đủ các điều kiện” để hoạt động. Tuy nhiên kinh nghiệm lập đảng Cộng sản Việt Nam không chắc đã thích hợp cho những người tranh đấu dân chủ ngày nay. Hơn nữa, học kinh nghiệm của họ có thể nguy hiểm cho tương lai nền dân chủ mà dân ta đang mong muốn. Có những kinh nghiệm khác cần tìm hiểu, thích hợp và lợi ích hơn. Tình thế nước ta bây giờ khác hẳn thời 1930 đến 1945. Nếu muốn học hỏi, những người đấu tranh đòi tự do, dân chủ hiện nay cần nghiên cứu kinh nghiệm của những nước đã từ độc tài chuyển sang dân chủ trên thế giới trong thời gian từ 1976 đến sau năm 1990. Đó là các nước phía Nam Châu Âu (từ Tây Ban Nha sang Hy Lạp), ở Nam Mỹ (Uruhuay, Brazi, Chile, vân vân), tại Đài Loan, Nam Hàn; và các nước cộng sản Đông Âu từ năm 1989. Vì hiện nay nước ta đang vận động chuyển mình từ độc tài sang dân chủ; giống các nước kể trên chứ không giống như thời kỳ đang tranh đấu chống thực dân Pháp giành độc lập. So sánh các biến chuyển ở Tây Ban Nha hay Chile, Đài Loan và Nam Hàn, với các cuộc vận động ở Tiệp Khắc hoặc Ba Lan, sẽ thấy khác nhau ở một điểm quan trọng, là vai trò của xã hội chính trị và xã hội công dân trong cuộc vận động dân chủ. Các đảng phái tạo thành xã hội chính trị, mục tiêu là giành lấy chính quyền. Trong xã hội công dân gồm các hiệp hội, phong trào, với mục tiêu thực hiện quyền công dân, họ có ảnh hưởng chính trị nhưng không nhất thiết nhằm đoạt lấy quyền điều khiển quốc gia. Tại các nước Nam Âu, Nam Mỹ và Á Đông, các đảng phái chính trị dẫn đầu phong trào đòi dân chủ tự do. Còn tại các nước cộng sản Đông Âu, vai trò tiên phong lại do xã hội công dân đảm nhiệm. Ở Ba Lan có phong trào công nhân của Công Đoàn Đoàn Kết và Giáo hội Thiên Chúa Giáo. Tại Hungary là Diễn Đàn Dân Chủ (Democratic Forum). Ở Tiệp Khắc là Diễn Đàn Công Dân (Civic Forum). Tại Bulgaria người ta thành lập Liên Minh Lực Lượng Dân Chủ (Union of Democratic Forces) sau khi đảng Cộng sản tự xóa và đổi tên. Tại các nước vùng Baltic các nhà tranh đấu lập ra những mặt trận. Không thấy tên một đảng nào cả. Trái lại, tại các nước Nam Âu và Nam Mỹ, các đảng phái đã được thành lập, nhiều đảng có tên từ trước thời chế độ độc tài lên nắm quyền; và họ đã liên tục tranh đấu đòi tự do dân chủ một cách công khai hay bí mật. Tại Uruguay và Chile, các đảng phái chính trị đóng vai trò chính trong phong trào đòi dân chủ. Tướng Pinochet coi thường sức mạnh của các đảng chính trị, nhưng khi không ngờ 12 đảng chính trị đã biết đoàn kết và phối hợp với nhau, thành công trong cuộc vận động trưng cầu dân ý, kêu gọi dân Chile bác bỏ dự thảo hiến pháp của nhà độc tài quân phiệt. Ở Tây Ban Nha đảng Lao Động Xã Hội vẫn hoạt động bí mật, họp các đại hội ở nước ngoài, năm 1974 mới về nước. Đảng Xã Hội Nhân Dân cũng vậy. Một hành động gây chấn động của Thủ Tướng Suarez là ông trả tự do cho lãnh tụ đảng Cộng sản và hợp pháp hóa đảng này. Suarez đã hợp pháp hóa các đảng chính trị trước khi bẩu quốc hội để soạn hiến pháp mới. Ở Đài Loan và Nam Hàn cũng chính đảng chính trị vận động dân chủ hóa. Tình trạng các nước Cộng sản Đông Âu khác hẳn. Tại sao các nhà tranh đấu dân chủ tại các nước Cộng sản Đông Âu không lập đảng mà chỉ thúc đẩy các phong trào hay diễn đàn? Lý do giản dị là các đảng chính trị đã bị đàn áp và cấm đoán từ khi cộng sản cầm quyền. Nhưng còn một lý do quan trọng khác, là người ta muốn tránh dùng chữ “Đảng.” Trong các nước cộng sản này, nói tới Đảng là đã thấy một nghĩa xấu. Xấu như thế nào thì ai cũng biết rồi; ở nước ta cũng vậy. Nghe nói Đảng là người dân nghĩ đến một nhóm người chỉ lo bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đảng không đại diện cho thành phần nào trong dân chúng; trái lại còn tự coi mình có “thiên mệnh” đứng bên trên “lãnh đạo” cả guồng máy nhà nước lẫn xã hội bên ngoài (điều 4 trong Hiến Pháp Việt Nam). Do đó, những người tranh đấu cho dân chủ tại các nước Cộng sản Đông Âu không lập những “đảng khác.” Họ vận động đòi thi hành quyền chính đáng của các công dân. Họ nhân danh là những người có “quyền công dân,” muốn thực thi các quyền đó, muốn tham dự vào các việc chung của xã hội, mà lúc đó dân không được can dự. Họ đòi tái lập “xã hội công dân,” một hình thái sinh hoạt mà các chế độ toàn trị không chấp nhận. Các chế độ toàn trị muốn “bao biện” tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt trong xã hội; các công dân không có quyền tập họp riêng với nhau. Phong trào đòi dân chủ ở Đông Âu phát xuất từ xã hội công dân, khác với phong trào ở Nam Âu hay Nam Mỹ xuất hiện từ xã hội chính trị. Một phần cũng vì tại các nước độc tài không cộng sản (Nam Âu hay Nam Mỹ) xã hội công dân vẫn tồn tại. Các công dân vẫn còn được quyền tự do tham dự những tổ chức không do chính quyền kiểm soát. Các công đoàn, các giáo hội, những hội từ thiện không bị gom lại trong tay một thứ “Mặt Trận Tổ Quốc” như ở các nước cộng sản. Vì thế, họ không có nhu cầu phục hồi xã hội công dân như dưới các chế độ độc tài toàn trị. Việc xây dựng dân chủ ở bất cứ nước nào cũng đòi hỏi phải phục hoạt cả xã hội công dân lẫn xã hội chính trị. Tùy hoàn cảnh, mỗi nơi đã chọn một lãnh vực làm điểm khởi đầu buộc chế độ độc tài phải thay đổi. Việt Nam sẽ theo con đường nào thuận tiện nhất, nhanh chóng và hữu hiệu nhất, chắc anh chị em trong nước biết nhiều hơn những người sống bên ngoài. Nhưng muốn xây dựng chế độ dân chủ thì chắc chắn người dân phải có ý thức về quyền công dân của mình. Họ phải tập sống dân chủ ngay trong các tập hợp nhỏ do họ thành lập. Vì vậy, cần gây một phong trào đòi thực hiện quyền của các công dân được tự lập ra các hội đoàn của họ. Vì đã gọi là công dân thì người ta phải được thể hiện quyền tự do hội họp mà hiến pháp nước nào cũng công nhận; bắt đầu ngay với các hiệp hội phi chính trị. Các phong trào dân chủ ở Đông Âu trước năm 1989 đã làm công việc đó. Tất nhiên muốn xây dựng chế độ dân chủ thì phải tổ chức các đảng chính trị. Không có đảng phái thì không thể có dân chủ. Nhưng chắc chắn không nên học theo kinh nghiệm hoạt động của đảng Cộng sản Việt Nam. Trước tiên vì mục đích khác nhau. Đảng cộng sản lập ra với mục đích chiếm chính quyền, bằng bất cứ phương cách nào. Còn các đảng chính trị ngày nay phải theo đuổi mục đích khác: Cùng đóng góp vào việc xây dựng nền dân chủ cho dân tộc Việt Nam, qua các thủ tục bỏ phiếu tự do của toàn dân. Mỗi đảng đều muốn được dân tín nhiệm để cầm quyền rồi thi hành các chính sách của mình. Nhưng dù không thắng cử họ vẫn chấp nhận, tiếp tục tham dự vào “cuộc chơi dân chủ.” Từ bản chất, các đảng chính trị đã hay đang thành lập ở Việt Nam phải khác hẳn đảng cộng sản. Vì vậy, ngay từ đầu các đảng chính trị dân chủ phải hoạt động công khai, khác hẳn quá khứ bí mật, bưng bít, tối tăm của đảng cộng sản. Cho đến bây giờ họ vẫn giữ bản chất đó. Nếu các đảng chính trị dân chủ lại đi học tập kinh nghiệm của đảng cộng sản thì họ sẽ phản bội ngay lý tưởng xây dựng dân chủ mà người dân đang khao khát. Vì thế, trong bài trước chúng tôi đã báo động nếu ai cũng nghĩ như ông Hồ Ngọc Nhuận, qua lời lẽ ông viết trong bài Phá Xiềng, thì rất nguy hiểm. Đó không phải là cách suy nghĩ trong xã hội dân chủ. Như khi ông Hồ Ngọc Nhuận viết: “Các đảng chánh trị yêu nước,... đang ủng hộ các bạn (tức Đảng Dân Chủ Xã Hội).” Không một đảng chính trị dân chủ nào có thể muốn tất cả các “đảng chánh trị yêu nước” phải nhập vào với mình. Nói vậy là hàm ý đảng nào không ủng hộ mình tức là chưa biết yêu nước. Trong xã hội dân chủ không một đảng phái nào được phép tự coi mình độc quyền yêu nước, độc quyền cái thiện, cái đẹp. Mỗi đảng phải biết tôn trọng tư cách của các đảng khác. Các đảng hết sức cạnh tranh với nhau để được dân ủng hộ; nhưng tất cả cùng tôn trọng một luật chơi dân chủ, là không ai chiếm độc quyền. Những lời báo động này không nhắm vào cá nhân các ông Lê Hiếu Đằng hay Hồ Ngọc Nhuận, mà chỉ nhắm vào một thói quen suy nghĩ không thích hợp với tinh thần dân chủ. Việc tuyên bố công khai thành lập một đảng chính trị trong lúc này là một hành động can đảm đáng ngợi khen. Mọi người nên làm theo lối minh bạch, công khai như vậy. Nhưng trước khi xây dựng dân chủ chúng ta cần xác định sống dân chủ phải hành xử như thế nào. Những lời cảnh báo này chỉ mong giúp các bạn trẻ ở nước ta đang dấn thân tranh đấu đòi tự do dân chủ nhìn rõ hơn con đường trước mặt. Nếu ngay trong bước đầu đã đi sai thì sau đó việc xây dựng dân chủ sẽ khó khăn hơn nhiều. Nguồn: nguoi-viet.com
......

Mang Lưới Blogger VN: Trao đổi với ĐSQ Australia về tình hình nhân quyền Việt Nam

Vào 9h sáng nay, thứ sáu, 23/8, một số blogger thuộc Mạng lưới Blogger Việt Nam đã có cuộc gặp với Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Australia, để trao bản Tuyên bố 258. Các blogger Việt Nam trao Tuyên bố 258 cho ông David Skowronski,  Bí thư thứ hai của Đại sứ quán Australia   Phía Mạng lưới có các blogger: Trịnh Anh Tuấn, Đào Trang Loan, Nguyễn Hoàng Vi, Nguyễn Chí Đức và Nguyễn Đình Hà. Đây đều là các blogger đã ký vào bản Tuyên bố 258, yêu cầu Nhà nước hành xử có trách nhiệm trong việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền để chứng tỏ Việt Nam là một ứng viên phù hợp cho cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.   Trong số các blogger có Nguyễn Hoàng Vi, cô gái đến từ Sài Gòn và là người tham gia tích cực trong cuộc “dã ngoại nhân quyền” ngày 5/5 vừa qua. Tại buổi gặp, các blogger đã trình bày với quan chức Đại sứ quán Australia về tình hình nhân quyền Việt Nam, đặc biệt là cách hành xử của chính quyền đối với sự biểu đạt bất bạo động của người dân. Họ cũng cung cấp thông tin về những vụ việc diễn ra gần đây: bắt giữ ba blogger, bắt bớ, đánh đập một nhóm sinh viên ở Hà Nội, bắt giam blogger Nguyễn Văn Dũng tức Aduku Adk. Các blogger cũng nêu rõ lý do đưa ra tuyên bố 258, trình bày nội dung chính của Tuyên bố cũng như giới thiệu sơ lược quá trình gặp gỡ trao Tuyên bố đến các cơ quan quốc tế thời gian vừa qua. Từ trái qua: Nguyễn Chí Đức, Trịnh Anh Tuấn, Nguyễn Hoàng Vi, David Skowronski, Nguyễn Đình Hà, Đào Trang Loan Phía Đại sứ quán tiếp nhận Tuyên bố, đồng thời, ông David Skowronski hỏi về những khó khăn mà giới blogger phải đối mặt ở Việt Nam. Ông cũng hỏi từng người về những cản trở họ đã chịu trước đây. Ông tỏ ra đặc biệt quan tâm đến phản ứng của chính quyền với các blogger tham gia ký Tuyên bố 258. Nhóm blogger cho biết họ đánh giá cao những đóng góp của Chính phủ cũng như tòa đại sứ Australia với sự phát triển của Việt Nam nói chung và tình hình nhân quyền Việt Nam nói riêng. Ai cũng  mong muốn Australia trong tương lai sẽ chú ý hơn nữa đến các vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Cuộc gặp hôm nay là buổi tiếp xúc thứ ba giữa Mạng lưới Blogger Việt Nam và các đại sứ quán. Hai lần trước đây, họ đã gặp cơ quan đại diện ngoại giao của Mỹ và Thuỵ Điển ở Việt Nam. Mạng lưới Blogger Việt Nam tuyenbo258.blogspot.comtuyenbo258@gmail.com nguồn: tuyenbo258.blogspot.com/
......

Đất là sở hữu toàn dân: Tất cả đất đai là sở hữu của ĐCSVN

Trong phiên chất vấn của UB Thường vụ chiều 20/8, ông Bộ trưởng tài nguyên môi trường Nguyễn Minh Quang nói: “Các cấp chính quyền “vô cảm” với người khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết chỉ để hết trách nhiệm thì tình trạng khiếu kiện kéo dài sẽ không bao giờ chấm dứt. Do vậy trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại phải đặt mục tiêu giải quyết đúng pháp luật, có lý, có tình, có tâm, xóa bỏ tư duy về “hết thời hiệu, hết thẩm quyền” thì mới hạn chế và giảm các vụ việc phức tạp, kéo dài phát sinh”.   Phát ngôn của ông Quang chỉ mang tính lý thuyết chưa đề cập đến nguyên nhân chính của chính sách đất đai. Cha Giuse Đinh Hữu Thoại, trưởng văn phòng Công lý và Hòa Bình của Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn (DCCT) nhận định: “Theo tôi, câu trả lời của ông Nguyễn Minh Quang chỉ đúng một phần và đó chỉ là cái ngọn. Ông Quang không biết hoặc cố tình không biết nguyên nhân thật sự và gốc rễ của tình trạng này. Thứ nhất là chính các cấp chính quyền địa phương cấu kết với các chủ đầu tư và bao che nhau để cướp đất của dân. Hầu hết những vụ khiếu kiện đất đai là như vậy. Ngoài ra, nguyên nhân gốc rễ hơn nữa chính là luật đất đai sai lầm hiện nay, đó là qui định đất đai sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý. Mà nhà nước là ai? Đó chỉ là một nhóm tham quan cấu kết với nhau để tự cho mình cái quyền thu hồi đất, không vì lợi ích chung mà chỉ trục lợi cá nhân. Chính luật đất đai hiện nay tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển và tạo ra ngày càng nhiều dân oan. Rồi các qui định giải quyết khiếu kiện được soạn thảo nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho các cán bộ, tham quan chứ không nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân. Vì thế, không bao giờ dân oan được giải quyết thỏa đáng.”   Chính sách đất đai của nhà cầm quyền không phù hợp cộng với những tồn đọng trong quản lý trước đây, cùng với “lòng tham vô đáy” của một nhóm người – nhân danh quyền quản lý đất đai và cơ chế giải quyết khiếu nại không thể hiện công bằng, nghiêm minh… dẫn đến tình trạng có nhiều dân oan như hiện nay, điển hình như gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn đã nổ súng để tự vệ trước sự đàn áp cưỡng chế của nhà cầm quyền Hải Phòng; bà con dân oan Long An thà chết để giữ đất; vụ Văn Giang, vụ Dương Nội; cưỡng chế đất ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; hay bà con dân oan ở các tỉnh, thành phố như Bến Tre, Vũng Tàu, An Giang… ăn dầm nằm dề ở Phòng Thanh Tra Chính Phủ số 210 Võ Thị Sáu hoặc ở các cơ quan công quyền bao nhiêu năm trời ròng rã đi khiếu kiện nhưng chẳng có cấp nào giải quyết thỏa đáng. Do đó, “Nhà cầm quyền phải thừa nhận quyền sở hữu đất đai của người dân. Đất đai của người dân đang sử dụng, nhà nước cải tạo, qui hoạch, đưa vào tập đoàn, thu hồi, giải tỏa, cưỡng chế… chắc chắn quá trình thực hiện phải có đúng, có sai. Hiện nay, luật qui định “đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước đại diện quyền sở hữu, định đoạt đối với đất đai…”, dùng quyền tuyên bố  “không xem xét lại đúng, sai nữa…”, không thừa nhận “khiếu nại, đòi lại đất nhà nước đã cấp cho người khác…” thì chắc chắn những người bị oan, bị sai phải khiếu nại. Muốn không “vô cảm” thì phải sửa luật. Thứ hai, nhà nước đã từng tuyên bố chủ trương sau giải tỏa phải đảm bảo đời sống tốt hơn cho người bị giải tỏa. Nhưng thực tế không được như vậy. Sau giải tỏa, tiền đền bù cho người dân, không đủ để mua lại một nền nhà ngay trên đất của mình, được phân lô thành hàng chục, hàng trăm nền nhà. Đã có trường hợp, nhà cầm quyền lấy đất của dân mấy chục ngàn mét vuông đất nhưng giao lại cho họ chỉ có 700 m2 (có thu tiền) và kết luận là “có lý, có tình”. Quan trọng là lý, tình này là của ai đặt ra? Ông tự ra “lý”, ông tự đặt “tình”, rồi ông tự kết luận “có lý, có tình”… Hoặc có trường hợp Uỷ ban trả lời với người dân đi khiếu kiện đất đai như sau: “Đất sau giải tỏa có giá là do cải tạo, qui hoạch…nên đừng so sánh”. Vấn đề là đất của tôi đâu cần ai qui hoạch, cải tạo… thế nhưng nhà cầm quyền lại tùy tiện qui hoạch, cải tạo, đền bù theo giá đất nông nghiệp rẻ mạt, phân lô bán theo đất nền làm giàu, còn người dân thì chịu lỗ và chịu khổ. Thứ ba, khi người dân đi khiếu nại thì “hết thời hiệu thông báo chấm dứt giải quyết khiếu nại”… Chưa kể nhà cầm quyền sẵn sàng chụp lên đầu người dân các mũ “gây rối trật tự công cộng, chống phá nhà nước, lợi dụng quyền dân chủ… Để biết “khiếu nại có dịu đi” hay không, đề nghị Ông Bộ trưởng trực tiếp đặt lịch, công bố công khai ngày giờ vi hành từng Tỉnh tiếp dân… Lúc đó hãy tuyên bố!”. Một luật sư sống ở Sàigòn nhận xét. Theo báo cáo của Mạng lưới Nhân quyền VN năm 2012 về truất hữu ruộng đất và dân oan, viết: “Việc tước đoạt quyền sở hữu của người dân đã và đang gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng tác hại đến cuộc sống của người dân Việt Nam. Ngoài việc làm tăng thêm đội quân thất nghiệp trong nước và tạo ra hàng triệu “dân oan”, chính sách tước đoạt quyền sở hữu đất đai của người dân đã và đang đẩy “dân oan” vào đường cùng với cuộc sống vô cùng khốn khổ. Nhiều người mất nhà cửa, ruộng đất đã trở thành vô gia cư. Những “dân oan” vô gia cư tiếp tục đi khiếu kiện một cách vô vọng từ năm này qua năm khác. Theo báo cáo của chính phủ, trong năm 2012 số khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, bao gồm khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án; khiếu nại tranh chấp đất đai; khiếu nại đòi lại đất cũ… chiếm 74,7% tổng số đơn khiếu nại.”   Người dân oan đã nghèo khổ, cùng cực và túng bấn nhưng vẫn phải nai lưng ra đóng thuế, để nuôi các đảng viên là những người thực hiện công quyền, thế nhưng các cán bộ đã cấu kết với các doanh nghiệp bóc lột và cưỡng chế đất đai – miếng cơm manh áo và xương máu của dân oan. Đồng thời, người dân VN chưa hiểu quyền con người bởi họ sống trong một cơ chế ban phát, xin – cho, ơn đảng và nhà nước trong suốt hơn 38 năm qua. Luật sư Sàigòn cho biết: “Khó khăn nhất hiện nay là bà con đa phần nghèo, ít hiểu biết về luật pháp, dẫn đến không xác định được vụ việc của họ đúng sai thế nào? Quyền và nghĩa vụ của họ và của cơ quan giải quyết… Còn cơ quan giải quyết thì “vô cảm”, “máy móc”, cấp trên “chuyển đơn, yêu cầu giải quyết, yêu cầu báo cáo…” xong rồi thôi. Có vụ Thanh tra chính phủ, thậm chí Thủ tướng “yêu cầu…” hai lượt, ba lần, vài ba năm sau… chán rồi thôi. Dân oan vẫn còn đó đi khiếu nại. Cần có người thực sự am hiểu pháp luật, tận tâm hướng dẫn bà con… nhưng những người như vậy – nếu có – thường được tặng mũ “kích động người dân khiếu nại” và bước gần hơn đến tội “lợi dụng quyền dân chủ” hay được vào Bệnh viện Tâm thần chữa trị.” Đất đai của các tôn giáo nói chung và DCCT nói riêng bị nhà cầm quyền cướp một cách trắng trợn và các vị chức sắc DCCT nghiễm nhiên trở thành dân oan đi khiếu kiện trong suốt nhiều năm qua. Cha Thoại cho biết: “Đất đai, tài sản của tôn giáo, của GHCG nói chung và của DCCT nói riêng còn bị oan sai nhiều hơn nữa. Đất đai của dân ít ra còn được bồi thường, tuy với giá rẻ mạt. Nhưng đất đai và tài sản tôn giáo thì bị 2 dạng: cướp chiếm trực tiếp và mượn xong rồi cướp (không trả). Tệ hại hơn nữa là chính sách nhất quán, triệt để tiêu diệt tôn giáo của nhà cầm quyền cộng sản còn qui định không coi các tổ chức tôn giáo là một pháp nhân. Luật pháp VN hiện nay không cho tôn giáo đứng tên bất cứ tài sản nào, nhất là tài sản về đất đai và nhà trên đất. Họ không cho tôn giáo được đứng ra nhận chuyển nhượng, tặng cho, hay di chúc và các tổ chức tôn giáo cũng không được chuyển nhượng (bán) đất hay nhà của mình. Nói chung, VN là một quốc gia có luật pháp “rừng rú” nhất trên thế giới, vì luật pháp ấy không phục vụ dân mà chỉ nhằm phục vụ kẻ cầm quyền.” Trong bài viết của RFA với tựa đề Đất đai thuộc về giai cấp mới – giai cấp cộng sản, Luật gia Lê Hiếu Đằng, người từng trải qua kinh nghiệm với đảng cộng sản suốt mấy mươi năm đã phát biểu: “Trước kia nông dân nghe theo Đảng để mong có ruộng đất. Cái chuyện nông dân ly tán, khổ đau vì mất đất là do đâu? Là do cái quy định đất đai là sở hữu toàn dân!”.   “Sở hữu toàn dân” chỉ là một cách nói lừa bịp để che đậy thực chất: Tất cả đất đai trong nước là sở hữu của ĐCSVN.” Báo cáo của Mạng lưới Nhân Quyền VN năm 2012 khẳng định. Huyền Trang, VRN nguồn: http://www.chuacuuthe.com
......

Mẫu mực chống tham nhũng sắp áp dụng tại Việt Nam

Cuối năm 2012, khi lên nhậm chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ tịch nhà nước Trung quốc, ông Tập Cận Bình cũng đã tuyên bố như bao nhiêu vị tiền nhiệm của mình là phải triệt để phòng chống tham nhũng. Hiển nhiên, dưới các chế độ Cộng sản độc tài, lãnh đạo ở thượng tầng dù không làm theo những gì mình tuyên bố thì cũng chẳng ai dám bắt bẻ, cũng như trong hậu trường ông Tập Cận Bình còn bộc bạch rằng hiện nay chống tham nhũng chỉ như "quậy nồi canh đang sôi cho khỏi trào thôi" chứ không làm gì hơn được. Tuy nhiên, trên mặt trận tuyên truyền, lãnh đạo vẫn phải làm một vài chuyện gì đó, đủ để báo đài ca ngợi là "dám nói, dám làm". Theo các nhà hoạt động xã hội ở Hoa lục thì đã 8 tháng qua, không có một vụ tham nhũng, hối lộ nổi cộm nào được báo đài loan tin. Họ giải thích thêm rằng chẳng phải vì thành phần đang nắm chức quyền quá sợ ông Tổng bí thư mới đến độ ngưng lập tức mọi mối làm ăn phi pháp, mọi mạng lưới tham nhũng, mà PHẢI HIỂU NGƯỢC LẠI. Theo giới quan sát này, ông Tập Cận Bình đang sợ đủ loại phe nhóm theo ban ngành, theo từng địa phương, theo từng thành viên Bộ chính trị, theo khuynh hướng tư tưởng chính trị tả hay hữu, v.v... và không dám đụng đến "lãnh thổ làm ăn" của các phe khi cái ghế của ông còn quá mới. Hơn thế nữa, chính ông Tập và gia đình cũng đang nắm nhiều tài sản mà không sao giải thích được bằng số tiền lương của một người "suốt đời cống hiến cho đảng, cho nước". Trong lúc báo chí phương Tây có vẻ trầm trồ về việc ông Tập Cận Bình ra tay "đập tham nhũng" rất sớm sau ngày lên ngôi chứ không chờ vài năm sau như ông Hồ Cẩm Đào, thì giới trí thức Trung Quốc hiểu rất rõ lý do. Chính việc ra tay sớm đó là một bằng chứng nữa cho thấy đợt "đập tham nhũng" này chỉ mang tính hình thức. Điều tiên đoán này đã được ông Tập nói huỵch toẹt ra trong Đại hội cán bộ cao cấp bị thu lén và tung ra mạng Internet. Ngay cả đối với con dê Bạc Hy Lai bị Ôn Gia Bảo đưa ra tế thần, nhiều nguồn tin từ đất Trung Quốc cũng cho thấy ông Tập đã mặc cả xong với phe ủng hộ họ Bạc. Sẽ không có chuyện tử hình hay chung thân gì cả đối với ông Bạc mà chỉ một tội nhẹ để phạt cho có là xong. Đi xa hơn thế nữa, ông Tập còn hứa hẹn là sẽ dùng lại nhiều chính sách của Mao Trạch Đông mà cánh Bạc Hy Lai chủ trương. Việc ông Tập đến tận Vũ Hán để thăm ngôi biệt thự ven hồ của ông Mao và tuyên bố sẽ biến nó thành trung tâm giáo dục thanh niên về lòng yêu nước, yêu cách mạng, đã làm phe khuynh tả nói chung và cánh ủng hộ ông Bạc rất hoan hỉ. Một cách giải quyết nữa của họ Tập là khuyến khích các quan chức có tai tiếng hãy "hạ cánh an toàn" ở nước ngoài. Trong chiều hướng đó, vào ngày 14 tháng 8 vừa qua, tờ Nhân Dân của đảng Cộng sản Trung quốc đăng tin chính quyền tỉnh Quảng Tây đã không còn biết ông Vương Nhạn Uy, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung quốc (một tổ chức giống như Mặt trận Tổ quốc của nhà nước CSVN) bây giờ ở đâu. Bài báo cũng nói thêm, ngoài ông Vương ra còn có thêm hai quan chức khác tại tỉnh Hồ Nam cũng biệt vô âm tín. Tờ Nhân Dân không tiết lộ nguồn tin nhưng lại khẳng định cả ba quan chức đó đã bỏ trốn ra nước ngoài. Nếu cộng thêm ba quan chức này thì trong 5 năm qua đã có trên 6.220 cán bộ cấp cao bỏ trốn ra nước ngoài. Theo điều tra của Viện Xã hội & Khoa học Trung quốc (tức chính học viện của nhà nước) thì từ năm 1990 đến giữa năm 2013 đã có từ 16 ngàn đến 18 ngàn cán bộ, quan chức cấp cao tại các bộ, ban, ngành và các xí nghiệp quốc doanh đã bỏ trốn ra nước ngoài cùng với tài sản của mình. Số tài sản này, theo Viện XH&KH (mà dù nhiều người tin rằng nhỏ hơn nhiều con số thực) trên 800 tỷ nhân dân tệ. Hiện nay, chỉ có tờ Nam Phương nhật báo dám chỉ trích chính quyền tỉnh Quảng Tây và tỉnh Hồ Nam thiếu trách nhiệm trong việc phòng chống tham nhũng. Điều khá lộ liễu là tờ báo Nam Phương nhật báo mà còn biết ông Vũ Nhạn Uy hiện đang "chữa bệnh ở Úc" nhưng giới lãnh đạo tỉnh Quảng Tây, Bộ Công An Bắc Kinh, và Ủy ban Phòng chống tham nhũng trung ương không biết ông Vương ở đâu. Tờ Nam Phương còn cho biết cuối tháng 6/2013, ông Vương đã nạp đơn xin từ chức để sang Úc chữa bệnh. Hai quan chức ở tỉnh Hồ Nam cũng xin từ chức với lý do như ông Vương. Cả ba đơn từ chức đều được chính quyền Quảng Tây và Hồ Nam chấp thuận. Do đó, việc ra đi - hay "bỏ trốn" - này rõ ràng được sự đồng ý và biết trước của cấp trên. Và đây chỉ là 1 thí dụ cho chính sách "phòng chống tham nhũng" của Tập Cận Bình. Theo giới theo dõi tình hình xã hội, chính trị Trung quốc, việc một quan chức ở Hoa lục từ cấp Phó trưởng ty trở lên có trương mục ngân hàng ở các nước ngoài đã quá bình thường. Ai không có mới là chuyện bất thường và bị đồng nghiệp cho là đóng kịch. Hầu hết cũng đã lo xong từ lâu cho vài đứa con hoặc thân nhân ruột thịt quản lý tài sản của họ ở nước ngoài. Ba quan chức vừa mới "bỏ trốn" chắc chắn không là ngoại lệ. Và sau hết trong chính sách Phòng Chống Tham Nhũng của cả Hồ Cẩm Đào lẫn Tập Cận Bình là không phạt quá nặng để tránh oán hận trong nội bộ (không khác gì tuyên bố thành lời của TBT Nguyễn Phú Trọng). Theo luật hiện hành của Trung quốc, quan chức nào có hành vi hối lộ, biển thủ ngân quỹ nhà nước từ 100 triệu đồng nguyên trở lên sẽ phải chịu mức án tử hình. Năm 2011, một cán bộ Tài chánh tỉnh Giang Tây thụt két 100 triệu đồng nguyên rồi bỏ trốn sang Singapore. Khi cán bộ này bị bắt và dẫn độ về Trung quốc, ông ta bị xử án 15 tháng tù. Trường hợp mới đây nhất là ông Lưu Chí Quân, cựu Bộ trưởng Đường sắt Trung quốc bị án tử hình vì nhiều vụ hối lộ tổng cộng trên 130 triệu mỹ kim. Ông Lưu bị án tử hình nhưng lại là án treo vì "đã có công đóng góp và xây dựng Đảng". Nói tóm lại, cho đến nay chưa có một quan chức lớn nào bị xử bắn vì tội tham nhũng, hối lộ theo luật định. Nếu vẫn dùng công thức: Chuyện Trung Quốc cộng 9 tháng thành chuyện Việt Nam, thì Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Ban Nội chính Trung ương đang chuẩn bị hộ chiếu và giấy thông hành cho nhiều quan chức "đi chữa bệnh" trong năm 2014, kể cả cho các thành viên của hai ban.
......

Đảng của những người bỏ Đảng

Đảng bịnh nặng lắm rồi. Hai vị đứng đầu của đảng là bác Tư Sang và bác Trọng Lú đã công khai công nhận điều đói. Nhiều bịnh lắm nhưng bịnh có tính quyết định cho sự sống còn của đảng là bịnh tham nhũng. Ở đây xin đi lạc đề để bàn chữ “lú” một tí chứ có người chưa biết chuyện lại hiểu nhầm ý tốt của tôi. Gắn chữ lú vào bên cạnh tên bác Trọng, theo như bài báo chính thức trên lề đảng là tỏ ý ca tụng bác là người cực kỳ trong sạch chứ không phải chê bai bác là lú lẫn. Theo bài báo ấy vì bác quá sức trong sạch, trong sạch một cách kỳ lạ, dân gian không còn từ gì để ngợi ca nên phải sáng tạo ra từ mới là "lú" để dùng. Lú nầy đồng âm với lú kia nhưng dị nghĩa. Qua đó thấy rằng bác Trọng rất rất trong sạch. Bác Tư cũng được xem là trong sạch. Hai bác đều trong sạch nên rất mạnh khỏe. Mạnh khỏe nên chưa nhóm bịnh dù đang sống trong một môi trường rất bịnh. Do vậy không còn ai xứng đáng hơn hai bác ấy trong việc đứng lên phất cao ngọn cờ chống bịnh, đặc biệt là bịnh tham, là căn bịnh trầm kha đang đến hồi phát tác khủng khiếp. Ông Lê Hiếu Đằng trong lần tham gia biểu tình với các bạn trẻ Hai bác ấy rất có tâm, có lòng với đảng, rất nhiệt tình lo chữa trị cho đảng nhưng khổ nỗi hai bác ấy lại dùng các phương thuốc quá cũ để chữa trị. Cái bịnh tham bây giờ nó biện chứng phát triển đến mức siêu việt theo sự phát triển của thời đại rồi. Mỗi lần nó ăn là ăn đến hàng trăm, hàng ngàn tỉ. Và cách ăn của nó cũng rất ...công khai minh bạch. Ăn qua chính sách, ăn qua cách ra nghị định và thông tư, ăn qua dự án, ăn qua nhóm lợi ích, ăn qua các công ty sân sau, ăn qua các ngân hang, ăn qua đấu thầu công khai…nghĩa là có muôn trùng cách ăn và ăn rất dễ dàng là nhờ vào chính cơ chế vận hành để sinh tồn của đảng. Vậy mà hai bác trong sạch lại dung liều thuốc phê và tự phê, là cái bài thuốc của ông lang Mao du nhập vào VN cách đây hơn nửa thế kỷ chỉ dùng để bôi ngoài da cho các vết lở gây ra bởi bệnh tham lúc còn sơ khai cho đỡ ngứa tạm thời chứ không dứt được căn nguyên. Ngay với cái bệnh tham thời sơ khai chỉ ăn vài cân thóc, vài lạng thịt, vài tờ tem phiếu thì liều thuốc ấy cũng không chữa dứt được, huống chi là chữa cái bịnh tham đã tiến hóa lên đến mức siêu việt như ngày nay cùng những biến chứng tinh vi của nó. Để chữa bịnh tham, thế giới đã có bài thuốc mà hầu hết quốc gia tiên tiến đang sử dụng rất hiệu nghiệm. Một nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập, một xã hội dân sự, một nền kinh tế thị trường minh bạch là thang thuốc cực tốt để đẩy lùi bịnh tham. Thật ra bác Lê Hiếu Đằng không phải là một thang thuốc, nhưng những bước đi của bác đang cùng mọi người góp phần đấu tranh cho sự hình thành một thang thuốc hiện đại để chữa bịnh cho cả quốc gia. Từ lâu, nhiều đảng viên đã nhìn thấy căn bịnh của đảng đang phát tác và lây lan khắp nơi nên tự cứu mình bằng cách bỏ đảng chạy ra ngoài. Số lượng đảng viên bỏ đảng chưa có thống kê chính thức, nhưng tính từ năm 75  nghe đồn cứ lai rai gộp lai đến bây giờ cũng ra một con số không nhỏ. Hiện nay theo như bác Đằng nói thì có khá nhiều người đang muốn ra và dường như họ muốn rũ rê nhau cùng công khai tuyên bố ra một lúc vào một ngày đẹp trời nào đó. Hai ông Huỳnh Nhật Tấn và Huỳnh Nhật Hải là hai đảng viên bỏ đảng rất sớm Ra rồi thì có thể cứu được bản thân mình. Nhưng còn đảng và dân chúng thì sao. Căn bịnh của đảng không chỉ lây lan trong đảng mà còn di căn ra ngoài xã hội. Xã hội hiện nay cũng bịnh quá rồi. Đâm, chém, cướp, hiếp, lừa đảo, mại dâm, ma túy... tràn lan khắp nơi. Các bác ra khỏi đảng nhưng còn thấy mình có trách nhiệm với đảng và quan trọng là với xã hội và đất nước. Phải chăng vì vậy mà các bác ấy muốn làm cái gì đó để cứu đảng, cứu nước, cứu dân? Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, những năm cuối cùng của chế độ cộng sản Xô Viết, một nhà văn nào đó của Liên Xô dấy lên chuyện lập đảng cho những người không đảng. Tôi không còn nhớ rõ, đại khái ông nói rằng đất nước Xô Viết với hơn 400 triệu dân mà chỉ có một đảng dành riêng cho 20 triệu đảng viên vì vậy nên có một đảng dành cho những người không đảng còn lại để nhằm vào mục tiêu cứu nước Liên Xô vĩ đại. Nhưng đảng ấy chưa kịp lập ra thì chế độ Xô Viết đã ngã ra đột tử vì bịnh đã quá nặng, hết phương cứu chữa. Bây giờ thì bác Đằng và bác Nhuận hô hào lập đảng từ những người bỏ đảng. Khi chuyện nầy nổ ra đã tạo nên những phản ứng đa chiều trong dư luận. Ủng hộ, công kích, nghi ngờ…thôi thì đủ kiểu suy diễn. Có vài chiều ý kiến từ chính những người đã bỏ đảng hoặc chuẩn bị bỏ đảng đã thu hút sự chú ý của nhiều người. Theo một luồng ý kiến thì thời cơ chưa chín mùi để ra đời một cái đảng như vậy (nhưng không biết khi nào thì chin mùi?). Một luồng ý kiến khác thì cho rằng liệu pháp của hai bác Đằng- Nhuận là quá sốc đối với một cơ thể đã quá già nua và đang bịnh nặng. Gộp từ hai luồng ý kiến đó đã phát sinh ra một luồng ý kiến nữa là nên chăng đưa ra một liệu pháp ít sốc hơn là thay vì lập đảng thì lập một phong trào rộng rãi gì đó để vận động nhiều người tham gia để cùng nhau cứu nước, cứu dân. Theo Hiến Pháp thì mọi công dân đều có quyền tự do lập đảng, lập hội, lập nhóm. Tuy nhiên từ sau năm 75 đến nay chỉ thấy hai đảng chính trị hợp pháp là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội bị giải tán chứ chưa thấy một tổ chức chính trị nào có đường lối độc lập với đường lối của đảng CSVN được ra đời hợp pháp. Nhiều tổ chức nhen nhóm ra đời đã nhanh chóng bị dập tắt. Từ đảng Dân Chủ phục hoạt của cụ Hoàng Minh Chính đến nhóm 8406... thậm chí đến một câu lạc bộ ngành nghề như câu lạc bộ Báo chí Tự do cũng không thể nào được phép hoạt động và những người khởi xướng là Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn đều đang bị nằm tù như mọi người đã biết. Từ đó dư luận không tin rằng tổ chức chính trị mà hai bác Đằng- Nhuận hô hào khởi xướng sẽ ra đời được. Tuy nhiên cũng có một luồng dư luận nhỏ hơn cho rằng, tình hình đang càng ngày càng thuận lợi, có vài tín hiệu cho thấy đã đến lúc phải tỏ ra cởi mở và thay đổi. Miến Điện đã làm được và không gây ra xáo trộn gì, sự xuất hiện của phe đối lập không những không làm cho phe cầm quyền ngã lăn ra đột tử mà còn làm cho họ tăng thêm uy tín trong dân và dưới mắt bạn bè thế giới. Miến Điện làm được thì lý gì Việt Nam anh hùng tài giõi hơn lại không làm được. Nhưng dù cho đảng của những người bỏ đảng ấy không lập ra được vì lý do nào đó thì tiếng hô hào của họ cũng giúp đánh tan được phần nào nỗi sợ hãi đang bao trùm, cũng là góp tiếp những bước đi cho sự hình thành xã hội dân sự. Nguồn: blog Huỳnh Ngọc Chênh
......

Các Giáo Sư Trường ĐHCNTP Sài Gòn Nói Gì Khi Phương Uyên Về Lại Trường Xưa?

Trong lúc chỉ sau 6 ngày sau khi P.U bị bắt cóc đã có hàng trăm SV bạn bè của P.Uyên bức xúc viết lời nỉ non, cầu cứu đến chủ tịch nước. Tuy kết quả chỉ là sự im lặng lạnh lùng từ chính quyền nhưng tấm lòng của các SV kia là đáng trân trọng. Là những bậc "Sư" đứng trên cả cha mẹ mà hoàn toàn vô cảm, và còn có một số "Sư" lại cam tâm đứng về phía tà quyền cùng nhau trấn áp, gây áp lực cho các học trò thương yêu của mình phải làm những việc tang tận lương tâm... Dân gian thường nói "Cười thầm dễ ở. Hổ ngươi thầm biết thuở nào nguôi?". Đó là lời của dân gian VN ta mà đa phần là ở tầng lớp nông dân nghèo, dân trí thấp nhưng luôn có lòng tự trọng cao và xác định nghèo chứ không hèn nên mới có câu trên truyền khẩu qua bao đời trong xã hội. Xã hội VN từ khi có "đảng quang vinh" thấm nhuần tư tưởng và đạo đức HCM mà từ đứa bé khi mới tập nói đến người già đều phải học và học mãi... Cái đạo đức ấy là những chương đầu trong mọi giáo án mà các vị thầy cô khi bước lên bục giảng ở mọi mái trường XHCNVN đều thuộc nằm lòng và thời gian trôi qua các thầy cô còn sáng tạo thêm, sơn phết thêm cho cái đạo đức ấy được sáng ngời mà gieo vào lòng bao thế hệ ấu thơ cùng thanh niên tuổi trẻ VN. Nhớ lại hơn 10 tháng trước tại khung trời trường ĐHCNTP Sài Gòn, một cô bé SV Phương Uyên 20 tuổi, vừa mới rời vòng tay mẹ không lâu nơi quê nghèo miền Trung quanh năm gió cát... như một con chim non vừa rời tổ băng mình vào khoảng trời xanh cùng bạn bè trang lứa để học hỏi với ước vọng "Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời!" và trước mắt là những tấm gương của các vị Giáo Sư nơi mái trường ấy thật vô cùng to lớn... Bao ước mơ, hoài bão mà P.Uyên và các bạn đều kỳ vọng vào cái tâm và cái tầm của các vị GS này. Ngoài học tập, trau giồi kiến thức để làm vốn quí góp phần xây dựng quê hương ra... cô SV P.Uyên còn có một tầm nhìn xa trông rộng nhất là trên phương diện tồn vong của đất nước. Thấy được thế nước tình nhà và mối nguy cho dân tộc mà bao lớp trẻ và kể cả những bậc đàn anh, đàn chị cũng ít có mấy ai đồng cảm và chung một hướng nhìn. Thế là P.Uyên lao về phía trước và "Quyết đem thân thế hẹn cùng nước non..." nội dung này tôi không viết ra nơi đây nữa, vì cả hơn 90 triệu dân VN và nhiều dân tộc, Quốc Gia trên thế giới đều đã rõ. Nơi đây tôi chỉ tái hiện lại các sự kiện và những hình ảnh cùng những nỗi niềm nơi ngôi trường mà P.Uyên theo học để chúng ta chuẩn bị tiếp nhận những hình ảnh cũng tại nơi này trong nay mai khi P.Uyên về lại trường xưa. Những ngày giữa tháng 10 năm ngoái (2012) trước sự dũng cảm của Nguyễn Phương Uyên, một cô SV vừa tròn 20 tuổi thẳng thắn nói lên sự bức xúc của mình trước sự mất còn của Tổ Quốc, ghét bọn xâm lược, hận bè lũ tham nhũng làm lũng đoạn Quốc Gia. Chính vì trái tim yêu nước nồng nàn với tấm lòng trong sáng, tinh khôi không vướng bận một chút hồng trần... không vì một mục đích riêng tư, hạ đẳng như những tập đoàn nô dịch chính trị, tay sai bán nước. P.Uyên lao về phía trước bởi sự ray rức, trăn trở cho tương lai dân tộc cùng một niềm tin và góp phần điểm tô cho xã hội được trong sáng tươi đẹp hơn. Đối kháng lại hành động cao cả, phi thường của một cô gái tuổi 20... ngoài cả sự tưởng tượng của tập đoàn bán nước. Từ đó cả một guồng máy bạo tàn phải lúng túng, hốt hoảng và bộc lộ rõ tính côn đồ ngay trong những ngày tháng 10/2012 mà nơi đây tôi không cần nhắc lại. Duy chỉ có cái hèn mà không có một cái hèn nào hơn khi nó lại được sinh ra trong môi trường "Giáo dục", nơi mà đạo đức HCM là kim chỉ nam dẫn lối đưa đường... Trước sự kiện cô SV P.Uyên bị bắt cóc thì cả một bầy đoàn gồm thành đoàn TNCSHCM, phòng công tác SVĐHCNTP, GS Trưởng khoa CNTP, các bí thư đoàn trường, đoàn khoa và một số GS đang giảng dạy tại nơi đây đã đến tận lớp rêu rao, xuyên tạc bôi nhọ P.Uyên để đánh tráo hành động đốn mạt hạ cấp của mình. Bầy đoàn này còn bẩn thỉu, hạ đẳng hơn là gây áp lực lên đầu những SV tuổi trẻ còn mài quần trên ghế nhà trường, còn đang ăn học, trau giồi đạo đức làm người-đạo đức HCM-phải dối trá, nói ngược phản bội lại chính trái tim mình! Các vị ép buộc các em viết bản cam kết là không ký tên vào đơn gởi lên chủ tịch nước khẩn thiết, kêu cứu cho P.Uyên - Vì khi P.Uyên bị bắt cóc là cả hàng trăm SV bạn bè cùng khoa, cùng trường với P.Uyên đã làm đơn kêu cứu đệ lên chủ tịch nước Trương tấn Sang, bởi trước đó cũng trong tháng 10/2012 chính Chủ Tịch T.T.Sang đã vi hành về Sài Gòn kêu gọi, hô hào bà con cương quyết bài trừ tham nhũng, bắt sâu trừ hại cho bá tánh đồng thời ông sẽ quan tâm và có hành động trong vấn đề biển đảo trên Biển Đông... và P.Uyên đã làm theo những gì ngài C.Tịch T.T.Sang cỗ võ để rồi mang họa vào thân, chịu cảnh bị bắt cóc lôi đi giữa ban ngày ban mặt, trước bạn bè, bà con lối xóm trọ học một cách công khai như phường thảo khấu lục lâm. Chưa dừng lại nơi đó, tập đoàn thầy cô giáo cùng các thành phần kể trên của trường còn đe dọa đến việc học hành, đe dọa cho tương lai... đánh đổ cơm áo, gạo tiền, mồ hôi xương máu của cha mẹ liệu các em SV, những con chim non, những con nai vàng ngơ ngác kia có được đứng vững? trong khi hầu hết các em đều thiếu căn bản ý thức chính trị, thiếu tầm nhận rõ bổn phận, trách nhiệm của mình trước giang sơn, dân tộc. Hàng trăm chữ ký trong đơn của các SV gởi cho C.Tịch T.T.Sang là giả mạo? Lúc đó các vị diễn trò áp bức các SV tuổi trẻ mầm non của Tổ Quốc phải làm những điều xấu xa, phản bội lại mình là một trò hề hạ đẳng, có phải chăng đó là cái tầm của học hàm, học vị và nền đạo đức mà các vị đang rao giảng? Nơi đây, các vị gọi là trí thức VN thời CS đã tự phơi bày cho toàn nhân loại nhận rõ hơn bản chất của chế độ CSVN mà thôi. Nếu trong màn kịch lố bịch, khả ố đó quí vị có đạt được những bản cam kết dối trá bắt buộc trên thì trong thâm tâm, trong tiềm thức của các em SV cũng có một cái nhìn và đánh giá các vị là bậc thầy cô như thế nào? Khinh bỉ hay tôn kính? trong khi các em không thể làm khác hơn được trước áp lực đồi bại, nham hiểm phủ lên đầu? Đối với cả hệ thống tập đoàn CSVN thì ai cũng rõ. Riêng với các vị là GS mà các em SV tôn vinh là thầy cô thì hôm nay các vị nghĩ gì khi P.Uyên về lại mái trường xưa? Các vị sẽ nói gì với tính cách là tấm gương sáng? là khuôn vàng thước ngọc để các em noi theo? Là hình ảnh những vị thầy, những nhà mô phạm? và đang truyền dạy đạo đức cho các em? Đứng đầu của đạo đức là tính trung thực và lòng yêu nước! Thời gian qua các vị đã dạy cho các em sự phản bội, tính dối gian! Trở xuôi làm ngược... dạy cho các em phản quốc, đồng lõa với ngoại xâm, nội thù! Những việc làm táng tận lương tâm, đi ngược với trí thức mô phạm đó có phải chăng vì chén cơm nồi gạo? Với khả năng về trí lực của các thầy cô, quí vị không thể tạo ra chén cơm manh áo bình thường mà trong sạch, thanh cao được sao? Tấm gương của các nhà giáo như Chu văn An, Võ trường Toản... quí vị đã đập vỡ rồi chăng? Những thứ vật chất tầm thường đó trong xã hội ai cũng có thể tìm ra được thế thì tại sao quí thầy cô lại đi đánh đổi cả một hình ảnh cao đẹp, là thần tượng của tuổi trẻ và của mọi người? Quí thầy có còn nhớ cố Thủ Tướng CSVN P.V.Đồng đã nói "Nghề giáo là một nghề cao quí nhất trong những nghề cao quí!" không? Bất cứ trong một xã hội nào cũng "Tôn sư trọng đạo" cả, chỉ có ở những nơi ít người nhiều ma mới không có mà thôi. Với những việc làm vô đạo đức và vô cảm của thầy cô đối với cô học trò bé nhỏ yêu nước thương đồng bào, bức xúc cho biên cương biển đảo của mình thật đáng chê trách chứ chưa nói đến sự rẻ khinh. Trong lúc chỉ sau 6 ngày (sau khi P.U bị bắt cóc) từ 14/10/2012 đến 20/10/2012 là đã có hàng trăm SV bạn bè của P.Uyên bức xúc viết lời nỉ non, cầu cứu đến chủ tịch nước tuy kết quả chỉ là sự im lặng lạnh lùng từ chính quyền nhưng tấm lòng của các SV kia là đáng trân trọng. Là những bậc "Sư" đứng trên cả cha mẹ - trong xã hội phong kiến-mà hoàn toàn vô cảm và còn có một số "Sư" lại cam tâm đứng về phía tà quyền cùng nhau trấn áp, gây áp lực cho các học trò thương yêu của mình phải làm những việc tang tận lương tâm. Các thầy cô đó tôi thiết nghĩ không còn xứng đáng, không còn đủ tư cách để đứng trên bục giảng nữa vì trong tầm mắt của các em quí vị thật đáng khinh. Quí vị đã đánh đổi nhân phẩm cao đẹp của mình cho một mục đích rất ư là tầm thường và phi lý, nhất là nay mai đây khi P.Uyên trở lại chốn xưa thì những hình ảnh đó lại tái hiện về trong tầm mắt của các em. Hình ảnh các thầy cô đó có còn là một màu thủy tinh trong suốt? Thật là "Cười thầm dễ ở-Hổ ngươi thầm biết thuở nào nguôi???" phải không các thầy cô? Sự nghiệp của các thầy cô chắc phải trôi theo cùng chế độ trong một ngày không xa.   Nguồn: danlambaovn.blogspot.com
......

Áp lực nào buộc CSVN phải thả Phương Uyên?

Qua nay, bên cạnh niềm vui trong lòng mọi người yêu mến Phương Uyên, việc CSVN thả cô bé 21 tuổi này cũng đã tạo nhiều tranh luận giống như khi em bị chế độ CSVN giáng xuống cuộc đời non trẻ một bản án nặng nề hồi giữa tháng Năm. Có quan điểm cho rằng Phương Uyên chỉ là một “món hàng” trả giá giữa Mỹ và CSVN về Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership); có lý luận cho rằng việc thả Phương Uyên là dấu hiệu cho thấy phe thân tây phương đang mạnh hơn trong nội bộ lãnh đạo CSVN; có phân tích cho rằng giới lãnh đạo CSVN nhận ra họ đã phạm sai lầm chính trị khi giáng xuống đời một cô gái chỉ ngoài 20 tuổi bản án 6 năm tù lần trước nên nay phải sửa sai. Các lý luận đó không những chứng tỏ sự thiếu tự tin, tinh thần lệ thuộc vào ngoại bang mà còn phạm phải sai lầm căn bản là không xác định được vai trò chủ động của các thành phần dân tộc trong con đường tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam. Áp lực chính buộc nhà cầm quyền CSVN thả Phương Uyên phát xuất từ cuộc đấu tranh bền bĩ, đa dạng, tích cực và nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thế hệ Việt Nam trong nước và ngoài nước. Chính những bạn trẻ trong nước thức đêm viết từng tờ biểu ngữ, in từng tờ truyền đơn, vẻ hình Phương Uyên và Nguyên Kha trên từng chiếc áo đã góp phần làm thay đổi “bản án sáu năm tù giam” thành “bản án ba năm tù treo” của Phương Uyên. Chính các bạn trẻ ngoài nước tổ chức những đêm không ngủ, gởi hàng ngàn lá thư lên các tổ chức nhân quyền quốc tế, tổng thống và quốc hội Mỹ, các lãnh đạo châu Âu, các cơ quan nhân quyền thuộc Liên Hiệp Quốc đã giúp cho Phương Uyên được ngồi ăn bữa cơm bên mẹ chiều nay. Chính đồng bào các giới khắp nơi tại hải ngoại tích cực tham gia những cuộc biểu tình liên tục trước Tòa Bạch Ốc, điện Capitol, trước các tòa đại sứ CSVN đã giúp cho Phương Uyên tìm lại được nụ cười hồn nhiên trong vòng tay của gia đình, bạn bè và bà con thân thuộc. Các thành phần dân tộc Việt Nam trong suốt nhiều năm và qua nhiều hình thức đã làm nên những đợt sóng đập liên tục vào bức tường chuyên chính độc tài cũng như làm tiếng chuông vang vọng vào lương tri nhân loại. Ở hải ngoại, bao lớp người dầm mưa, đội nắng, đạp tuyết mà đi trong các cuộc biểu tình chống CS độc tài, đòi hỏi nhân quyền cho đồng bào Việt Nam ngay cả trong những ngày tháng vô cùng khó khăn chân ướt chân ráo mới đến định cư sau 1975. Các cộng đồng người Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung, Rumania, Bulgaria, Albany định cư tại các nước tây phương sau khi quốc gia của họ bị CS cai trị sau thế chiến thứ hai, và cả cộng đồng người Cu Ba tại Mỹ sau 1959 đã không làm được như thế. Nếu không có hàng loạt các hình thức đấu tranh được phát động ồ ạt và nhịp nhàng từ các thành phần dân tộc, chẳng một nguyên thủ quốc gia dân chủ nào, một cơ quan nhân quyền quốc tế nào biết đến Phương Uyên ngoài những bản tin nhân quyền thường lệ, và số phận của em cũng giống như số phận hàng ngàn người Việt Nam khác đang bị tù đày hay đã chết đi trong quên lãng khắp ba miền đất nước suốt ba mươi bảy năm qua. Trách nhiệm nặng nề, đôi vai nặng gánh, cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại không thể làm hết những điều cần phải làm, cứu được hết những đồng bào cần phải cứu nhưng cuộc đấu tranh chưa bao giờ dừng lại. Phân tích để thấy chính sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc là nền tảng, là nguồn lực của cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam. Quan hệ và tranh chấp quốc tế bao giờ cũng tồn tại không chỉ giữa các quốc gia thù địch, đối nghịch về quyền lợi mà ngay trong các nước đồng minh. Các dân tộc nhỏ luôn phải bị chi phối và ảnh hưởng. Điều đó không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, các bài học Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Do Thái cho thấy yếu tố quyết định cuối cùng cho số phận của một dân tộc vẫn luôn nằm trong tay của chính dân tộc đó. Và cũng phân tích để thấy không chỉ Phương Uyên mà còn rất nhiều người như Đinh Nguyên Kha, Việt Khang, Nguyễn Văn Hải, Đổ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức v.v. cần phải được tiếp tục đấu tranh. Cuộc vận động tự do dân chủ cho cả dân tộc là con đường đầy gai góc, gian nan nhưng là con đường chính nghĩa và chính nghĩa sẽ tất thắng. Trần Trung Đạo Nguồn: http://www.trantrungdao.com/?p=2440
......

Kết quả phiên tòa xử phúc thẩm Phương Uyên, Nguyên Kha và Nhật Uy

16.08.2013 Vào lúc 4 giờ 15, kết quả phiên tòa đã được công bố: • Nguyễn Phương Uyên bị 3 năm tù treo và 3 năm quản chế • Đinh Nguyên Kha bị 4 năm tù giam và 3 năm quản chế Một số nhận xét sơ khởi cho thấy đây là buổi xử án rất tùy tiện và không theo luật lệ nào. Đặc biệt trường hợp của anh Đinh Nhật Uy chưa có ngay cả cáo trạng, chưa xử sơ thẩm, lại được nhập chung vào một vụ xử phúc thẩm để "tuyên án chung". Một số người được phỏng vấn cũng suy đoán lý do tòa án không cho một thân nhân hay người chứng nào trong tòa, ngoại trừ Luật sư Nguyễn Thanh Lương, là để sau đó báo đài công cụ có thể tùy tiện thêu dệt các chi tiết rằng các bị cáo đã nhận tội, xin khoan hồng, v.v...   Một số vị khác đang có mặt bên ngoài tòa án vẫn xem bản án mới này hoàn toàn bất công vì cả 3 bị cáo chỉ hành động theo lòng yêu nước của mình và không làm điều gì sai trái. Nhà cầm quyền không chỉ thả họ ra mà còn phải xin lỗi và bồi thường vì đã bắt giam người phi pháp. Mời quí độc giả theo dõi lời tường thuật của Linh mục Đinh Hữu Thoại: https://soundcloud.com/radio_ctm/lm-dinh-huu-thoai-ve-ket-qua-toa-long-an Nhiều nhận xét khác cũng cho rằng đây là kết quả của các vận động phối hợp sức ép công luận Việt Nam và thế giới. Công luận Việt Nam dùng kết quả phiên tòa sơ thẩm để chỉ ra bản chất "Hèn với giặc - Ác với dân" của lãnh đạo đảng, và thế giới dùng những bản án nặng nề và phi lý đó để chứng minh sự bất xứng của giới lãnh đạo Việt Nam khi xin vào các định chế quốc tế và phát triển quan hệ với thế giới văn minh. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và tường trình phản ứng khắp nơi đối với bản án hôm nay. Ngọc Hạ, Vũ Quyên, Hoàng Long, Vân Quang kính chào tạm biệt 4 giờ 30 chiều ngày 16/8/2013 (giờ VN) Ảnh mới nhất của Phương Uyên sau vài phút rời nhà tù nhỏ. Vạn dòng nước mắt đã rơi để chào đón cô sinh viên mảnh mai về thể xác như rất mạnh mẽ trong tâm hồn của một người yêu nước nồng nàn, không chấp nhận độc tài, không chấp nhận ngoại xâm. Chúc mừng Phương Uyên, cha mẹ Phương Uyên cùng tất cả mọi người yêu mến, ngưỡng mộ Phương Uyên. Khi vừa bước ra khỏi cổng tòa án, Phương Uyên đã được thân nhân, bạn bè và những người ủng hộ hân hoan chào đón. Trong giấy phút đầu tiên đầy cảm động này Phương Uyên đã nói: ...WE ARE ONE... http://www.radiochantroimoi.com/phong-su/tieng-noi-dau-tien-cua-phuong-u...
......

8 LOẠI VỎ TỐT HƠN THẦN DƯỢC

(VNC-TH) Khi ăn một số loại hoa quả, bạn thường do dự có nên gọt vỏ không? Thực tế có một số vỏ quả nếu bỏ đi sẽ rất lãng phí.  - Vỏ táo chống oxy hóa Vỏ táo có hàm lượng chất xơ phong phú, hỗ trợ tiêu hóa.   Gần một nửa Vitamin C trong quả táo là nằm ở vỏ táo. Ngoài ra, nghiên cứu cho thấy, chất chống oxy hóa trong vỏ táo nhiều hơn thịt táo, thậm chí còn nhiều hơn so với một số loại trái cây khác. Đã có nhiều nhà sản xuất lấy vỏ táo để làm nguyên liệu sản xuất thực phẩm chức năng. - Vỏ lê giúp sạch tim và phổi Vỏ lê là một trong những loại thuốc giúp sạch tim, phổi, giảm nóng được dùng trong Đông y.   Vỏ lê rửa sạch thái nhỏ, cho thêm chút đường tinh có thể trị được viêm họng. Khi làm món sa-lát dưa chuột, cho thêm ít vỏ lê sẽ khiến món dưa giòn hơn và thơm ngon hơn.  - Vỏ nho giảm mỡ trong máu Vỏ nho có chứa nhiều chất resveratrol hơn thịt và hạt nho, có thể giảm mỡ trong máu, chống huyết khối, chống bệnh về động mạch, tăng cường hệ miễn dịch. Đặc biệt là chất flavonoids trong vỏ nho tím, có công hiệu giảm huyết áp. Vỏ nho còn chứa nhiều vitamin, sắt…   Hiện đã có những nghiên cứu ứng dụng vỏ nho trong chế biến thực phẩm, dùng để điều trị lượng cholesterol quá cao, tiểu đường…  - Vỏ quýt trị đầy bụng, ho đờm Vỏ quýt chứa nhiều chất dinh dưỡng như vitamin C, carotene, protein…, có thể tạo ra nhiều hương vị thơm ngon. Vỏ quýt có vị thơm, còn có thể điều trị chứng đầy bụng, ho, đờm. Khi nấu nước dùng có thể cho vài lát vỏ quýt để tăng thêm mùi vị và bớt béo.  - Vỏ dưa hấu xanh giảm nhiệt cơ thể Vỏ dưa hấu có chứa lượng đường, chất khoáng, vitamin phong phú, có tác dụng giải nhiệt, hạ nóng bài trừ mệt mỏi, giảm huyết áp rất tốt. Có thể làm món nộm, nấu canh.  - Vỏ dưa gang lợi tiểu giảm sưng phù Vỏ dưa gang rất giàu vitamin và khoáng chất. Nó có tác dụng lợi tiểu, giảm sưng phù, tốt cho cả người bị tiểu đường. Vì vậy khi làm món dưa gang nên để cả vỏ.  - Dưa vàng bài độc   Vỏ dưa vàng khá đắng nhưng chính chất đắng này giúp hấp thụ vitamin C dễ dàng hơn và giúp bài độc cơ thể. Ngoài ra, vỏ dưa vàng còn có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm.   Vỏ dưa hấu, vỏ dưa vàng, vỏ dưa gang sau khi luộc lên làm món nộm dưa kết hợp 3 trong 1 có tác dụng giảm béo rất tốt.  - Vỏ cà chua chống ung thư Chất lycopene trong vỏ cà chua có tác dụng chống oxy hóa mạnh, có thể phòng ngăn ngừa bệnh tim mạch, nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể, phòng chống ung thư. Ngoài ra, vỏ cà chua còn trợ giúp bảo vệ sức khỏe rất tốt. Do vậy, nên ăn nhiều vỏ cà chua hơn bạn nhé! Thanh Nguyễn Theo CN
......

Chanh chuyên giết tế bào ung thư

Những điểm lợi ích của trái chanh : -Trái chanh là một sản phẩm kỳ diệu chuyên giết các tế bào ung thư  - Nó mạnh gấp 10.000 lần hơn liệu pháp hóa học (chimiothérapie)  - Tại sao chúng ta không biết gì về nó (cho đến giờ nầy)  - Bởi vì có những nhà bào chế (labo) thích bào chế ra một loại thuốc với thủ thuật hổn hợp nào đó để đem lại nhiều lợi nhuận cho họ hơn mà thôi.  - Từ đây về sau quí vị có thể giúp bạn bè nào cần bằng cách cho họ biết là nước chanh rất cần thiết để ngừa bịnh.  - Mùi vị của chanh rất là tốt và nó không có gây ra những tác dụng kinh khủng như các loại liệu pháp hóa học (chimiothérapie)  -Nếu có thể, quí vị nên trồng một cây chanh trong vườn của quý vị - Đã có biết bao nhiêu người chết trong lúc bí mật nầy (của trái chanh) được dấu kín để không đụng tới tiền lời hàng tỷ bạc của những nhà kinh doanh ? - Như quý vị đã biết, cây chanh thấp, lại không tốn chỗ bao nhiêu. Và được biết có nhiều loại chanh (như chanh giấy ?) - Quí vị có thể dùng chanh với nhiều cách khác nhau: quí vị có thể ăn cả võ, vắt chanh ra uống, uống nước đá chanh đủ kiểu, làm bánh v.v.v.v…… -Người ta cho rằng trái chanh hay nhiều thứ lắm nhưng quan trọng và hay nhất là hiệu quả của nó đối với ung nhọt và bướu. - Cây chanh là một vị thuốc đã chứng minh là trị được tất cả các loại ung thư. Có những người khác còn xác nhận là nó có một công dụng rất lớn trong mọi loại biến thể của các loại ung thư - Người ta cũng còn xem chanh như là một loại thuốc chống đủ loại vi trùng, chống các loại viêm do vi khuẩn, và nấm, rất hữu hiệu chống ký sinh trùng và sâu (mầm bệnh) trong máu, nó lại có thể điều hòa được huyết áp (quá cao hay quá thấp) chống áp suất cao và rối loạn thần kinh - Tài liệu nầy có được từ một trong những nhà bào chế thuốc lớn trên thế gìới, người nầy xác nhận là sau trên 20 lần thử nghiệm từ năm 1970 ở viện bào chế, mới thấy được là: Chanh tiêu diệt các tế bào tinh quái trong 12 loại ung thư, gồm cả ung thư đường ruột ung thư ngực, vú , ung thư tiền liệt tuyến, phổi, lá lách (tuyến tụy)… - Cây chanh và trái chanh được cho thấy có hiệu quả 10.000 lần hơn sản phẩm Adriamycin, một loại thuốc hóa học thường được dùng trên thế giới để làm chậm lại sự nẩy nở của tế bào ung thư - Và còn lạ lùng hơn nữa là loại nước chanh trị bịnh nầy chẳng những diệt được các loại tế bào ung thư mà không bao giờ ảnh hưởng đến các tế bào sạch.     Viện Khoa Học và Sức Khỏe, L.L.C. 819 N. Causez Strêt, Baltimore, MD. 1201
......

Con đường “xã hội dân chủ”

Bài thứ nhất   Ý tưởng cũ, bước đột phá mới   Sau cơn đau thập tử nhất sinh, người đảng viên Lê Hiếu Đằng xưa rất “trung kiên” đã viết liền ba bài, đề xuất việc ra khỏi Đảng Cộng sản, bỏ đảng một cách tập thể, công khai, để thành lập một đảng, Đảng Xã hội Dân chủ (hay Dân chủ Xã hội). Luật gia Lê Hiếu Đằng   Hẳn ông Lê Hiếu Đằng đã biết ý tưởng đưa thể chế chính trị Việt Nam sang quỹ đạo Xã hội Dân chủ, để thoát khỏi con đường Cộng sản một cách vừa triệt để vừa “êm thấm”, như các nước Bắc Âu, đã được nung nấu khá lâu [1] nhưng nay ông mới phát ngôn bởi theo ông lúc này “thời cơ đã đến”, ông và các chiến hữu đi bước đột phá rất mới. Trước khi giới thiệu ba bài viết cũ của nhiều tác giả liên quan đến con đường Xã hội Dân chủ cho Việt Nam xin được lưu ý mấy điểm: 1/ Từ ngữ Social Democracy một số tác giả dịch là Xã hội Dân chủ, ông Mai Thái Lĩnh và một số khác đề nghị dịch là Dân chủ Xã hội để đừng lầm với khái niệm “chủ nghĩa Xã hội dân chủ” (Democratic Socialism, đây là ý tưởng riêng của một số nước Cộng sản vì thực ra đã là Cộng sản thì phải chuyên chính, ngược với dân chủ). 2/ Ngày nay tuy không còn một chủ nghĩa nào có thể đóng vai trò một khuôn mẫu giáo điều, nhưng xây dựng mỗi công trình lớn đều cần có một “triết lý” làm cơ sở huống chi sự nghiệp phát triển của một quốc gia? Ngày nay, xu thế Xã hội Dân chủ là chân lý phổ biến nhất, thành công nhất trên thế giới. “Hiện nay, Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa (Socialist International, viết tắt: SI) là một tổ chức của các đảng phái chính trị lớn nhất thế giới với 143 thành viên và đại diện là các tổ chức, các đảng theo theo lý tưởng Xã hội Dân chủ ở 140 quốc gia khắp các châu lục” […]. “Sau năm 1945, các đảng XHDC thường xuyên cầm quyền ở tất cả các nước công nghiệp phát triển, các nước Tây Âu, Bắc Âu, đã góp phần quyết định vào việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền dân chủ, xã hội công bằng văn minh và thịnh vượng” [2]. “Khi chủ nghĩa xã hội bạo lực đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu và Bắc Âu lại giành được thành công cực lớn” […]. “Thuỵ Điển là tấm gương của chủ nghĩa xã hội dân chủ, kinh nghiệm của Thuỵ Điển có giá trị phổ cập thế giới, là cống hiến vĩ đại cho văn minh nhân loại”. [3] 3/ Tuy về gốc gác, con đường Dân chủ Xã hội bắt nguồn từ Quốc tế II, anh em sinh đôi với Quốc tế III Cộng sản, song đó là con đường mở, đã dẫn đến sự đoạn tuyệt hoàn toàn với những nguyên lý sai lầm Mác-xít. “[…] phong trào XHDC ngày nay đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc truyền thống vào ý thức hệ tư tưởng” […]. “Họ hoạt động không theo chủ thuyết, hay vì chủ thuyết, mà vì con người, vì sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và xã hội, vì sự bảo vệ và phát triển hài hòa quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội” [2] 4/ Phan Châu Trinh chính là nhà “Dân chủ Xã hội” đầu tiên mang màu sắc Việt Nam, không gợn chút ảnh hưởng sai lầm nào của chủ nghĩa Mác. “Phan Chu Trinh thuộc những nhà DÂN CHỦ XÃ HỘI tiên phong, một chủ nghĩa dân chủ xã hội mang dấu ấn Việt Nam, sinh ra từ điều kiện Việt Nam. Cái chủ nghĩa xã hội nhân đạo mà ta đang định hướng về Bắc Âu để kiếm tìm thì nay chẳng những không phải tìm đâu xa, mà còn sẵn có một phương sách thích hợp hơn với dân với nước ta nữa”[4]. “Cũng đau lòng vì cảnh đất nước trong vòng nô lệ, cũng một môi trường trưởng thành là Paris nước Pháp, lại cũng yêu lý tưởng xã hội đến say mê, vậy mà khác với Nguyễn Tất Thành, Phan Chu Trinh không sa vào chủ nghĩa chuyên chính. Trước sau trong tâm hồn nhà nho cách mạng vẫn thắp sáng một ngọn đèn dân chủ” [5]. “Trong khi những người xã hội chủ nghĩa ở Pháp vẫn còn bị ràng buộc ít nhiều với chủ nghĩa Marx thì quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Phan Châu Trinh lại không có dính dáng chút gì với chủ nghĩa Marx. Không có đấu tranh giai cấp, không có sự lên án đối với chế độ tư hữu, và do đó cũng không có chủ trương quốc hữu hoá.” [5] 5/ Con đường “Xã hội Dân chủ” cho Việt Nam hoàn toàn không mâu thuẫn hay hạn chế những tư duy khác, những con đường khác, nếu cùng dẫn đến một đích chung. Chính Phan Châu Trinh chủ trương các cánh tả, cánh hữu đều phải cùng tồn tại. Đảng Dân chủ Xã hội không bài bác bất cứ đảng phái nào, kể cả hai thái cực Cộng sản và Chống Cộng, vấn đề là một đảng nào đó có ra đời được không, có được đông đảo nhân dân ủng hộ hay không là do sức sống của bản thân đảng đó quyết định. Xin nói ngay rằng chúng ta cứ bàn vấn đề đa đảng thoải mái vì Hiến pháp và Luật Việt Nam (ngay cả điều 4) không cấm đa đảng, và chính Trung Quốc Cộng sản cũng đang có 7-8 đảng kia mà, tất nhiên ta cần đa đảng thật sự chứ không cần đa đảng cuội như họ. 6/ Bàn về khả năng thành công của một con đường hay một lộ trình, tôi nhớ đến một quy luật mà tôi nhận thức được khi còn đi học. Trong các hiện tượng vật lý, hóa học, hay tiến hóa sinh học, nếu việc chuyển từ trạng thái A đến một trạng thái B nào đó có nhiều con đường thì bao giờ thực tế cũng “chọn” con đường nào có tiêu hao năng lượng thấp nhất, phải cung cấp năng lượng ít nhất! (Thế giới vô sinh cũng “khôn” đáo để!). Muốn đánh đổ một khối đá lớn không nhất thiết phải đập thẳng vào khối đá ấy nếu có giải pháp ít tốn năng lượng hơn mà đạt cùng hiệu quả, làm đúng cách có khi “bất chiến tự nhiên thành” là do biết “chiến” vào nơi yếu nhất của đối tượng. Bậc anh hùng tất nhiên cần tiết tháo và đức hy sinh, nhưng Chính trị lại khác. Chính trị là một nghệ thuật. Yếu muốn thắng mạnh thì nghệ thuật lại càng phải cao, cổ nhân dạy thế. Chỉ 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt và tình hữu nghị, chữ nghĩa mềm như bún mà buộc chặt cả một Đảng Cộng sản không biết cựa quậy ra sao, đó là “nghệ thuật” của kẻ xâm lược. Chỉ việc sang Thái Lan trao “Kiến nghị 258” của các blogger trẻ cho các tổ chức quốc tế mà mở được một bước đột phá về nhân quyền có hiệu quả thực tế, đó cũng là nghệ thuật. Lê Hiếu Đằng vận động bỏ Đảng Cộng sản để tham gia một “đảng anh em” là Đảng Dân chủ Xã hội, rất ôn tồn chững chạc và “hữu nghị” mà hiệu quả chưa thể lường trước, đó cũng là nghệ thuật. Cuộc chiến dân chủ hóa cũng như mọi cuộc chiến, phải gồm nhiều binh chủng, mỗi binh chủng có chức năng riêng, phương pháp riêng. Nếu anh lính pháo binh hay lính quyết tử lại trách sao “đội quân tóc dài” không đánh địch giống mình thì thật hài hước. Có việc người dân chủ trong nước chưa nên làm hoặc chưa thể làm, dành việc ấy cho anh em ngoài nước, ngược lại có việc chỉ người trong nước nên làm, làm giống nhau nhiều khi hỏng việc. Nhiều việc nhận thức giống nhau nhưng cách làm phải khác nhau. 7/ Tác động đúng “huyệt”, đúng nền tảng thì sai một ly đi một dặm. Nếu năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đã chuyển từ Quốc tế II sang Quốc tế III chỉ như một “cú nhích chân” nhẹ nhàng tại hội nghị Tours [6], để “đi một dặm” đến cuộc khủng hoảng toàn diện cho Dân tộc hôm nay, thì hiện nay sao ta không biết “nhích chân” rất “nhẹ nhàng” từ Cộng sản Quốc tế III trở về Quốc tế II, với nội hàm hiện đại, của con đường Dân chủ Xã hội mà thế giới văn minh đã kiểm chứng? Song chúng ta không hề ảo tưởng rằng sự “nhích chân” tưởng như nhỏ nhẹ và đơn giản này sẽ dễ dàng. Đừng quên Đảng Cộng sản không sợ các đế quốc to hay các “thế lực thù địch”, không sợ những đao to búa lớn, mà chỉ sợ nhất “người anh em sinh đôi” là phong trào Dân chủ Xã hội của Quốc tế II mà họ gọi là “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, vì chỉ có đảng Dân chủ Xã hội mới là đối thủ có thể giành mất quần chúng của họ trong nước Việt Nam này. Đọc bài “Xây dựng Đảng ta thật vững mạnh” của ông Nguyễn Đức Bình tháng 2-2006 đủ biết Đảng Cộng sản ghét (và e sợ) “người anh em” Quốc tế II như thế nào. Nhưng ghét là một chuyện, bây giờ Đảng Cộng sản có chống được hay không, là chuyện… hãy đợi đấy! H. S. P. (16/8/2013) [1] Lê Bảo Sơn - Phan Trọng Hùng, “Năm nhà trí thức phát biểu về “Con đường xã hội – dân chủ” ở nước ta”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5273&rb=0401 [2] Huệ Đăng, “Xã hội Dân chủ là xu thế ngày nay”, http://thongluan.co/vn/modules.php?name=News&file=print&sid=499 [3] Tạ Thao, “Mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và tiền đồ Trung Quốc”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10006&rb=0402 [4] Hà Sĩ Phu, “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10080&rb=0306 [5] Mai Thái Lĩnh, “Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh”,http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9307&rb=0306 [6] Hà Sĩ Phu, “Xưa nhích chân đi, giờ nhích lại”http://www.hasiphu.com/ll4.html nguồn:boxitvn.blogspot.com
......

Đồng khai thác Biển Đông : Âm mưu độc chiếm của Trung Quốc

Cách nay hơn 30 năm, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình từng đưa ra phương châm « gác tranh chấp, đồng khai thác » để xử lý các tranh chấp chủ quyền với các láng giềng. Mới đây, quan điểm này đã được Bắc Kinh nêu bật trở lại và được ngành ngoại giao cũng như truyền thông Trung Quốc đồng loạt phô trương. Quan điểm của Trung Quốc nghe rất xuôi tai, nhưng Bắc Kinh lại đòi chủ quyền ngay cả tại những vùng thuộc về nước khác- Reuters   Cách nay hơn 30 năm, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình từng đưa ra phương châm « gác tranh chấp, đồng khai thác » để xử lý các tranh chấp chủ quyền với các láng giềng. Mới đây, quan điểm này đã được Bắc Kinh nêu bật trở lại và được ngành ngoại giao cũng như truyền thông Trung Quốc đồng loạt phô trương. Tuy nhiên, trong bối cảnh Bắc Kinh đã công khai dùng đường lưỡi bò để khẳng định chủ quyền Trung Quốc trên hầu như toàn bộ Biển Đông, lời kêu gọi đồng khai thác đã vấp phải nhiều phản ứng hoài nghi. Về mặt hình thức, phải nói là quan điểm của Trung Quốc nghe rất xuôi tai, vì Bắc Kinh cho biết là họ sẵn sàng đưa vào diện đồng khai thác những vùng mà Trung Quốc có chủ quyền. Vấn đề tuy nhiên là Bắc Kinh lại khẳng định chủ quyền ngay cả tại những vùng mà theo luật lệ quốc tế thuộc về nước khác, và luôn luôn cho biết là họ không khi nào từ bỏ chủ quyền đó. Mới đây, chính nhân vật số một hiện thời của Trung Quốc là Tập Cận Bình đã nhắc lại phương châm này. Theo Tân Hoa Xã, hãng tin chính thức của Trung Quốc, nhân một hội nghị của Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Trung Quốc (31/07/2013), ông Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng Bắc Kinh « sẽ tuân thủ chính sách gác tranh chấp và thực hiện phát triển chung trong các khu vực mà Trung Quốc có chủ quyền ». Chủ trương gác tranh chấp để đồng khai thác trên đây không phải là một ý kiến mới, mà chỉ lập lại về căn bản đề nghị từng được cố lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đưa ra vào cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980 khi nhắc đến các tranh chấp giữa Bắc Kinh và các láng giềng, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật Bản hay Ấn Độ. Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có những động thái hung hăng nhằm áp đặt các yêu sách chủ quyền của họ trên cả hai vùng Biển Đông và Biển Hoa Đông, tuyên bố của ông Tập Cận Bình có thể được xem là thể hiện một sự chuyển đổi chính sách sang một hướng ôn hòa hơn. Theo một số nhà phân tích, có lẽ Trung Quốc muốn xoa dịu các láng giềng vì lẽ các hành động cứng rắn của Bắc Kinh, đặc biệt trên Biển Đông, đã ngày càng xô đẩy các nước nhỏ trong vùng có tranh chấp với Trung Quốc – Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei – xích lại gần Mỹ để mưu cầu một sự can thiệp nhằm giải tỏa áp lực từ cường quốc phương Bắc. Sách lược giai đoạn trong chiến lược thâu tóm Biển Đông Tuy nhiên, nếu xem kỹ các phát biểu của ông Tập Cận Bình với các thành viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản, tức là cơ chế lãnh đạo Trung Quốc, thì rõ ràng là chủ trương ‘gác tranh chấp, đồng khai thác’ chỉ là một sách lược giai đoạn trong chiến lược của Bắc Kinh nhằm thâu tóm toàn bộ Biển Đông. Bên cạnh lời lẽ đầy tính chất ôn hòa như là Trung Quốc sẽ « sử dụng biện pháp hòa bình và đàm phán để giải quyết tranh chấp và phấn đấu để bảo vệ hòa bình và ổn định », lãnh đạo Trung Quốc vẫn xác định rằng nước ông sẽ « không bao giờ từ bỏ quyền lợi chính đáng, cũng như các lợi ích quốc gia cốt lõi của mình ». Trong một bài phỏng vấn dành cho Báo Giáo dục Việt Nam ngày 07/08/2013 vừa qua, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam, một chuyên gia nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông, đã nhấn mạnh đến lời cam kết không từ bỏ « lợi ích quốc gia cốt lõi » trong phát biểu của ông Tập Cận Bình. Theo ông Trần Công Trục : « Ông Tập Cận Bình nêu ra phương châm này với ngôn từ mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn so với những gì lãnh đạo Trung Quốc trước đây đã nói : "Chủ quyền thuộc TQ, gác tranh chấp, cùng hợp tác". Điều đó cho thấy chiến lược độc chiếm Biển Đông thành ao nhà của Trung Quốc vẫn không có gì thay đổi, thậm chí đang được đẩy mạnh ».  Đối với ông Trục, trong bối cảnh Bắc Kinh khẳng định rằng quyền lợi hợp pháp của họ ở Biển Đông bao gồm 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam cùng với đường lưỡi bò chiếm 85% diện tích Biển Đông, thì bản chất tuyên bố của ông Tập Cận Bình « hoàn toàn không phải hợp tác cùng khai thác “trên vùng biển chồng lấn hình thành trên cơ sở các yêu sách chủ quyền xác lập theo quy định của UNCLOS”. »   Trái lại mưu đồ của Trung Quốc, theo ông Trục, là thông qua yêu sách chủ quyền vô lý trên 85% diện tích Biển Đông để « ‘nhảy vào xí phần’ trong khu vực thềm lục địa của các nước ven Biển Đông… từ đó biến các vùng biển không tranh chấp thành các vùng biển tranh chấp… Sau khi đạt được mục đích này, Trung Quốc sẽ tiếp tục phái lực lượng khống chế các khu vực thuộc phạm vi họ nói là có chủ quyền. » Phải nói rằng đây không phải là lần đầu tiên mà Bắc Kinh hô hào các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ngoài Biển Đông tạm gác tranh chấp để cùng nhau khai thác các nguồn lợi kinh tế trong khu vực. Đồng khai thác nhưng vấn đề là khai thác ở đâu ! Đối với Việt Nam, ý tưởng này luôn luôn được Trung Quốc gợi lên với các lãnh đạo Việt Nam, mà gần đây nhất là nhân chuyến công du của chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vào tháng Sáu. Trong bản tuyên bố chung Việt-Trung, trong phần đề cập đến Biển Đông có đoạn ghi : « Hai bên sẽ… tích cực nghiên cứu và bàn bạc vấn đề hợp tác cùng phát triển ». Trong bản “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, ký kết từ tháng 10 năm 2011 và sau này luôn luôn được nêu lên thành một văn kiện căn bản cần tuân thủ trong việc giải quyết hồ sơ tranh chấp Biển Đông giữa hai nước, vấn đề đồng khai thác cũng được gợi lên. Ngay từ khi ấy, giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) đã ghi nhận rằng vấn đề đồng khai thác là một bài toán khó giải quyết : Vấn đề hợp tác đồng khai thác cũng đã được đề xuất từ lâu. Điều này chỉ có thể xúc tiến được nếu cả hai bên đồng ý trên một điều khoản theo đó việc cùng nhau khai thác phát triển không làm phương hại đến các tuyên bố chủ quyền của mỗi bên. Ngoài ra, Việt Nam sẽ phải cẩn thận xem xét khu vực được chọn để làm nơi đồng phát triển. Khu vực đó không được quyền ảnh hưởng đến một bên thứ ba. Trong vấn đề này, Việt Nam cũng phải chú ý xem là việc chia sẻ dầu khí sẽ được thực hiện trên cơ sở bình đẳng hay là Trung Quốc sẽ dành phần lớn ? Cái khó cho Việt Nam là ý tưởng của Trung Quốc lại được một vài nước tranh chấp với Trung Quốc ít nhiều tán đồng. Một ví dụ điển hình là trường hợp Malaysia. Ngay từ trước lúc ông Tập Cận Bình nói rõ chủ trương của Bắc Kinh, Thủ tướng Malaysia Najib Razak đã từng lên tiếng kêu gọi các nước trong khu vực Biển Đông cùng nhau hợp tác khai thác tài nguyên để tránh xung đột và ngăn chặn sự can dự của những quốc gia bên ngoài. Trong một bài phát biểu ngày 04/06/2013 được hãng tin Mỹ Bloomberg trích dẫn, Thủ tướng Malaysia đã nêu ví dụ về vùng biển tranh chấp giữa Thái Lan và Malaysia đang được phát triển chung như là một tiền lệ tốt có thể áp dụng tại Biển Đông. Tuyên bố của ông Najib Razak đã bị nhiều nhà quan sát cho rằng thể hiện quan điểm của Bắc Kinh, có hại cho sự đoàn kết trong khối Đông Nam Á ASEAN trước các thủ đoạn chia rẽ của Trung Quốc. Trên vấn đề này, trong một nhận định ngày 07/06/2013, giáo sư Carlyle Thayer không nghĩ rằng Malaysia về hùa với Trung Quốc vì theo ông, cả bốn quốc gia ASEAN đang tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc - từ Việt Nam, Philippines cho đến Malaysia, Brunei – đều đồng ý trên nguyên tắc về khả năng đồng khai thác. Vấn đề cốt lõi là khai thác chỗ nào. « Bốn quốc gia tranh chấp có thể được chia thành hai loại, các nước trên tuyến đầu (Philippines và Việt Nam) và các nước ở hàng sau (Brunei và Malaysia). Các quốc gia tuyến đầu đã phản ứng rất mạnh mẽ trước Trung Quốc vì Trung Quốc đã đánh vào các hoạt động khai thác dầu khí (cắt cáp trong vùng EEZ của Việt Nam và gây hấn với Philippines ở vùng Reed Bank - Bãi Cỏ Rong) được coi là lợi ích sống còn của Việt Nam và Philippines. Còn Brunei và Malaysia đã áp dụng chính sách hòa hoãn hơn để giải tỏa áp lực của Trung Quốc. Không nước nào trong số bốn quốc gia tranh chấp bác bỏ việc đồng phát triển trên nguyên tắc. Các cuộc đàm phán không liên tục đã diễn ra giữa một công ty dầu khí Philippines và tập đoàn Trung Quốc CNOOC (nhưng chưa được chính quyền Manila ủng hộ và có nguy cơ bị Quốc hội Philippines chống đối). Câu hỏi thiết yếu liên quan đến việc đồng phát triển là nơi được chọn để khai thác. Kế hoạch đồng khảo sát địa chấn ngoài biển JMSU ban đầu giữa Philippines và Trung Quốc (và sau đó có thêm Việt Nam) lại được thực hiện trong vùng biển của Philippines (2005 - 2008). Các nước tranh chấp rất lo ngại trước nguy cơ sự phát triển chung củng cố thêm yêu sách chủ quyền của Trung Quốc… » Vấn đề đồng khai thác ở đâu cũng là điểm được Giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia tại trường Đại học Maine (Hoa Kỳ) nêu bật khi được hỏi về phát biểu của Thủ tướng Malaysia Najib Razak. Không thể chấp nhận đồng khai thác trong vùng EEZ của nước khác Trả lời câu hỏi của RFI, giáo sư Long xác định rằng không thể chấp nhận việc đồng khai thác trong vùng đặc quyền kinh tế EEZ của một nước, vốn dĩ không phải là vùng tranh chấp. Tuy nhiên, đều đó là vùng chồng lấn giữa thềm lục địa hai bên, việc phát triển chung hoàn toàn có thể đặt ra, như những gì Việt Nam và Trung Quốc đã làm tại vùng Vịnh Bắc Bộ. Ngô Vĩnh Long : Trước hết, phải biết rõ xem đề nghị của Malaysia thuộc vùng tranh chấp nào. Vùng EEZ đương nhiên không phải là vùng tranh chấp. Nếu có tranh chấp, thì đó là vùng thềm lục địa giữa nước này và nước kia, giống như ở Vịnh Bắc Bộ, nơi Việt Nam đã phân định vùng biển giữa hai quốc gia.  Nhưng ở trên lằn phân định đó, từ năm 2006 đến nay, Việt Nam và Trung Quốc đã có những đề án thăm dò chung, khai thác chung. Gần đây, nhân chuyến thăm Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang, hai bên còn quyết định thăm dò, khai thác nhiều hơn nữa.  Thành ra đó là chuyện giữa vùng phân định. Nếu Malaysia nói là đó là vùng phân định giữa Malaysia với Việt Nam hay là giữa Việt Nam với Thái Lan, và hai bên sẽ thăm dò, khai thác chung, thì tôi thấy điều đó hợp lý. Nhưng sẽ không hợp lý nếu Malaysia nói rằng trên vùng EEZ của mỗi nước thì Trung Quốc sẽ có thể vào thăm dò và khai thác chung. Tôi nghĩ rằng Malaysia không có quyền nói như vậy ! Bởi vì điều đó ngược lại với công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Có thể Malaysia cho rằng những khu vực như vùng đang tranh chấp ở quần đảo Trường Sa, nên được khai thác chung trước khi phân định. Tôi nghĩ rằng điều đó cũng được ! Khai thác chung rồi sau này phân định cũng được, hay là như tôi đã đề nghị, là tất cả những hòn đảo ở vùng Trường Sa không có EEZ, mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý thôi, tức là mở rộng vùng biển quốc tế ra để cho mọi người cùng khai thác. Nếu Malaysia nói như vậy, tôi thấy cũng được, cũng có lý. Nhưng Malaysia không có quyền nói là những vùng EEZ của nước khác bị Trung Quốc đưa ra cái đường lưỡi bò để chiếm, rồi nói là vùng này là của tôi, rồi hai bên cùng khai thác, thì cái đó là không được. RFI : Theo giáo sư thì đúng là quan điểm đồng khai thác chỉ có thể được áp dung trong trường hợp khai thác vùng trùng lắp giữa EEZ của hai nước, nhưng không thể nào áp dụng trong trường hợp như là Trung Quốc đang muốn thúc đẩy : Khoanh một vùng rất lớn, tự nhận chủ quyền trên đó, ăn sâu vào thềm lục địa của các nước khác rồi yêu cầu đồng khai thác những vùng nằm trong EEZ của các láng giềng ? Ngô Vĩnh Long : Vâng… Trung Quốc không thể nào đòi như thế được. Với Malaysia, tôi xin thêm là (năm 2009), Việt Nam và Malaysia có đồng ý là hai bên sẽ không tranh giành một vùng mà hai bên đòi (chủ quyền).  Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển thềm lục địa hay là EEZ của mỗi nước được 200 hải lý. Nhưng nếu có vùng nào mà biển ngoài khơi rất rộng, nhưng không động chạm đến EEZ của nước khác, thì các nước trên thế giới có quyền xin đến 350 hải lý. Lúc đó, Malaysia và Việt Nam xin Liên Hiệp Quốc nới rộng ra đến 350 hải lý, nhưng khi xin như vậy, đòi hỏi của hai bên dẫn đến một vùng tranh chấp, (do đó) Việt Nam và Malaysia đã đồng ý rằng « vùng này có thể trở thành vùng khai thác chung » Bây giờ, nếu Malaysia nói rằng « Thôi vùng này chúng ta có thể biến thành vùng khai thác chung, không những giữa Malaysia với Việt Nam, mà có thể có với những nước khác nữa », điều đó có nghĩa là Malaysia nói sẵn sàng rút lại còn 200 hải lý, và mở rộng vùng biển ở ngoài khơi cho tất cả các nước trong khu vực khai thác chung. Nói như thế thì cũng giống như đề nghị của tôi, là không có một đảo nào được 200 hải lý, mà rút lại còn 12 hải lý theo Luật Biển của Liên Hiệp Quốc, mở rộng vùng khai thác chung cho tất cả các nước trong khu vực. Tôi thấy rằng điều đó không những hợp lý, mà cũng có thể (giúp) giải quyết các vấn đề ở Biển Đông một cách hòa bình và có lợi cho mọi bên. Nguồn: RFI
......

Việt Nam Cần một xả hội dân sự mạnh chống TQ.

Luật gia Lê Hiếu Đằng: “Một xã hội dân sự mạnh mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh” (Trả lời phỏng vấn BVN) Trong căn buồng chật chội ông đang nằm chống chọi với căn bệnh ác tính tại nhà riêng, Lê Hiếu Đằng (LHĐ) gượng ngồi lên tiếp chúng tôi. Xanh, gầy, hai chân hơi phù, bàn tay đưa ra mềm và không có được hơi ấm nóng, ông nói nhỏ, chầm chậm. Rõ ràng ông đang rất yếu. Nhưng khi chúng tôi ngỏ ý muốn phỏng vấn để ông nói rõ thêm những ý tưởng của mình sau bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh ông đã gửi gắm trên BVN, mắt ông sáng hẳn lên, giọng nói bỗng khoẻ lên và ngày càng mạnh mẽ. So với ngày ông tiếp chuyện BVN lần đầu tiên cách đây gần ba năm để rồi cho ra đời hai bài viết đầu tiên của ông trên thế giới mạng “lề trái” (Dân chủ là giải pháp cho các vấn đề của đất nước,…), ý kiến của ông về con đường dân chủ hoá giờ đây thật dứt khoát, triệt để, rõ ràng. Nhưng hôm nay câu chuyện của chúng tôi có lúc trầm xuống, ông nghẹn ngào, mắt ứa lệ khi nói đến việc lý tưởng Cách mạng bị phản bội, nhân dân đau khổ triền miên. Vận nước đã đến hồi “bĩ cực”, không thể trì hoãn việc dân chủ hoá, xây dựng thể chế đa đảng để đất nước thoát khỏi hiểm nghèo. Bauxite Việt Nam BVN: Trong bài Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh mới đăng trên BVN và đang được lan truyền rộng rãi trên mạng, ông đã nói rõ quan điểm phải có thể chế đa đảng cho nước Việt Nam. Xin hỏi quan điểm ấy đã hình thành như thế nào trong ý thức tư tưởng của một người đảng viên Cộng sản trung kiên như ông? LHĐ: Thực ra đã lâu, từ khi tôi là giảng viên triết học Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học, tôi đã thấy chủ trương cấm đa nguyên đa đảng là không phù hợp với ngay chủ thuyết Mác. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải công nhận kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, tồn tại nhiều giai cấp với những lợi ích khác nhau, thì cơ sở hạ tầng ấy quyết định kiến trúc thượng tầng phải có đa đảng để bảo vệ quyền lợi của các nhóm xã hội khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương không đa nguyên đa đảng nhưng điều này chưa hề thể chế hoá thành văn bản pháp luật, quyền tự do lập hội vẫn được Hiến pháp thừa nhận tuy đã bị trì hoãn mãi không thực thi. Những điều này tôi suy nghĩ đã lâu rồi. Vấn đề là thời điểm nào thì thích hợp để nêu ra. Hiện nay, những khuynh hướng đối lập với Đảng Cộng sản đã xuất hiện, tại sao ta không có những chính đảng ra đời để khắp trong Nam ngoài Bắc, khi có những ý kiến phản đối đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản thì lập tức được đưa ra công khai? Ngay trong Đảng Cộng sản, ngày càng nhiều đảng viên muốn ra khỏi đảng hoặc đã lẳng lặng bỏ sinh hoạt đảng. Tại sao việc này lại không làm công khai? Tại sao ta không nghĩ đến việc lập ra một chính đảng, vì đó là quyền công dân được Hiến pháp bảo hộ. Còn vì sao ta nên lập một đảng xã hội dân chủ? Ta biết rằng chính “Mác già” cũng đã bỏ chủ trương chuyên chính vô sản thay bằng con đường xã hội dân chủ như đường lối của Đệ Nhị Quốc tế. Trên thế giới hiện nay, dân chủ xã hội là trào lưu mạnh mẽ, là xu hướng tiến bộ nhất. Đi theo con đường này, ta có chỗ dựa vững chắc ở bạn bè quốc tế. Ta cũng đã từng có hai đảng Dân chủ và Xã hội, nay cũng có thể khôi phục hai đảng này, nhưng nội dung phải hoàn toàn khác, thực chất là đối lập chứ không phải “bánh vẽ”, hình thức, chỉ là công cụ của Đảng Cộng sản như trước đây. BVN: Cũng có ý kiến cho rằng các đảng viên tốt không nên ra khỏi Đảng Cộng sản, mà phải ở lại để làm cho Đảng chuyển hoá. Ông nghĩ thế nào về ý kiến này? LHĐ: Điều đó là hy vọng đã lâu, nhưng đến nay thì tôi đánh giá là không còn khả năng. Bởi vì những người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã không chứng tỏ được họ vì quyền lợi của đất nước. Chỉ một cái khẩu hiệu “còn Đảng, còn mình” của công an là đủ cho ta biết họ vì cái gì? Có một số vị cấp tiến như Võ Văn Kiệt muốn thay đổi, nhưng cũng bất lực và không thể thoát khỏi sự ràng buộc của Đảng. Cho nên phải có một xã hội dân sự mạnh để kiểm soát quyền lực nhà nước, mà đảng chính trị là hình thức cao nhất của xã hội dân sự. BVN: Có sự lo ngạỉ rằng: đấu tranh có tổ chức là hình thức mà chính quyền kỵ nhất, nên việc lập chính đảng sẽ bị trấn áp tàn khốc. Ông có sợ điều đó xảy ra? LHĐ: Tất nhiên sẽ có sự đàn áp, và bắt bớ là chuyện rất có khả năng xảy ra. Nhưng nếu đã là một tập thể mạnh thì sợ gì bắt bớ. Tôi có thể bị bắt, một số người đi đầu có thể bị bắt, nhưng những người còn lại sẽ tiếp tục đấu tranh, sẽ có hàng trăm, hàng ngàn người tiếp tục chiến đấu, không thể bắt hết mọi người. Thời gian vừa qua cho thấy ngày càng nhiều người dũng cảm lên tiếng, và lên tiếng ngày càng mạnh mẽ, có nhiều người mà mình không ngờ. Ngay trong Hội đồng Dân chủ & Pháp luật thuộc Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khi góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992, tôi rất bất ngờ vì có những vị trưóc đây rất “hiền lành” nhưng nay lại quyết liệt đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp vì cho rằng nếu duy trì điều này thì không bao giờ có được dân chủ thật sự, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân chỉ là công cụ để hợp thức hoá sự độc quyền của Đảng Cộng sản mà thôi. Hay vụ Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, văn bản 72 người ký còn nêu vấn đề một cách nhẹ nhàng, nhưng khi bản Dự thảo sửa đổi lần 4 đưa ra trình Quốc hội, thì 40 người lên tiếng phản đối rất quyết liệt, đòi đa nguyên đa đảng rõ ràng. Vậy thì đừng lo chuyện bắt bớ. Riêng tôi, tôi không sợ bị bắt. Mình không thể  lùi bước khi người dân đã chịu quá nhiều đau khổ [ông nghẹn ngào một lúc rồi mới nói tiếp]…, người dân đã hy sinh quá nhiều, để rồi có một chế độ như ngày nay so với chế độ Sài Gòn còn tệ hơn. Sự hy sinh kéo dài của người dân hầu như vô ích, những mục tiêu của cuộc Cách mạng là Độc lập, Tự do đã bị phản bội. Tôi không thể chấp nhận điều đó. BVN: Còn một lập luận nữa, cho rằng lúc này phải tăng cường đoàn kết toàn dân để chống lại nguy cơ Bắc xâm, vậy việc ly khai Đảng Cộng sản có lợi hay có hại? LHĐ: Phải đoàn kết, nhưng vấn đề là đoàn kết dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một chính đảng lấy quyền lợi của đất nước, của dân tộc, của nhân dân là lý do tồn tại duy nhất, chứ không phải vì quyền lực, vì lợi ích phe nhóm như hiện nay. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta không thể trông cậy vào ai khác ngoài sức mạnh của dân tộc. Một chính đảng đối lập chính là kháng thể để chống những căn bệnh đã trở nên bất trị do thể chế độc tài tạo nên cho xã hội, cho dân tộc. Chúng ta chỉ có thể đoàn kết với sự đối thoại công bằng, sự đồng thuận về mục tiêu, lý tưởng. BVN: Ngoài những điều đã viết đã nói ra, ông còn những điều gì muốn chia sẻ với bạn đọc BVN? LHĐ: Có hai việc bây giờ ta phải làm. Một là về tư tưởng, phải kiên quyết từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin đã quá lạc hậu. Phe gọi là Cộng sản chỉ còn Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, chưa kể Bắc Triều Tiên với thể chế quái dị không biết ta có ôm vào phe mình hay không, nếu có thì quá xấu hổ. Về công việc thực tế, bây giờ phải tập trung xây dựng xã hội dân sự mạnh, trong đó có chính đảng đối lập. Phải bắt đầu cho cuộc vận động thành lập một chính đảng mới. Một xã hội dân sự mạnh mới có thể làm áp lực để Đảng Cộng sản cầm quyền phải thay đổi theo hướng dân chủ. Như vậy mới mong huy động được sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại bành trướng Bắc Kinh. BVN: Mấy ngày qua, có nhiều thư của bạn đọc trong, ngoài nước gửi tới hưởng ứng bài viết và lo lắng cho sức khoẻ của tác giả. Xin thay mặt tất cả bạn đọc của BVN cầu chúc ông vượt qua được bệnh tật hiểm nghèo để tiếp tục đóng góp cho cuộc đấu tranh dân chủ đang ở bước gian nan nhưng đường đi đã rộng mở, chắc chắn sẽ thành công. Nguồn: BoxitVN
......

Bỏ đảng, lập đảng khác

Năm ngoái mục này viết một bài với tựa đề: “Người biết suy nghĩ, sẽ từ bỏ đảng Cộng sản.” Vừa rồi, trên mạng Bô Xít Việt Nam mới đăng một bài của ông Lê Hiếu Đằng với ý kiến tương tự. Ông Lê Hiếu Đằng viết: “ (T)ôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng. Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân Chủ Xã Hội,...”   Lê Hiếu Đằng viết như vầy: “Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập... Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo và thông qua Hiến Pháp mới.” Đó là điều mà các người tranh đấu hiện nay, ở trong và ngoài nước đều đồng ý. Ông đi xa hơn với một bước cụ thể, đề nghị các đảng viên cùng ý hướng hãy thành lập một đảng mới, đứng ra đối lập với đảng Cộng sản đang cầm quyền. Trong bài viết năm ngoái, tôi đã nêu ra nhiều lý do khiến các đảng viên cộng sản “biết suy nghĩ,” phải từ bỏ đảng. Xin nhắc lại một vài đoạn để tóm tắt như sau: “Quý vị vào đảng Cộng sản vì tin ở chủ nghĩa Mác, Lê Nin? (A) Bây giờ còn ai tin tưởng ở các lý thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của ông Karl Marx nữa hay không? (B) Còn ai thấy các lý thuyết của Lenin có ích lợi cho dân tộc mình, hay chỉ là cái gông xiềng buộc chặt lên đầu, lên cổ cả dân tộc? “Tai họa của nước ta là do những người đã đem chủ nghĩa Mác Lê Nin vào đặt lên đầu lên cổ cả dân tộc. Từ đó, họ đã đi tới những lựa chọn sai lầm tàn phá đất nước, khi biết thì đã quá trễ. (1) Tai họa thứ nhất là tổ chức kinh tế theo lối Liên Xô, mà hiệu quả ai cũng biết. (2) Tai họa thứ hai là tổ chức chính quyền chuyên chế, lấy bạo lực, công an để bảo vệ quyền hành; nhưng sau khi đã dựng lên rồi thì chính guồng máy chuyên chế đó tự phát triển, tự bảo vệ nó; không thể nào nó tự thay đổi được nữa. (3) Tai họa thứ ba là chủ trương gây thù hận, phương pháp dùng dối trá để củng cố quyền hành. Từ thói quen dối trá đó, cả xã hội suy đồi vì người lương thiện không thể sống được. Lựa chọn theo chủ nghĩa Mác Lê Nin đã tạo ra tất cả các tai họa trên. “(4) Cũng vì theo chủ nghĩa Mác Lê Nin cho nên đảng Cộng sản đã phạm sai lầm ngoại giao lớn trong việc chọn đồng minh; mà không nghĩ tới mối nguy hiểm trong tương lai.” Tai họa thứ tư này đưa tới hậu quả là đi theo Cộng sản Trung Quốc: ‘Vì vậy mới giết hàng trăm ngàn người vì cải cách ruộng đất; vì vậy mới sinh ra cái công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958. Từ đó mới ngậm miệng làm ngơ không dám phản đối Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974.’” Những điều tóm tắt trên đây được trình bày với thái độ khách quan, bình thản, ý kiến của một người đứng ngoài. Dù người đảng viên hoặc không là đảng viên cộng sản, cũng có thể nhìn thấy những lý lẽ đó. Một đảng viên cộng sản chắc sẽ nhìn vấn đề theo cách khác, nhưng cũng có thể đi tới cùng một kết luận. Trong bài viết mới công bố, lấy tựa đề “Suy nghĩ trong những ngày nằm bịnh...” Lê Hiếu Đằng đã “tính sổ đời mình” từ lúc gia nhập đảng Cộng sản cho tới những ngày nằm trong bệnh viện có thời giờ suy nghĩ lại. Những ý nghĩ của ông cũng dẫn đến ý kiến các đảng viên cộng sản phải “tuyên bố tập thể” quyết định của họ cùng rút ra khỏi đảng. Nhưng lời lẽ ông dùng chứa đựng nhiều cay đắng hơn. Về đối ngoại, ông tố cáo: “Sau khi hy sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam muốn làm việc gì đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta...” Đối với cả chế độ ông cũng nói: “Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo...” Trả lời đài RFI phỏng vấn, Lê Hiếu Đằng nói về toàn cảnh xã hội “xuống cấp,” “Có thể nói là xuống cấp một cách toàn diện, khủng hoảng toàn diện!” Cũng trong bài phỏng vấn, ông nói rõ hơn: “Có nhiều người cũng đến gặp tôi và chán nản đòi ra khỏi đảng. Hoặc là (giấy chuyển) sinh hoạt đảng thì đem về không đưa cho địa phương mà bỏ vào ngăn kéo, coi như không sinh hoạt đảng nữa. Như vậy tại sao khi vào đảng thì (công khai), bây giờ anh nên công khai, tuyên bố đàng hoàng vì sao tôi ra khỏi đảng?” Và giải thích thêm: “Vì đảng này bây giờ họ đã phản bội lại những mục đích ban đầu về việc xây dựng một xã hội tốt đẹp, thực hiện lý tưởng mà một thời trai trẻ mình đã đổ biết bao xương máu...” Trong lời giới thiệu bài viết của Lê Hiếu Đằng, mạng lưới Bô Xít Việt Nam còn viết nặng nề hơn, coi chế độ cộng sản hiện nay là “một cái ách cực kỳ phi lý” mà dân Việt đang phải đeo trên cổ (như cái ách đè trên cổ trâu bò). Rồi kết luận: “Câu nói âm thầm từ muôn miệng hình như đang cùng muốn thốt lên: Hãy hất nó xuống khe vực để đứng thẳng dậy, sánh bước cùng nhân loại văn minh.” Sau đề nghị ra khỏi đảng với hành động tập thể, Lê Hiếu Đằng đề nghị thành lập một đảng khác. Ông đặt câu hỏi: “Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều (này?) Nhận xét “tình hình đã chín mùi” được giải thích khi Lê Hiếu Đằng nói với đài RFI: “...có nhiều đảng viên đồng tình với việc làm đó, nên tôi mới đề nghị như vậy. Và đã ra khỏi đảng thì phải thành lập một đảng mới.” Và ông lý luận rằng, “Chủ trương không (chấp nhận) đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng (Cộng sản) chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta.” Tất nhiên, những người ngoại cuộc có thể nhìn thấy một kẽ hở trong lý luận đó. Nhiều người sẽ phê bình rằng ông quá ngây thơ. Xưa nay đảng Cộng sản vẫn chẳng bao giờ quan tâm đến luật pháp, đến nguyên tắc pháp lý, cũng như các quyền công dân! Có nhạc sĩ Việt Khang, nông dân Đoàn Văn Vươn và hàng vạn người khác sẵn sàng làm chứng. Nhưng Lê Hiếu Đằng vẫn nêu lên lý lẽ trên, vì một mục tiêu của ông là “thách thức” đảng Cộng sản đấu lý công khai. Những luật gia như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ cũng đều dùng pháp lý để tranh đấu; mặc dù họ biết chế độ cộng sản vốn bất chấp luật pháp. Các luật gia này đã và đang bị tù. Liệu Lê Hiếu Đằng sẽ bị chung số phận hay không? Câu trả lời là: Tùy theo phản ứng của các đảng viên vẫn là bạn bè của ông. Hãy chờ coi họ có bỏ rơi ông hay sẽ can đảm đi cùng ông. Trong bài bình luận viết năm ngoái, chúng tôi đã hình dung chuỗi hậu quả: “(Khi) Một số người đông đảo và có danh tiếng tuyên bố từ bỏ đảng, họ có thể kêu gọi các đảng viên có lương tâm cùng dứt khoát rút ra khỏi đảng. Khi số người bỏ đảng đông hơn, gây thành một phong trào lớn khắp nước, thì các biện pháp trả thù và đàn áp của guồng máy (nhà nước cộng sản) sẽ mất hiệu lực. Các đảng viên khác sẽ không sợ hãi nữa, nhiều người sẽ làm theo.” Một chuyện tình cờ là cuối tuần qua, cũng trong mục này, chúng tôi đã nhắc lại đề nghị các đảng viên cộng sản nên từ bỏ đảng. Nhân dịp ngày giỗ Trung Tướng Trần Độ, một đảng viên công thần đã bị trục xuất hơn mười năm trước. Chúng tôi viết: “Cái dấu hiệu ‘bị đảng trục xuất’ là một huy chương gắn trên quan tài ông” (để con cháu ông sau này có thể hãnh diện về cha, ông mình). Bài tuần qua cũng đặt lại một câu hỏi cho các đảng viên cộng sản bây giờ: “Họ muốn tự mình từ bỏ đảng hay là chờ tới ngày cũng bị trục xuất (như Trần Độ)? Nếu hàng ngàn người cùng tuyên bố bỏ đảng một lúc thì hàng trăm ngàn đảng viên khác sẽ theo.” Quan sát từ bên ngoài, chúng ta không biết “tình hình đã chín mùi” đến mức nào. Cho nên khó ước đoán một phong trào như vậy sẽ bùng lên hay không. Nhưng có thể tin một người trong cuộc đã thấy nó “chín mùi.” Những ý kiến của Lê Hiếu Đằng được nêu ra công khai cho thấy người dân Việt Nam đã hết sợ, hết sợ từ lâu rồi. Không những hết sợ, người ta còn khinh bỉ cái câu lạc bộ “chỉ dành cho những người nói láo.” Đảng Cộng sản như một bức “trường thành” đang bị nứt. Chân đế đã mục nát; những khe nứt rạn ngày càng nhiều, càng mở rộng ra. Khách quan mà xét thì cũng thấy họ không có cách nào cứu chữa. Họ có muốn đàn áp thì phản ứng ngược lại của người dân càng nhiều hơn và mạnh hơn; người ta càng khinh bỉ lại càng bớt sợ. Bức trường thành sẽ sụp đổ. Dân Việt Nam sẽ “hất nó xuống khe vực.” Nguồn: nguoi-viet.com/
......

Pages